Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường ksnb tại trung tâm y tế dự phòng huyện mai sơn tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.74 KB, 132 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BIỂU, SƠ ĐỒ
TÓM TẮT LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU 1
TÊN SỔ 51
LOẠI 2: TÀI SẢN CỐ ĐỊNH 5
LOẠI 3: THANH TOÁN 6
LOẠI 4 – NGUỒN KINH PHÍ 7
LOẠI 5: CÁC KHOẢN THU 8
LOẠI 0: TÀI KHOẢN NGOÀI BẢNG 9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Việt Viết đầy đủ
BCTC Báo cáo tài chính
BHXH Bảo hiểm xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
BTC Bộ Tài chính
BYT Bộ Y tế
CMKT Chuẩn mực kế toán
CP Chính phủ
KPCĐ Kinh phí công đoàn
KSNB Kiểm soát nội bộ
HCSN
Hành chính sự nghiệp
NĐ Nghị định
NXB Nhà xuất bản
QĐ Quyết định
TSCĐ Tài sản cố định


TW Trung ương
TK Tài khoản
Từ viết tắt tiếng Anh Viết đầy đủ
ADB Asian Development Bank
COSO Committee of Sponsoring Organizations
EC European Commission
IPSAS International Public Sector Accounting Standards
DANH MỤC CÁC BIỂU, SƠ ĐỒ
BIỂU
MỞ ĐẦU 1
MỞ ĐẦU 1
TÊN SỔ 51
LOẠI 2: TÀI SẢN CỐ ĐỊNH 5
LOẠI 3: THANH TOÁN 6
LOẠI 4 – NGUỒN KINH PHÍ 7
LOẠI 5: CÁC KHOẢN THU 8
LOẠI 0: TÀI KHOẢN NGOÀI BẢNG 9
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Với cơ chế tự chủ về mặt tài chính hiện nay các đơn vị sự nghiệp cần phải
kiểm soát chặt chẽ về chi phí, phải tự tính toán, đảm bảo sử dụng nguồn thu, chi đạt
hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo sự chủ động về tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt
động trong đơn vị. Do đó việc tổ chức hạch toán kế toán với tăng cường KSNB
càng cần được quan tâm đối với các đơn vị nhằm đạt được những mục tiêu trên.
Tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn Tỉnh Sơn La vấn đề này còn
nhiều tồn tại, hạn chế cần được chỉ ra và cần có những phương hướng, giải pháp
phù hợp với điều kiện hiện nay tại đơn vị nhằm thúc đẩy hiệu quả quản lý hoạt động
nói chung và hiệu quả quản lý tài chính nói riêng tại đơn vị.
Nhận thức được vai trò của tổ chức hạch toán kế toán với tăng cường KSNB
như trên Tôi đã chọn Đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sĩ của mình là “ Hoàn
thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường KSNB tại Trung tâm Y tế Dự

phòng Huyện Mai Sơn Tỉnh Sơn La”.
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, nội dung Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức hạch toán kế toán với
kiểm soát nội bộ trong các đơn vị sự nghiệp;
Chương 2: Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán với kiểm soát nội bộ tại
Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn Tỉnh Sơn La;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với
tăng cường kiểm soát nội bộ tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn Tỉnh Sơn La.
Trong Chương 1, Luận văn tập trung giải quyết ba vấn đề sau:
Thứ nhất, Lý luận chung về kiểm tra kiểm soát trong các đơn vị sự nghiệp
Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì sai trái với quy định,
kiểm soát là toàn bộ biện pháp giúp nhà quản lý đối phó với rủi ro để đạt được mục
tiêu xác định. Kiểm tra, kiểm soát đều gắn liền với quản lý, nhưng kiểm tra luôn đi
liền với việc soát xét mang thủ tục hành chính. Kiểm tra - kiểm soát gắn liền với
quản lý đồng thời gắn liền với mọi hoạt động. Ở đâu có quản lý thì ở đó có kiểm
tra- kiểm soát. Quản lý gắn liền với cơ chế kinh tế, với điều kiện xã hội cụ thể.
i
Thông qua việc kiểm soát sẽ đảm bảo cho các hoạt động trong đơn vị được
thực hiện theo đúng các quy định, rà soát lại toàn bộ các hoạt động, kịp thời nắm
bắt, phát hiện những sai sót và điều chỉnh kịp thời cho phù hợp, đảm bảo việc hoạt
động theo đúng mục tiêu, chương trình, kế hoạch đặt ra. Một hệ thống KSNB vững
mạnh sẽ đem lại cho các đơn vị trong đó có đơn vị sự nghiệp các lợi ích như:
Giảm bớt nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động; Bảo vệ tài sản khỏi bị hư hỏng,
mất mát bởi hao hụt, gian lận, lừa gạt, trộm cắp; Đảm bảo tính chính xác của các
số liệu kế toán và BCTC; Đảm bảo mọi thành viên tuân thủ nội quy, quy chế,
quy trình hoạt của tổ chức chức cũng như các quy định của luật pháp; Đảm bảo
tổ chức hoạt động hiệu quả, sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được mục tiêu đặt ra.
Trong các đơn vị có quy mô lớn, KSNB được tổ chức thành hệ thống hoàn
chỉnh gọi là hệ thống KSNB. Hệ thống KSNB bao gồm 4 bộ phận cấu thành cơ bản:
Môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ.

Thứ hai, Tổ chức hạch toán kế toán với kiểm soát nội bộ trong đơn vị sự
nghiệp công lập
Trong một đơn vị HCSN, tổ chức hạch toán kế toán bao gồm: tổ chức vận
dụng hệ thống chứng từ kế toán, tổ chức vận dụng hệ thống tài khoản kế toán, tổ
chức hệ thống sổ sách và phương pháp ghi sổ, tổ chức hệ thống BCT.
Về tổ chức hệ thống chứng từ: Tất cả các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh trong
đơn vị HCSN phải được lập chứng từ theo đúng mẫu và nội dung quy định trong Danh
mục chứng từ kế toán do BTC ban hành theo QĐ Số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30 tháng 3
năm 2006. Những quy định cụ thể đối với tổ chức hệ thống chứng từ kế toán theo Chế độ
trên đã giúp cho đơn vị kiểm soát được mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh, ngăn ngừa hiện
tượng gian lận hoặc không trung thực đối với các hoạt động thu, chi trong đơn vị, đảm bảo
trách nhiệm của các đối tượng có liên quan đến nghiệp vụ kinh tế tài chính.
Về Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán cần đảm bảo sự thống nhất trong các
đơn vị sự nghiệp một mặt giúp dễ dàng cho công tác hạch toán, quản lý các đối
tượng kế toán trong đơn vị. Mặt khác, giúp cho công tác quản lý, theo dõi và kiểm
tra của đơn vị chủ quản, cơ quan quản lý Nhà nước.
ii
Về Tổ chức hệ thống sổ sách kế toán: Trong mỗi đơn vị có thể chọn cho mình
một hình thức ghi sổ phù hợp và dùng thống nhất cho các kỳ kế toán khác nhau, khi
chọn hình thức nào thì đơn vị phải tuân thủ về các loại sổ và trình tự ghi từng loại
sổ. Trong quá trình hạch toán, ghi sổ kế toán phải căn cứ vào các chứng từ kế toán
và luôn luôn có sự đối chiếu, kiểm tra lẫn nhau giữa các sổ chi tiết với các sổ tổng
hợp nhằm đảm bảo sự khớp đúng số liệu, tránh những sai sót nhầm lẫn. Ngoài chức
năng cung cấp thông tin cho các đối tượng cần sử dụng, sổ sách còn là cơ sở cho
việc thanh tra, kiểm tra tình hình tài chính của đơn vị.
Về Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán: Dựa trên thông tin tổng hợp do các báo
cáo trên cung cấp giúp lãnh đạo các đơn vị thấy được tổng quát về tình hình tài sản,
nguồn kinh phí, tình hình thanh toán và các khoản thu, chi tại đơn vị. Từ đó làm cơ
sở cho việc phân tích đánh giá cho từng khoản mục cụ thể để biết được quả quả,
hiệu năng quản lý của đơn vị.

