Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay đầu tư tại ngân hàng phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.65 KB, 92 trang )

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã
có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, đã có những đóng
góp xứng đáng vào cơng cuộc Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế nói
chung và q trình đổi mới, phát triển của các thành phần kinh tế nói riêng;
trở thành ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt
trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nhà nước ta đã góp phần tích cực
huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều
kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước. Ngành ngân
hàng đã xứng đáng là công cụ đắc lực hỗ trợ cho nhà nước trong việc kiềm
kế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả.
Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của Hệ thống ngân hàng ở nước
ta hiện nay, chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 60%) trong danh mục tài sản nhưng
cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất. Ngân hàng Phát triển Việt Nam là ngân hàng
chính sách của Chính phủ, mang những nét đặc thù, khơng hồn tồn giống
như hoạt động của Ngân hàng thương mại nhưng cũng không phải là một
ngoại lệ.
Thực tế sau 3 năm hoạt động cho thấy rủi ro trong hoạt động tín dụng
đầu tư luôn hiện hữu, thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn trong cho vay tín dụng đầu
tư của Ngân hàng Phát triển Việt Nam thời gian qua là khá cao và đang có xu
hướng tăng lên. Tính đến ngày 31/12/2008, dư nợ cho vay đầu tư của Ngân
hàng Phát triển Việt Nam là 61.000 tỷ đồng, trong đó nợ gốc quá hạn trên
2900 tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 4,8% dư nợ.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Quản trị rủi ro
trong hoạt động cho vay đầu tư tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam"
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề chung về Ngân hàng Phát triển, về đối tượng chio


vay đầu tư, những rủi ro và quản trị rủi ro tín dụng phát triển của Ngân hàng


Phát triển.
Trên cơ sở thực trạng quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
đầu tư tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam, đề xuất các giải pháp tăng cường
quản trị rủi ro tín dụng troing hoạt động cho vay đầu tư nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng, góp phần làm lành mạnh tình hình tài chính của Ngân hàng
Phát triển Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác quản trị rủi ro trong hoạt
động cho vay đầu tư tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: tập trung nghiên cứu thực trạng rủi ro trong hoạt
động cho vay đầu tư, các biện pháp quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay
đầu tư của hệ thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam trên cơ sở dữ liệu từ năm
2006 - Quý I/2010.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận là các vấn đề chung về rủi ro và quản trị rủi ro tín dụng
phát triển của Ngân hàng Phát triển, dựa trên những cơ sở lý luận về rủi ro và
quản trị rủi ro tín dụng nói chung và đặc điểm của mơ hình Ngân hàng Phát
triển và dự án phát triển.
- Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp
với việc điều tra, phân tích, so sánh để đánh giá thông qua số liệu, tài liệu và
các báo cáo thống kê trong hệ thống NHPT, các tài liệu tham khảo khác có
liên quan.
- Tham khảo mơ hình quản trị rủi ro của một số Ngân hàng Phát triển
trên thế giới và một số Ngân hàng thương mại trong nước.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm những nội dung chính sau:


Chương 1: Những vấn đề chung về quản trị rủi ro tín dụng phát

triển
Chương 2: Thực trạng về rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt động
cho vay đầu tư tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt
động cho vay đầu tư tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam
CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG PHÁT
TRIỂN
1.1. Khái quát về Ngân hàng Phát triển
1.1.1. Sự cần thiết hình thành Ngân hàng Phát triển
Quá trình phát triển của các tổ chức tài chính gắn liền với quá trình phát
triển kinh tế. Các ngân hàng như ngân hàng thương mại (NHTM), ngân hàng
đầu tư, công ty tài chính… đóng vai trị ngày càng quan trọng trong thu hút
tiết kiệm và tài trợ cho phát triển, hạn chế rủi ro và tăng khả năng sinh lời.
Phần lớn các trung gian tài chính hoạt động vì mục tiêu tối đa hố lợi ích tài
chính của chủ sở hữu. Song có một số tổ chức hoạt động với các mục tiêu và
đối tượng phục vụ đặc biệt, hướng tới lợi ích kinh tế - xã hội. Các tổ chức tài
chính này được gọi là là "các cơng ty tài chính phát triển". Ngân hàng phát
triển (NHPT) là một tổ chức tài chính như vậy.
NHPT là tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là tài trợ trung và dài
hạn cho các dự án phát triển.
Hoạt động của NHPTVN là huy động, tài trợ và làm các dịch vụ thanh
toán. Mục tiêu hoạt động của NHPT là tài trợ có hiệu quả các chương trình
phát triển kinh tế do Chính phủ hoạch định. Phương thức hoạt động chủ yếu
là đầu tư trung và dài hạn cho các công trình kinh tế trọng điểm, hỗ trợ các
doanh nghiệp phát triển thông qua đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ.