Xuất phát từ chức năng, vai trò của KSNB trong các đơn vị nói chung và trong
đơn vị sự nghiệp công lập nói riêng, cũng như vai trò, nhiệm vụ của tổ chức hạch
toán kế toán trong đơn vị sự nghiệp công lập có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
Tổ chức tốt hạch toán kế toán sẽ tạo ra mối liên hệ tối ưu giữa các yếu tố cấu thành
hệ thống hạch toán kế toán; tạo tính tổ chức cao trong hoạt động kế toán nói riêng
và hoạt động quản lý nói chung, cho nên tổ chức hạch toán kế toán giúp cho hoạt
động KSNB chặt chẽ hơn, đầy đủ và toàn diện hơn, các quyết định trong quản lý
hiệu lực hơn. Tổ chức hạch toán kế toán là một bộ phận quan trọng nhất của việc
thực hiện KSNB vì hệ thống kế toán là một bộ phận cấu thành nên hệ thống KSNB
của đơn vị. Hệ thống kế toán hoạt động tốt và hiệu quả là công cụ đắc lực giúp hệ
thống KSNB hoạt động có hiệu quả trong đơn vị.
Thứ ba, Kinh nghiệm tổ chức hạch toán kế toán với tăng cường KSNB trong các
đơn vị sự nghiệp công lập tại các nước trên thế giới.
Về công tác hạch toán kế toán trong các đơn vị công trên thế giới đa phần tuân
thủ theo IPSAS hoặc xây dựng chuẩn mực kế toán công áp dụng phù hợp với từng
quốc gia. Tổ chức hạch toán kế toán từ hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài
iii
khoản, hình thức ghi sổ kế toán và lập báo cáo kế toán công áp dụng ở những nước
Bắc Mỹ thực hiện rất linh hoạt, hiệu quả đồng thời vẫn đảm bảo sự giám sát cũng
như dễ dàng trong công tác kiểm tra đối chiếu kế toán, đảm bảo sự minh bạch tình
hình tài chính của các đơn vị.
Trong Chương 2, Luận văn tập trung mô tả và phân tích các vấn đề sau:
Thứ nhất, Luận văn đã trình bày được những đặc điểm nổi bật của Trung tâm
Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn Tỉnh Sơn La về chức năng, nhiệm vụ cũng như cơ
cấu tổ chức bộ máy gắn với tổ chức hạch toán kế toán và KSNB tại Trung tâm.
Thứ hai, Thực trạng tổ chức hệ thống hạch toán kế toán với KSNB tại Trung
tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn
Về tổ chức hệ thống chứng từ: Chứng từ kế toán của Trung tâm là cơ sở dùng
để kiểm soát các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn vị về mặt mục đích sử dụng,
kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu theo dự toán, theo kế hoạch, các định mức, các

quy định tại Trung tâm về các khoản thu, chi và các hoạt động khác tại Trung tâm.
Mặt khác, là cơ sở để xác định trách nhiệm của các đối tượng có liên quan đến mọi
nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh trong đơn vị.
Tuy vậy, việc thực hiện các quy định chung trong việc lập và kiểm tra và sử
dụng chứng từ như trên còn những hạn chế. Chế độ khen thưởng, xử phạt từng
người, từng bộ phận trong quá trình lập, tiếp nhận chứng từ kế toán chưa được thực
hiện rõ ràng và hiệu quả. Các sai sót liên quan đến các yếu tố cơ bản như ngày
tháng lập, nội dung của chứng từ, chữ ký vẫn còn tồn tại, hiệu quả kiểm soát
mục đích sử dụng, chi tiêu kinh phí, kế hoạch, dự toán, định mức chi tiêu tại đơn
vị vẫn chưa cao.
Về tổ chức hệ thống TK kế toán: Các TK sử dụng trong đơn vị cơ bản đã phục
vụ cho việc phân loại và phản ánh những đối tượng kế toán và giúp phục vụ cho
công tác lập các báo cáo kế toán bắt buộc theo yêu cầu của Nhà nước. Tuy nhiên,
việc mở các TK chi tiết vẫn chưa thực sự khoa học và chưa đủ các TK chi tiết cần
thiết, như các tài khoản phản ánh doanh thu, vật tư phản ánh còn chung chung chưa
được chi tiết cụ thể hoá gây khó khăn cho công tác quản lý cụ thể từng đối tượng kế
iv
toán chi tiết, đồng thời việc kiểm soát và quản lý cũng như việc lập các báo cáo nội
bộ tại đơn vị cũng bị gặp khó khăn.
Về tổ chức hệ thống sổ sách kế: Trung tâm chọn ghi sổ kế toán theo Hình thức
Nhật ký - Sổ Cái. Công tác tổ chức hệ thống sổ kế toán tại Trung tâm cho thấy hiệu
quả quản lý tài chính trong đơn vị thực hiện không chặt chẽ, số liệu kế toán cung
cấp chưa phục vụ tốt cho công tác quản lý. Việc tổ chức ghi sổ kế toán của đơn vị
đã thực hiện nhiệm vụ kiểm soát quá trình ghi sổ và kiểm tra số liệu kế toán
của đơn vị. Tuy vậy, hiệu quả kiểm soát còn chưa cao cũng xuất phát từ việc
xây dựng hệ thống sổ chi tiết còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ.
Về tổ chức hệ thống báo cáo: Các báo cáo lập nghiêm túc theo quy định về
biểu mẫu, về nội dung phản ánh. Tuy nhiên, việc lập các báo cáo tại đơn vị còn
chưa đầy cho nên độ tin cậy của các BCTC là không cao. Mặt khác, tại Trung tâm
chưa thực hiện việc phân tích các BCTC cho nên không thể đưa ra những đánh giá

về các chỉ tiêu tài chính phục vụ cho việc kiểm soát chi phí. Hiện tại Trung tâm
chưa thực hiện lập các báo cáo nội bộ để phục vụ cho việc điều hành quản lý nội bộ
trong Trung tâm. Vì vậy, hiệu quả quản lý nói chung và hiệu quả quản lý tài chính
nói riêng trong đơn vị chưa cao.
Về tổ chức bộ máy kế toán: Tổ chức bộ máy kế toán hiện nay tại Trung tâm được
tổ chức theo hình thức tập trung, cho nên mọi công việc hạch toán kế toán được thực
hiện tập trung tại phòng kế toán của Trung tâm. Bộ máy kế toán của đơn vị được tổ chức
bộ máy gọn nhẹ, dễ điều hành quản lý, tiết kiệm được chi phí cho bộ máy quản lý. Tuy
nhiên, từng phần hành kế toán công việc dồn nhiều vào một người, tính độc lập, khách
quan trong công việc không cao, khó kiểm soát hết các hoạt động của đơn vị theo quy
định, việc kiểm tra chéo giữa các phần hành kế toán được thực hiện không khách quan
cho nên có những sai sót không kịp thời được phát hiện.
Thứ ba, Thực trạng tổ chức các phần hành kế toán với KSNB tại Trung tâm Y
tế Dự phòng Huyện Mai Sơn
Về kế toán nguồn kinh phí: Các loại kinh phí của đơn vị được theo dõi hạch
toán và quyết toán theo từng nguồn. Các thủ tục kiểm soát kinh phí nhận về và chi
v
ra đã được thực hiện tương đối đúng quy định. Việc kiểm tra, đối chiếu được thực
hiện định kỳ và có sự xác nhận đối với nguồn kinh phí giữa đơn vị với Kho bạc Nhà
nước. Nguyên tắc bất kiêm nhiệm cũng được tôn trọng như không kiêm việc phê
chuẩn chứng từ với việc thực hiện, không kiêm ghi sổ kế toán với quản lý tài sản.
Tuy nhiên, do kế toán thanh toán kiểm soát không chặt các khoản thu theo từng
nguồn kinh phí cho nên vẫn có những khoản chi sai nguồn, không đúng mục đích sử dụng.
Về kế toán vật tư, tài sản: Đơn vị đã tổ chức hạch toán đúng chế độ về trình tự
và phương pháp hạch toán. Tuy vậy, việc phân loại và hạch toán chi tiết còn nhiều
hạn chế, chưa kiểm soát hết được về mục đích sử dụng vật tư, hàng hoá. Đối với
những TSCĐ xây dựng, mua sắm, sửa chữa TSCĐ, thanh lý TSCĐ; các thủ tục mua
sắm, xây dựng, thanh lý… được thực hiện phê duyệt theo từng cấp có thẩm quyền;
có hệ thống sổ kế toán TSCĐ chi tiết và tổng hợp, thực hiện kiểm kê TSCĐ vào
cuối mỗi năm. Đơn vị chưa có qui định rõ ràng về việc chi phí sửa chữa lớn tính

vào nguyên giá TSCĐ hay tính vào các khoản chi nên quá trình hạch toán chưa
được nhất quán, rõ ràng. Việc kiểm soát đối với tài sản cố định được nhượng bán tại
Trung tâm không được chặt chẽ dẫn đến việc định giá trị nhượng bán không sát với
giá thị trường gây ra sự thất thoát giá trị tài sản.
Về kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương: Được tổ chức hạch toán
theo trình tự từ việc theo dõi bảng chấm công, xác định tiền lương, các khoản trích
theo lương, thanh toán tiền lương và các khoản phải trả người lao động. Về cơ bản
phần hành kế toán này đã đảm bảo được nhiệm vụ hạch toán của mình. Tuy nhiên,
hiệu quả kiểm soát về kết quả chấm công tại đơn vị chưa cao dẫn đến chưa kiểm
soát số tiền lương và các khoản phải trả người lao động tại Trung tâm tương ứng
với kết quả lao động. Ngoài ra, chế độ khen, thưởng, xử phạt tại đơn vị chưa rõ ràng
dẫn đến hiệu quả quản lý lao động và kết quả lao động chưa cao.
Về kế toán thanh toán: Xuất phát từ các chức năng nhiệm vụ của kế toán thanh
toán gắn với chức năng KSNB tại đơn vị thì kế toán thanh toán mới cơ bản thực
hiện được chức năng tối thiểu của mình, đó là phản ánh các khoản chi trả của đơn vị
đối với các khoản chi hoạt động và chi dự án theo phát sinh tại đơn vị. Tuy vậy, các
vi
khoản chi này kế toán chưa theo sát từng khoản theo quy định cho nên có những
khoản chi sai, chi vượt quy định cho phép và số này đã không được quyết toán đến
nay vẫn chưa thu hồi được. Về mặt chứng từ chưa được kiểm soát chặt chẽ, xác
định đối tượng kế toán hạch toán còn chưa chính xác cho nên vẫn có đối tượng bị
phản ánh sai. Chưa thực hiện mở sổ kế toán chi tiết một cách đầy đủ để có thể theo
dõi chi tiết về từng đối tượng. Chính những hạn chế trong tổ chức hạch toán như vậy
dẫn đến hiệu quả kiểm soát của bộ phận kế toán này trong đơn vị chưa cao.
Về kế toán các khoản thu, chi: Trong đơn vị chưa xây dựng được đầy đủ quy
trình kiểm soát nguồn thu dịch vụ từ việc chăm sóc sức khoẻ, cũng như chưa có cơ
chế thúc đẩy để khai thác triệt để nguồn thu nhằm tăng thêm nguồn thu từ hoạt động
này của đơn vị. Đối với các khoản chi, để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của
Trung tâm thì các khoản chi của đơn vị gồm có chi cho hai hoạt động chính đó là:
Chi hoạt động sự nghiệp và chi hoạt động dự án. Đối với các khoản chi hoạt động