Không chỉ hiện diện ở những nước đang phát triển, Ngân hàng phát triển
đã, đang và sẽ tồn tại ở nhiều nước phát triển như Đức, Mỹ, Pháp, Nhật

Bản… Trong lĩnh vực tài trợ các dự án phát triển, các NHPT đã không ngừng
phát triển với tư cách là các tổ chức tài chính Nhà nước như Ngân hàng Phát
triển Trung Quốc, NHPT Nhật Bản, hoặc với tư cách là tổ chức tài chính quốc
tế như Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng khu vực (Ngân hàng Phát triển
Châu Á, Ngân hàng Châu Phi)
NHPT được hình thành vì các lý do chủ yếu sau đây:
 Nhu cầu vốn trung dài hạn cho phát triển kinh tế
Nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế, đặc biệt vốn trung và dài hạn là rất
lớn như nhu cầu cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển (đường giao
thông, bến cảng…) nhu cầu của các doanh nghiệp về đầu tư mới, trang bị máy
móc, mở rộng quy mơ sản xuất… Các nhu cầu này được đáp ứng chủ yếu
bằng tiết kiệm của doanh nghiệp, dân cư và Ngân sách Nhà nước (NSNN)
dành cho đầu tư. Tuy nhiên những nguồn này rất hạn chế, đặc biệt tại các
nước đang phát triển, nguyên nhân do:
- Thứ nhất, hệ thống NHTM với nguồn vốn ngắn hạn là chủ yếu, tập
trung cho vay ngắn hạn. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn thấp và kỳ hạn
thường chỉ từ 3-7 năm.
- Thứ hai, thị trường vốn trung và dài hạn khơng có hoặc kém phát triển.
- Thứ ba, chi ngân sách cho phát triển kinh tế bị hạn chế do thu ngân
sách còn eo hẹp, khả năng đầu tư của Chính phủ cho phát triển kinh tế bị hạn
chế. Nhiều khoản chi đầu tư bị giảm hiệu quả rấtlớn do tình trạng tham nhũng
và trình độ quản lý yếu kém trong bộ máy của Chính phủ.
Những lý do chủ yếu trên đã tạo ra khoảng cách lớn giữa cung và cầu
trên thị trường tài chính dài hạn. Một trong những chính sách giải quyết là
xây dựng một loại hình tổ chức tài chính có khả năng thu hút và cung cấp các
nguồn vốn trung và dài hạn có hiệu quả cho các dự án phát triển. Đó chính là


Ngân hàng phát triển.
 Thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong tài trợ dài hạn

Bên cạnh mục tiêu hiệu quả tài chính, phát triển kinh tế đòi hỏi phải thực
hiện đồng bộ các mục tiêu kinh tế - xã hội như thay đổi cơ cấu kinh tế, xố
đói giảm nghèo, bảo vệ mơi trường… nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền
vững. Việc đầu tư lồng ghép như vậy có thể phải chấp nhận mục tiêu sinh lời
trực tiếp thấp hơn so với các khoản đầu tư khác do:
- Thứ nhất, các dự án phát triển là rất cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế. Các dự án này có khả năng sinh lời thấp, hoặc rủi ro cao,
đặc biệt là dự án trong các ngành công nghiệp mũi nhọn và vùng nông thôn
rộng lớn.
- Thứ hai, nhiều NHTM không sẵn sàng đầu tư vào dự án phát triển doi
phần lớn các khoản tín dụng của NHTM địi hỏi phải có tài sản thế chấp và
phải đặt được hiệu quả tài chính theo cơ chế thị trường.
NHPT là một tổ chức tài chính thực hiện chính sách tài trợ ưu tiên có
hạn chế của Chính phủ nhằm thực hiện các cơng cuộc đầu tư đặc biệt. Các
hoạt động nhằm mục tiêu phi lợi nhuận càng nhiều thì tính hỗ trợ phải càng
cao.
 u cầu thực hiện các mục tiêu phát triển có hiệu quả
Một dự án phát triển thường chứa đựng nhiều mục tiêu (như tăng lợi
nhuận và công ăn việc làm…) mà các mục tiêu này trong nhiều trường hợp lại
làm giảm quy mô của nhau. Điều này cản trợ hoạt động của các thể chế tài
chính theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên các dự án này lại khơng thích hợp
hồn tồn với phương pháp cấp phát ngân sách do có nguồn thu trực tiếp từ
bán sản phẩm của dự án. Chínhphủ sử dụng nguồn vốn tín dụng nhằm làm
tăng tính hiệu quả tài chính của dự án phát triển. Lý do sử dụng nguồn vốn tín
dụng trong tài trợ cho các dự án phát triển là:
- Thứ nhất, Ngân sách Nhà nước nghèo nàn và phải sử dụng ưu tiên cho