của đơn vị đa phần các khoản chi thường xuyên của đơn vị thực hiện kiểm soát chi
tiêu theo đúng định mức, quy định của Trung tâm, của ngành và theo quy định
chung của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, đối với các khoản chi theo các chương trình dự
án thực hiện theo định kỳ thì đơn vị đã xây dựng được định mức chi tiêu phù hợp
nên việc quản lý các khoản chi thuận lợi và có hiệu quả hơn. Còn các chương trình,
dự án mới phát sinh thì việc xây dựng định mức còn chưa phù hợp với thực tế, cho
nên kinh phí chi cho những chương trình này chưa được kiểm soát tốt.
Về kế toán tổng hợp: Dựa trên cơ sở chức năng của phần hành kế toán này cho
thấy vai trò KSNB của kế toán tổng hợp là rất lớn như cho phép đơn vị tổ chức,
quản lý, điều hành tốt công tác kế toán, từ đó kiểm soát tốt tình hình tài chính trong
đơn vị. Tuy vậy, thực tế công tác kế toán tổng hợp cho thấy vai trò KSNB của phần
hành kế toán này đối với đơn vị còn nhiều hạn chế. Vai trò kiểm tra chéo giữa kế toán
tổng hợp và các kế toán phần hành khác chưa được phát huy hiệu quả.
Thứ tư, Đánh giá chung thực trạng tổ chức hạch toán kế toán với KSNB tại
Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn
vii
Về ưu điểm trong tổ chức hạch toán kế toán với KSNB tại Trung tâm, Luận
văn đã nêu bật những điểm chính sau:
Một là, Tổ chức hệ thống chứng từ với hệ thống KSNB tại Trung tâm: Công tác
tổ chức hệ thống chứng từ của Trung tâm cơ bản đã thực hiện và tuân thủ theo Quyết
định Số 19, ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Bộ Trưởng BTC, nhưng tính kiểm soát của
hệ thống chứng từ với hiệu quả hoạt động của đơn vị còn yếu;
Hai là, Đối với tổ chức hệ thống TK kế toán với KSNB tại Trung tâm: Việc tổ
chức hệ thống TK kế toán đã tuân thủ việc xây dựng hệ thống TK theo quy định của
BTC. Hệ thống TK của đơn vị bao gồm các TK tổng hợp và các TK chi tiết đã cơ
bản theo dõi được các đối tượng kế toán trong đơn vị, phục vụ cho việc cung cấp
thông tin cũng như quản lý, theo dõi về tình hình tài chính của đơn vị. Tuy vậy, hệ
thống TK xây dựng chưa được đầy đủ, chi tiết cho nên chưa phát huy hiệu quả cho
công tác kế toán nói riêng và cho công tác quản lý nói chung tại đơn vị;
Ba là, Đối với tổ chức hệ thống sổ sách kế toán với KSNB tại Trung tâm: Quá

trình tổ chức ghi sổ kế toán đã tuân thủ thực hiện mở các sổ theo quy định cho nên trên
cơ sở các sổ sách kế toán đã góp phần quản lý tốt tình hình tài chính của đơn vị, như
kiểm soát và theo dõi được các hoạt động thu chi của đơn vị, tình quản lý và sử dụng tài
sản, tình hình thanh toán và chi trả từ đó cung cấp những thông tin giúp Ban giám đốc
đưa ra các quyết định để điều hành quản lý nói chung và đưa ra các biện pháp nhằm
quản lý chặt chẽ hơn tài chính của đơn vị;
Bốn là, Đối với tổ chức hệ thống báo cáo với KSNB tại Trung tâm: Đơn vị đã tiến
hành xây dựng và lập đầy đủ các báo cáo phải nộp theo yêu cầu. Trên cơ sở những
báo cáo này đã cung cấp được những số liệu tổng hợp về tình hình tài chính của đơn
vị phục vụ cho công tác điều hành quản lý của các đơn vị cấp trên đối với cấp dưới,
kiểm soát tổng quát về tài sản, nguồn kinh phí và tình hình sử dụng kinh phí, các
khoản thu phục vụ cho quản lý tài chính trực tiếp tại đơn vị;
Năm là, Đối với tổ chức các phần hành kế toán với KSNB tại Trung tâm: Tổ chức
bộ máy quản lý nói chung và tổ chức bộ máy kế toán của đơn vị cũng đơn giản, gọn
viii
nhẹ. Trong tổ chức bộ máy kế toán, một kế toán của đơn vị thường phải kiêm nhiệm
hai ba phần hành kế toán. Các kế toán trong đơn vị đã thực hiện được những nhiệm
vụ cơ bản trong công tác hạch toán và giữa các phần hành cũng có sự độc lập nhất
định để có thể thực hiện kiểm tra chéo lẫn nhau trong hoạt động.
Về những tồn tại và nguyên nhân tồn tại trong tổ chức hạch toán kế toán với
kiểm soát nội tại Trung tâm, Luận văn làm rõ những vấn đề chủ yếu sau:
Một là, Tổ chức hệ thống chứng từ tại Trung tâm chưa thực sự khoa học, chưa
xây dựng được cho mình hệ thống chứng từ hoàn chỉnh, các chứng từ xây dựng còn
theo tính tự phát, chưa có sự chủ động xây dựng hệ thống chứng từ mang tính chất
đặc thù giúp cho việc sao chụp nghiệp vụ phát sinh tại đơn vị. Có nghiệp vụ phát
sinh khi các thủ tục chứng từ còn phản ánh nghiệp vụ còn chưa đầy đủ. Hệ thống
chứng từ chưa thực sự đảm nhiệm được vai trò kiểm soát hoạt động tại đơn vị, chưa
ngăn ngừa hết được những gian lận và sai sót trong các hoạt động.
Hai là, Đối với tổ chức hệ thống TK kế toán với KSNB tại Trung tâm: Trung
tâm là đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế có những đặc thù riêng trong

quá trình hoạt động cũng nhưng trong quá trình chi tiêu tại đơn vị, nhưng kế toán
chưa mở các tài khoản chi tiết để theo dõi những vật tư, tài sản, công nợ, các khoản
chi tiêu cũng như các khoản thu đặc thù tại đơn vị cho nên việc theo dõi đối chiếu
và đánh giá riêng về chúng là rất khó khăn.
Ba là, Đối với tổ chức hệ thống sổ sách kế toán với KSNB tại Trung tâm: Các sổ
được mở trong đơn vị chủ yếu là những sổ tổng hợp phục vụ cho việc lập các báo
cáo tài chính, có một số sổ chi tiết trong đơn vị chưa được mở như: sổ theo dõi chi
tiết từng loại vật tư tài sản, sổ theo dõi chi tiết về các nguồn kinh phí, sổ chi tiết về
các khoản chi phí tại đơn vị điều này đã dẫn đến khó khăn cho việc kiểm tra, kiểm
soát chéo giữa sổ tổng hợp và sổ chi tiết trong đơn vị không được thực hiện đầy đủ,
việc cung cấp thông tin sẽ không được kịp thời và độ chính xác không cao. Đây
cũng là nguyên nhân dẫn đến việc thất thoát tài sản của đơn vị do không thể kiểm
soát cụ thể tới từng đối tượng tài sản của đơn vị.
ix
Bốn là, Đối với tổ chức hệ thống báo cáo với KSNB tại Trung tâm: Các báo
cáo lập còn chưa đầy đủ theo các năm, cho nên thông qua các báo cáo của đơn vị để
có cái nhìn tổng quan cũng như đánh giá đầy đủ về đơn vị thì độ tin cậy chưa cao.
Ngoài ra, thiếu các báo cáo về các mảng hoạt động của đơn vị như vậy khiến việc
nắm bắt về đơn vị đề điều hành quản lý cũng như kiểm soát hoạt động của đơn vị sẽ
không kịp thời, chặt chẽ và hiệu quả.
Năm là, Đối với tổ chức các phần hành kế toán với KSNB tại Trung tâm: Việc
thực hiện tổ chức hạch toán kế toán đối với từng phần hành kế toán tại đơn vị còn
nhiều hạn chế. Vì vậy hiệu quả kiểm soát của từng phần hành kế toán và sự phối
hợp giữa các phần hành kế toán là chưa cao.
Sáu là, Đối với tổ chức bộ máy kế toán với KSNB tại Trung tâm: Do phải kiêm
nhiệm các phần hành kế toán khác nhau nên chưa có sự tách bạch và độc lập hoàn toàn
giữa các bộ phận trong bộ máy kế toán cho nên chưa đảm bảo được tính kiểm tra chéo và
kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận kế toán, dẫn đến có những nhầm lẫn sai sót không
được phát hiện sớm, việc kiểm tra đối chiếu tính khách quan còn chưa cao.
Trong Chương 3, Luận văn tập trung vào những nội dung chính sau:

Thứ nhất, Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với
tăng cường KSNB tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn: Luận văn đi tìm hiểu
về sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với tăng cường
KSNB tại Trung tâm để thấy được tính cấp thiết đặt ra đối với đơn vị hiện nay và từ đó
đưa ra những phương hướng cụ thể trong việc hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với
tăng cường KSNB tại Trung tâm trong thời gian tới.
Thứ hai, Những giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với tăng
cường KSNB tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn gồm:
Một là, Hoàn thiện tổ chức hệ thống chứng từ
Đối với khâu lập chứng từ: Tổ chức hệ thống chứng từ tại Trung tâm cần phải
khoa học hơn, tuân thủ theo chế độ chứng từ kế toán hiện hành. Đối với những
chứng từ bắt buộc thực hiện lập chứng từ theo đúng mẫu, đảm bảo lập theo đúng
các yếu tố cơ bản của bản chứng từ để bản chứng từ đó phản ánh trung thực nghiệp
x
vụ kinh tế phát sinh và là cơ sở cho việc thanh tra, kiểm soát các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh đó. Ngoài những chứng từ nội bộ đơn vị đã xây dựng, đơn vị cần tăng
cường xây dựng các chứng từ nội bộ mang tính chất đặc thù hoạt động của mình để
phục vụ tốt hơn cho hạch toán nội bộ.
Đối với khâu kiểm tra chứng từ: Để khắc phục những tồn tại trong khâu này
thì kế toán cần tăng cường kiểm tra đối với tất cả các loại nghiệp vụ kinh tế phát
sinh kể cả thu, chi trong đơn vị và chứng từ phát sinh liên quan đến bộ phận nào thì
bộ phận đó phải có trách nhiệm kiểm tra. Công việc kiểm tra này phải được thực
hiện một cách thường xuyên, liên tục và phải coi là một khâu bắt buộc trong khi lập
và tiếp nhận chứng từ. Ngoài việc kiểm tra về mặt hình thức của chứng từ thì kế
toán còn phải chú trọng đến nội dung trên chứng từ xem việc thu, chi có đúng theo
kế hoạch, dự toán, theo quy định hay không, các khoản chi xem có đúng định mức,
đúng mục đích sử dụng và theo từng khoản mục chi tiết của Mục lục ngân sách Nhà
nước hay không.
Trong khâu lưu trữ và bảo quản chứng từ: Chứng từ kế toán sau khi đã sử
dụng xong phải đóng tập đưa vào lưu trữ, bảo quản theo chế độ quy định, không để

tình trạng ẩm mốc hoặc mối mọt. Chứng từ bảo quản được xếp gọn gàng, khoa học
theo thời gian và nội dung kinh tế như phân chứng từ tiền, vật tư, TSCĐ, các khoản
thanh toán để dễ dàng tìm thấy khi cần thiết.
Đối với kế hoạch luân chuyển chứng từ: Đơn vị cần tiến hành xây dựng kế
hoạch luân chuyển chứng từ riêng cho những loại nghiệp vụ kinh tế phát sinh
thường xuyên liên tục trong đơn vị để có thể xác định quyền lợi cũng như trách
nhiệm của các đối tượng có liên quan đến nghiệp vụ.
Hai là, Hoàn thiện tổ chức hệ thống tài khoản kế toán
Cần mở các tài khoản chi tiết để theo dõi từng đối tượng kế toán cụ thể theo
Mục lục ngân sách nhà nước để quản lý từng khoản chi theo quy định của Nhà nước
đảm bảo trong quá trình chi tiêu không bị lạm dụng.
Trong thời gian tới đơn vị sẽ đầu tư phần mềm kế toán để hoàn thiện hơn đối
với công tác hạch toán. Đơn vị phải tính đến mã hoá các đối tượng kế toán trong
xi
đơn vị chi tiết đến từng khoản mục để có thể theo dõi chi tiết từng loại vật tư, tài
sản, từng đối tượng thanh toán, nguồn kinh phí, các khoản thu, chi cụ thể. Thông
qua việc theo dõi các đối tượng kế toán chi tiết bằng các tài khoản như vậy sẽ tạo
thuận lợi cho việc theo dõi, quản lý các loại vật tư, tài sản, các nguồn kinh phí và
các khoản chi phí của đơn vị.
Ba là, Hoàn thiện tổ chức hệ thống sổ sách kế toán
Việc kiểm tra, đối chiếu trong quá trình ghi chép sổ sách kế toán cần phải
được thực hiện thường xuyên liên tục.
Đối với những hoạt động mang tính chất dịch vụ, các khoản thu chi của hoạt
động này hiện nay đơn vị mới chỉ mở sổ theo dõi tổng hợp, chưa mở sổ theo dõi chi
tiết theo từng khoản thu, chi. Để quản lý chặt chẽ hơn đối những khoản thu, chi này
đơn vị cần mở sổ theo dõi chi tiết cụ thể đối với từng loại thu chi trong đơn vị.
Ngoài ra, Trung tâm cần mở bổ sung các sổ chi tiết như: sổ theo dõi chi tiết từng
loại vật tư tài sản, sổ theo dõi chi tiết về các nguồn kinh phí, sổ chi tiết về các khoản
chi phí tại đơn vị tương ứng với các tài khoản chi tiết được mở theo kiến nghị trên
nhằm đảm bảo bao quát được toàn bộ tình hình tài chính trong đơn vị về tất cả các