các dự án khơng thể hồn lại vốn. Trong khi đó, nhiều dự án phát triển tạo
nguồn thu trực tiếp (có khả năng sinh lời), có khả năng hồn trả, có thể và cần

thiết phải tiếp cận với nguồn vốn tín dụng.
- Thứ hai, phương pháp tài trợ bằng cách cho vay có nhiều ưu thế. Trước
hết vốn của Nhà nước thường được cộng thêm vốn đối ứng huy động trên thị
trường, tạo điều kiện mở rộng quy mô tài trợ cho các dự án phát triển. Kết quả
của việc hoàn trả là nguồn vốn của Nhà nước lại được tái tạo, tiếp tục một
hoạt động tài trợ mới.
Tài trợ ưu đãi qua chương trình tín dụng của Chính phủ được thực hiện
có hiệu quả thơng qua hoạt động của NHPT. Ngoài việc cung cấp các nguồn
vốn trung và dài hạn cho các dự án, NHPT còn cung cấp với một số điều kiện
ưu đãi mà các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động theo cơ chế thị trường
không thể thực hiện được. Như vậy, NHPT được thành lập nhằm tài trợ các
loại hình đầu tư phát triển (ĐTPT) có hiệu quả tài chính.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng phát triển
1.1.2.1. Huy động vốn
Huy động vốn đã trở thành hoạt động chủ yếu của ngân hàng hiện nay.
Tuy nhiên đối với NHPT, vấn đề là làm thế nào để huy động được vốn trung
và dài hạn với lãi suất bình quân thấp trong điều kiện cạnh tranh giữa các
TCTD gia tăng…
 Yêu cầu đối với nguồn vốn
Nguồn vốn của ngân hàng phải đảm bảo mối liên hệ giữa kỳ hạn và lãi
suất. Với hoạt động chủ yếu là tài trợ cho các dự án dài hạn có khả năng sinh
lời thấp hoặc rủi ro cao, yêu cầu đặt ra cho NHPT là phải có nguồn vốn hỗn
hợp với lãi suất tương đối thấp, thời gian sử dụng dài và chấp nhận rủi ro.
 Các hình thức huy động vốn.
NHPT huy động vốn thơng qua các hình thức sau:
- Huy động tiền gửi trên thị trường trong đó chủ yếu là tiền gửi trung và


dài hạn.
- Phát hành giấy nợ trung và dài hạn.

- Huy động các quỹ của Nhà nước: Nguồn vốn này tuy eo hẹp nhưng lại
có vai trị rất quan trọng, tạo ra nguồn vốn hỗn hợp với chi phí bình quân thấp
hơn các NHTM, tạo điều kiện để NHPT cho vay với lãi suất thấp hơn, hoặc
gia tăng khả năng chấp nhận rủi ro.
- Huy động các khoản tài trợ từ các tổ chức khác.
- Vay nước ngoài (song phương, đa phương hoặc từ các tổ chức tài chính
phát triển).
- Tài trợ từ Ngân hàng Trung ương: thông qua các hình thức như mua lại
các khoản nợ, bảo lãnh, cấp vốn, cho vay lại… trong một số trường hợp.
- Vốn và quỹ của ngân hàng.
 Quản lý nguồn vốn
Tìm kiếm và thực hiện các biện pháp gia tăng quy mô nguồn vốn với lãi
suất thấp, kỳ hạn dài và ổn định là điều kiện sống còn của NHPT. Chiến lược
nguồn vốn của ngân hàng là khai thác triệt để các nguồn hỗ trợ từ Chính phủ,
các tổ chức tài chính, tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư, huy động vốn
trung và dài hạn.
 Quản lý kỳ hạn và chi phí của nguồn
NHPT cho vay trung, dài hạn là chủ yếu. Để đảm bảo mức sinh lời hợp
lý, ngân hàng duy trì tài sản thanh khoản ở mức rất thấp. Hơn nữa do yêu cầu
cho vay các dự án từ 10-20-30 năm trong khi nguồn vốn huy động với kỳ hạn
ngắn hơn (5-10 năm), ngân hàng phải thực hiện một kỹ thuật quan trọng là
chuyển hoá các nguồn tiền từ các kỳ hạn ngắn hơn sang kỳ hạn dài hơn. Do
vậy, quản lý nguồn vốn bao gồm:
- Tính tốn chi phí huy động nhằm đảm bảo nguyên tắc kinh doanh có
lãi.
- Quản lý thanh khoản.