đối tượng kế toán. Tuy vậy, việc thực hiện mở sổ cũng phải tính đến yếu tố thuận
lợi, đơn giản trong công tác kế toán, thuận lợi cho việc lập báo cáo tài chính và
phục vụ cho công tác theo dõi, kiểm tra, đối chiếu số liệu.
Bốn là, Hoàn thiện tổ chức báo cáo tài chính
Trung tâm cần hoàn thiện các BCTC còn thiếu và lập các báo cáo đặc thù
mang tính chất nội bộ để phục vụ cho việc cung cấp thông tin trong quản lý của đơn vị.
Trung Tâm cần thực hiện phân tích và đánh giá BCTC để xem xét và đánh giá
quá trình và kết quả thực hiện kế hoạch, dự toán thu, chi, sử dụng nguồn kinh phí trong
và ngoài NSNN nhằm đánh giá được hiệu quả của việc thực hiện dự toán thu, chi,
tình hình sử dụng tài sản, tình hình chấp hành các chế độ, tiêu chuẩn, định mức và
chính sách quản lý tài chính của Nhà nước cũng như các quy định của BYT và đơn vị
đề ra, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, lãng phí trong quá trình sử dụng
xii
kinh phí. Cung cấp thông tin đã xử lý theo yêu cầu quản lý, theo chế độ quản lý tài
chính hiện hành.
Năm là, Hoàn thiện tổ chức các phần hành kế toán
Để đảm bảo sự kiểm soát chéo trong quá trình hạch toán thì đơn vị phải có sự
tách biệt những người làm các phần hành kế toán sau: kế toán vật tư, tài sản, kế toán
thu, chi, kế toán lao động tiền lương, kế toán tổng hợp, thủ quỹ. Mỗi kế toán viên khi
thực hiện vai trò nhiệm vụ của mình cần tuân thủ quy trình kiểm soát đối với từng
khâu, từng công việc của mình.
Đối với các kế toán phần hành cần có sự tổ chức hạch toàn tốt trong từng phần
hành kế toán của mình về các mặt như: hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài
khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán và phương pháp ghi sổ kế toán, hệ thống báo cáo
tổng hợp và báo cáo tài chính liên quan đến từng phần hành đảm bảo thực hiện hạch
toán đúng Chế độ kế toán và sao cho mỗi phần hành kế toán do mình đảm trách có
thể thực hiện góp phần kiểm soát tốt nhất các khoản thu, chi tại đơn vị.
Sáu là, Hoàn thiện tổ chức kiểm tra kế toán
Để thực hiện tốt công tác kiểm tra cần xây dựng một quy chế kiểm tra, kiểm
soát thống nhất trong nội bộ, tiếp đến phải hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và có kế

hoạch phối hợp một cách đồng bộ giữa các bộ phận. Những nội dung cụ thể là:
Trung tâm cần phải cụ thể hóa những chế độ, chính sách của Nhà nước cũng như
những quy định của BYT, nhằm đảm bảo cho hoạt động của đơn vị tuân thủ nghiêm
chỉnh những chính sách chế độ của Nhà nước. Ngoài ra, quy chế KSNB còn là cơ
sở chuẩn mực để hệ thống kiểm soát này hoạt động có hiệu lực. Trong quy chế
ngoài việc quy định các vấn đề chung, vấn đề phân cấp trong quản lý kinh tế tài
chính và hạch toán nội bộ cũng cần phải được quy định cụ thể trong qui chế KSNB.
xiii
Trong phần Kết luận, Luận văn nhấn mạnh:
Với cơ chế tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh
phí đòi hỏi các đơn vị sự nghiệp công phải tự hạch toán toán sao cho vừa nâng cao
hiệu quả hoạt động, vừa sử dụng hiệu quả các nguồn kinh phí. Đối với Trung tâm Y
tế Dự phòng Huyện Mai Sơn cơ bản đã thực hiện được việc tiết kiệm chi và hoàn
thành thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó về công
tác tổ chức hạch toán kế toán với vấn đề KSNB tại đơn vị còn nhiều tồn tại và hạn
chế. Trong phạm vi nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của Đề tài, Luận văn đã tập
trung giải quyết được những vấn đề cơ bản sau:
Một là: Hệ thống lý luận cơ bản về tổ chức hạch toán kế toán trong mối quan
hệ với tăng cường KSNB tại các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Hai là, Mô tả và phân tích thực trạng công tác tổ chức hạch toán kế toán và
KSNB tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn, đưa ra những điểm mạnh,
điểm yếu đang tồn tại trong vấn đề này. Từ đó cho thấy sự cần thiết khách quan phải
hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn.
Ba là: Xác định phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế
toán tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn. Luận văn đã cố gắng đưa ra một
số giải pháp giải pháp sát thực, phù hợp với đơn vị nhằm hoàn thiện công tác tổ
chức hạch toán kế toán góp phần tăng cường KSNB tại Trung tâm, góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý nói chung và quản lý tài chính nói riêng tại Trung tâm.
xiv
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài
Theo NĐ Số 43/2006/NĐ-CP, ngày 25 tháng 4 năm 2006 Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành qui định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ
chức bộ máy, biên chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Như vậy, các
đơn vị hành chính sự nghiệp (HCSN) cần phải kiểm soát chặt chẽ về chi phí, phải tự
tính toán, đảm bảo sử dụng nguồn thu, chi đạt hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo sự chủ
động về cả hoạt động và tài chính của đơn vị.
Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn, Tỉnh Sơn La là Trung tâm của một
huyện vùng núi, có địa bàn rộng, dân cư phân tán, có nhiều dân tộc thiểu số, trình
độ dân trí còn thấp, thu nhập bình quân trên đầu người thấp cho nên người dân ở
đây ít có điều kiện chăm lo đến sức khoẻ. Trung tâm là đơn vị sự nghiệp cấp III,
trực tiếp sử dụng nguồn Ngân sách nhà nước nhằm thực hiện chức năng triển khai
thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn kỹ thuật về y tế dự phòng: phòng; chống
HIV/AIDS; cúm AH1N1; phòng; chống bệnh xã hội; an toàn vệ sinh thực phẩm;
chăm sóc sức khỏe sinh sản và truyền thông giáo dục sức khỏe trên địa bàn Huyện
Mai Sơn. Với những chức năng hoạt động đa dạng như vậy của Trung tâm trong
điều kiện kinh tế xã hội còn chậm phát triển của huyện như trên, hạch toán kế toán
với chức năng thông tin và kiểm tra kiểm soát các hoạt động sẽ giúp nắm bắt và
điều hành kịp thời các hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động tại Trung tâm.
Qua thực tiễn nghiên cứu về tổ chức hạch toán kế toán với kiểm soát nội bộ
(KSNB) tại Trung tâm, tôi nhận thấy vấn đề này tại Trung tâm còn nhiều mặt hạn
chế cần được chỉ ra và cần có những phương hướng, giải pháp phù hợp với điều
kiện hiện nay tại đơn vị nhằm thúc đẩy hiệu quả quản lý hơn nữa. Mặt khác, nhận
thức được vai trò của tổ chức hạch toán kế toán với tăng cường KSNB đối với hiệu
quả quản lý trong các đơn vị nói chung và tại Trung tâm nói riêng Tôi đã chọn Đề
tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình là “ HOÀN THIỆN TỔ
CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TẠI
TRUNG TÂM Y TẾ DỰ PHÒNG HUYỆN MAI SƠN TỈNH SƠN LA”.
1
2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của Đề tài là: Qua việc nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn
về tổ chức hạch toán kế toán với KSNB tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện
Mai Sơn một cách có hệ thống, từ đó đề xuất phương hướng và một số giải
pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán nhằm tăng cường KSNB tại Trung tâm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là tổ chức hạch toán kế toán trong mối quan
hệ với tăng cường KSNB.
Phạm vi nghiên cứu giới hạn trong tổ chức hạch toán kế toán với KSNB tại
Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn, Tỉnh Sơn La.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng. Đề tài sử dụng các
phương pháp cụ thể: Phương pháp điều tra khảo sát thực tiễn, phương pháp thống
kê để thu thập thông tin và các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống
hoá … nhằm khái quát lý luận, tổng kết, đánh giá thực tiễn, từ đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện.
5. Những đóng góp của Luận văn
Về mặt lý luận, Luận văn hệ thống hoá và làm rõ các lý luận cơ bản về tổ chức
hạch toán kế toán với tăng cường KSNB tại các đơn vị sự nghiệp.
Về mặt thực tiễn, thông qua nghiên cứu thực trạng, Luận văn mô tả và phân
tích, làm rõ thực trạng tổ chức hạch toán kế toán với KSNB tại Trung tâm Y tế Dự
phòng Huyện Mai Sơn và đưa ra những đánh giá về những điểm mạnh, điểm yếu
cùng những nguyên nhân đang tồn tại trong tổ chức hạch toán kế toán với KSNB tại
Trung tâm.
Về các đề xuất, Luận văn đưa ra những phương hướng cùng hệ thống các
giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán góp phần tăng cường KSNB
tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của
Trung tâm trong quá trình đổi mới.
2
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, nội dung Luận văn bao gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức hạch toán kế toán với
kiểm soát nội bộ trong các đơn vị sự nghiệp;
Chương2: Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán với kiểm soát nội bộ tại
Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai Sơn Tỉnh Sơn La;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với
tăng cường kiểm soát nội bộ tại Trung tâm Y tế Dự phòng Huyện Mai
Sơn Tỉnh Sơn La.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC
HẠCH TOÁN KẾ TOÁN VỚI KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
1.1. Lý luận chung về kiểm tra kiểm soát trong các đơn vị sự nghiệp
1.1.1. Tổng quan về kiểm tra, kiểm soát trong quản lý
Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định
trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất (Nguồn Tài liệu
tham khảo số 7). Quá trình này bao gồm nhiều chức năng và có thể chia thành nhiều
giai đoạn. Ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo về nguồn lực và mục tiêu
cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại những thông tin về nguồn lực và mục tiêu, xây
dựng các chương trình, kế hoạch Sau khi các chương trình, các kế hoạch đã được
kiểm tra có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. Ở giai đoạn tổ chức
thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên
kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để điều hoà các mối quan hệ, điều
chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động
Như vậy, kiểm tra -kiểm soát không phải là một giai đoạn hay một pha của
quản lý mà nó được thực hiện ở tất các giai đoạn của quá trình này. Do đó, cần quan
niệm kiểm tra- kiểm soát là một chức năng của quản lý. Kiểm tra và kiểm soát
không phải là một. Kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét.
Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì sai trái với quy định, kiểm
soát là toàn bộ biện pháp giúp nhà quản lý đối phó với rủi ro để đạt được mục tiêu

xác định. Kiểm tra, kiểm soát đều gắn liền với quản lý, nhưng kiểm tra luôn đi liền
với việc soát xét mang thủ tục hành chính, còn kiểm soát thì không như vậy. Tần
suất của kiểm tra cũng ít hơn kiểm soát. Kiểm soát có thể gắn với mọi giao dịch cụ
thể. Tuy vậy, chức năng này được thực hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào cơ chế
kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động cụ thể, vào truyền thống văn hoá và
vào những điều kiện kinh tế xã hội khác của mỗi nơi trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
4
Về phân cấp quản lý, có nhiều cấp quản lý khác nhau, song chung nhất thường
phân thành quản lý vĩ mô và quản lý vi mô và trong một số trường hợp có thêm cấp
quản lý trung gian. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động, mỗi đơn vị cơ sở đều phải tự
kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu: rà soát các tiềm năng, xem
xét lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối chiếu và truy tìm các thông số về
sự kết hợp, soát lại các thông tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm
đảm bảo hiệu năng của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt
động. Tương tự, cấp trên cũng phải rà soát lại chính sách, mục tiêu và hoạt động
trong phạm vi quản lý của mình. Công việc rà soát này gọi chung là kiểm soát. Như
vậy, kiểm soát được hiểu là tổng hợp những phương sách để nắm lấy và điều hành
đối tượng hoặc khách thể quản lý. Với ý nghĩa đó, kiểm soát có thể hiểu theo nhiều
chiều: Cấp trên kiểm soát cấp dưới thông qua chính sách hoặc biện pháp cụ thể;
Đơn vị này kiểm soát đơn vị khác thông qua việc chi phối đáng kể về quyền sở hữu
và lợi ích tương ứng; Nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông qua quy chế và thủ
tục quản lý Tuy nhiên, thông dụng nhất vẫn là KSNB đơn vị. Trong quản lý vĩ
mô, chủ thể quản lý cũng thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp
hoặc gián tiếp với cấp dưới. Trong kiểm tra trực tiếp, chủ thể quản lý có thể trực
tiếp kiểm tra các mục tiêu, các chương trình, kế hoạch, kiểm tra nguồn lực, kiểm tra
các quá trình và kết quả thực hiện các mục tiêu của các đơn vị cấp dưới, kiểm tra độ
tin cậy của thông tin và tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ Ở mức
kiểm tra gián tiếp, nhà quản lý có thể sử dụng các kết quả kiểm tra của các chuyên
gia hoặc các tổ chức kiểm tra chuyên nghiệp (Kiểm toán Nhà nước; Thanh tra Nhà
nước; Kiểm toán nội bộ; Thanh tra chuyên ngành ) để thực hiện điều tiết vĩ mô.

Về loại hình hoạt động, phân theo mục tiêu có hai loại hoạt động cơ bản: hoạt
động kinh doanh và hoạt động sự nghiệp. Với hoạt động kinh doanh, lợi nhuận
được coi là mục tiêu và thước đo chất lượng lao động. Do đó, kiểm tra cần hướng
tới hiệu quả của vốn, của lao động, của tài nguyên. Trong khi hoạt động sự nghiệp
có mục tiêu là thực hiện tốt nhiệm vụ cụ thể về xã hội, về quản lý trên cơ sở tiết
kiệm kinh phí cho việc thực hiện nhiệm vụ đó. Trong trường hợp này, kiểm tra
thường xem xét tính hiệu năng của quản lý thay cho hiệu quả trong kinh doanh.
5
Trong quan hệ sở hữu, cũng ảnh hưởng đến công việc kiểm tra. Đối với đơn vị
sử dụng vốn Nhà nước thì thường do bộ máy chuyên môn của Nhà nước tiến hành
kiểm tra. Đơn vị có vốn sở hữu tư nhân, thường có quyền lựa chọn đơn vị làm
nhiệm vụ kiểm tra.
Theo truyền thống văn hoá, kinh tế xã hội. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự khác
biệt trong tổ chức kiểm tra, kiểm soát là trình độ dân trí, trình độ quản lý, tính kỷ
cương, truyền thống pháp luật
Tóm lại, kiểm tra - kiểm soát gắn liền với quản lý đồng thời gắn liền với mọi
hoạt động. Ở đâu có quản lý thì ở đó có kiểm tra- kiểm soát. Quản lý gắn liền với cơ
chế kinh tế, với điều kiện xã hội cụ thể Khi các điều kiện trên thay đổi thì hoạt
động kiểm tra- kiểm soát cũng có thay đổi theo. Kiểm tra nảy sinh và phát triển từ
chính nhu cầu quản lý. Khi nhu cầu kiểm tra chưa nhiều và chưa phức tạp, kiểm tra
được thực hiện đồng thời với chức năng quản lý khác trên cùng một bộ máy thống
nhất. Trái lại, khi nhu cầu kiểm tra đạt tới mức độ cao, kiểm tra cũng cần tách ra
một hoạt động độc lập và được thực hiện vằng một hệ thống chuyên môn độc lập.
Hoạt động kiểm soát bao gồm nhiều loại có thể phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau, như phân loại theo nội dung kiểm soát, theo quan hệ với quá trình tác
nghiệp, theo thời điểm kiểm soát….
Theo nội dung kiểm soát, kiểm soát bao gồm kiểm soát tổ chức và kiểm soát
kế toán.
Kiểm soát tổ chức được thiết lập nhằm đảm bảo sự tuân thủ và hiệu quả hiệu
lực của tổ chức đối với chính sách, các kế hoạch và các quy định pháp luật hiện

hành, đảm bảo các hoạt động được diễn ra theo các mục tiêu quản lý; đảm bảo việc
sử dụng nguồn lực một cách tiết kiệm và hiệu quả. Kiểm soát tổ chức chủ yếu
hướng đến các hoạt động nhân sự, về tổ chức bộ máy, về chất lượng, về công nghệ
cũng như các hoạt động nghiên cứu và triển khai (Nguồn Tài liệu tham khảo số 7).
Kiểm soát kế toán bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện các trình tự
cần thiết cho việc bảo vệ tài sản và độ tin cậy của sổ sách tài chính kế toán, nghĩa là
phải đảm bảo: Các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể của
quản lý; Các nghiệp vụ ghi sổ là cần thiết và các BCTC cần được lập đúng với các
6
nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận hoặc các tiêu chuẩn có thể áp dụng cho
các báo cáo này đồng thời duy trì khả năng hạch toán của tài sản; Tài sản được quản
lý theo những nguyên tắc nhất định; Các hoạt động đều được ghi nhận vào các thời
điểm thích hợp giúp cho việc thành lập các thông tin kinh tế tài chính phù hợp với
các chuẩn mực kế toán và thể hiện chính xác, toàn diện tình trạng của đơn vị hoặc
đơn vị có nhiệm vụ điều chỉnh phù hợp khi có những sai lệch; Cung cấp căn cứ để
ra quyết định xử lý các sai lệch rủi ro có thể gặp phải.
Như vậy, kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động tài chính của đơn vị
được phản ánh trên tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiểm soát tổ chức lại thiên về cơ
cấu, tổ chức bộ máy nhằm đạt được các mục tiêu của quản lý.
Tuy nhiên kiểm soát kế toán lại có vai trò quan trọng để làm cơ sở cho kiểm
soát quản lý. Kiểm soát kế toán có thể hình thành phương pháp tự kiểm soát như
kiểm soát qua chứng từ, đối ứng tài khoản, qua tổng hợp – cân đối kế toán.
Mục tiêu của kiểm soát là đảm bảo cho quá trình tác nghiệp được thành công
theo mục đích của quản lý, chính vì vậy việc ngăn ngừa, phát hiện, điều chỉnh các
sai sót trong quản lý là thực sự cần thiết, kiểm soát cũng phải chú ý đến các nội
dung này. Theo quan hệ với quá trình tác nghiệp gồm kiểm soát ngăn ngừa, kiểm
soát phát hiện và kiểm soát điều chỉnh.
Kiểm soát ngăn ngừa tập trung chủ yếu vào việc quản lý nhân sự, xây dựng
các quy trình, quy phạm thực hiện các thao tác tác nghiệp.
Kiểm soát phát hiện tập trung vào việc phát hiện các gian lận, sai sót, sai lầm

và rủi ro trong quá trình tác nghiệp một cách nhanh chóng, nhằm giúp các cấp lãnh
đạo có những quyết định xử lý kịp thời, hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại
có thể xảy ra.
Kiểm soát điều chỉnh hướng tới việc cung cấp những thông tin cần thiết cho
việc ra các quyết định điều chỉnh các sai sót được phát hiện.
Theo thời điểm kiểm soát gồm kiểm soát trước kiểm soát tác nghiệp và kiểm
soát sau tác nghiệp:
7
Kiểm soát trước hay còn gọi là kiểm soát lường trước, kiểm soát lường trước
về tương lai, nhằm khắc phục độ trễ thời gian trong kiểm soát thực hiện: Đó là sự
tiên liệu những diễn biến có thể xảy ra trong quá trình tác nghiệp đề phòng những
rủi ro và các khó khăn tiềm ẩn.
Kiểm soát trong quá trình tác nghiệp là hoạt động kiểm soát được tiến hành
ngay trong quá trình tác nghiệp nhằm ngăn ngừa, phát hiện sai lầm, kiểm tra việc
thi hành các quyết định quản lý trong quá trình tác nghiệp. Loại kiểm soát này có
tác dụng lớn trong việc làm giảm các rủi ro, các sai sót, đảm bảo hiệu quả của
công việc.
Kiểm soát sau tác nghiệp hay còn gọi là kiểm soát thông tin phản hồi hoặc còn
gọi là kiểm soát thông tin trở về trước là kiểm soát thông dụng nhất hiện nay. Mặc
dù bị độ trễ về thời gian, song bù lại kiểm soát sau khi tác nghiệp lại có đầy đủ căn
cứ để đánh giá đo lường kết quả tác nghiệp.
Xét theo phạm vi kiểm soát bên trong đơn vị:
Kiểm soát nội bộ : Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IEAC), hệ thống KSNB
là hệ thống các chính sách và thủ tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu
sau: bảo vệ tài sản của đơn vị; đảm bảo độ tin cậy của các thông tin; đảm bảo việc
thực hiện các chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả hoạt động. Theo đó, KSNB là một
chức năng thường xuyên của các đơn vị, tổ chức và trên cơ sở xác định rủi ro có thể
xảy ra trong từng khâu công việc để tìm ra biện pháp ngăn chặn nhằm thực hiện có
hiệu quả tất cả các mục tiêu đặt ra của đơn vị. (Nguồn tài liệu tham khảo số 13).
Khái niệm KSNB ra đời từ đầu thế kỷ 20 trong thuật ngữ của các kiểm toán

viên độc lập, mô tả các hoạt động tự kiểm soát tại đơn vị. Sự phát triển mạnh mẽ
của các hình thức gian lận với thiệt hại lớn tại các đơn vị đã dẫn đến sự quan tâm
của xã hội đến hoạt động KSNB. Năm 1992, Ủy ban Các tổ chức Đồng bảo trợ
(Tiếng Anh viết tắt là COSO) của Hội đồng quốc gia chống gian lận báo cáo tài
chính Hoa Kỳ (thường gọi là Ủy ban Treadway) đã công bố Báo cáo COSO 1992,
đưa ra một khuôn mẫu về KSNB. Báo cáo này thông qua việc cung cấp cái nhìn
toàn diện về KSNB, đã đặt nền tảng cho các lý thuyết về KSNB hiện nay.
8

×