1.1.2.2. Sử dụng vốn
NHPT thực hiện mục tiêu kinh doanh thơng qua sử dụng vốn, hình thành

các khoản mục tài sản của NHPT.
 Các loại tài sản:
- Ngân quỹ: bao gồm tiền mặt trong két, tiền gửi tại Ngân hàng trung
ương và các ngân hàng khác. Ngân quỹ của NHPT thường chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng tài sản.
- Tài trợ ngắn hạn: Quy mô tài trợ ngắn hạn nhỏ, chủ yếu trong các dự án
phát triển mà ngân hàng tài trợ trung và dài hạn.
- Tài trợ theo dự án (trung và dài hạn): Là hoạt động quan trọng của
NHPT, phản ánh mục tiêu và nội dung hoạt động chính của ngân hàng. Tài trợ
theo dự án có thể chia theo các tiêu thức khác nhau:
+ Tài trợ theo dự án đã được chỉ định trước của chủ tài trợ.
+ Tài trợ theo dự án được ngân hàng khai thác và tìm kiếm.
+ Tài trợ theo dự án với nguồn vốn ưu đãi.
+ Tài trợ theo dự án với nguồn vốn thị trường
+ Tài trợ độc lập, hoặc đồng tài trợ, hoặc tài trợ qua ngân hàng đầu mối.
Trong đó, tài trợ các dự án trong kế hoạch của Chính phủ và các dự án
tìm kiếm ln được ngân hàng quan tâm đặc biệt.
- Các tài sản khác: đầu tư trực tiếp vào các ngành kinh tế, cho thuê.
 Quản lý tài sản:
- Xác định ngân quỹ của ngân hàng trong mối quan hệ với nhu cầu thanh
khoản trong trung và dài hạn.
- Quản lý rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
- Quản lý các khoản cho vay và tính sinh lời của tài sản.
NHPT quan tâm đến khả năng sinh lời của các tài sản, đặc biệt là các
khoản cho vay - loại tài sản mang lại thu nhập nhiều nhất cho ngân hàng. Nội
dung quản lý các khoản cho vay bao gồm:


+ Xác định quy mô và tỷ trọng các khoản cho vay ưu đãi theo chỉ thị của
Chính phủ.

+ Xác định rủi ro từ các dự án.
+ Tìm kiếm, phân tích thẩm định các dự án phát triển phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế của quốc gia.
1.1.2.3. Các hoạt động khác
NHPT cung cấp dịch vụ bảo lãnh, tư vấn đầu tư, thanh toán… Là ngân
hàng chuyên doanh nên các hoạt động khác của ngân hàng ít đa dạng hơn so
với các NHTM.
1.1.3. Hoạt động Tín dụng phát triển của Ngân hàng phát triển
1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của dự án phát triển.
Các dự án phát triển kinh tế (Dự án phát triển) là dự án trực tiếp tạo ra
sản phẩm chiến lược, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của ngành, vùng, thúc đẩy
quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế hoặc cơ cấu thu nhập của nhiều bộ phận dân
cư. Dự án phát triển thường có các đặc điểm sau đây:
- Dự án phát triển là những dự án lớn có vai trị quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế của quốc gia.
Các dự án phát triển nằm trong kế hoạch phát triển kinh tế của quốc gia.
Dự án phát triển có quy mơ lớn, thời gian vận hành dài. Tại nhiều nước đang
phát triển, dự án phát triển do Chính phủ quyết định và thực hiện, vì vậy nó
mang tính chất dự án cơng. Một số dự án do các tập đoàn kinh tế của Nhà
nước hoặc tư nhân thực hiện có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Dự án phát triển thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia như
chiến lược công nghiệp hố, phát triển nơng nghiệp và nơng thơn, chiến lược
xuất khẩu hoặc thay thế hàng nhập khẩu, chiến lược giảm đói nghèo, bảo vệ
mơi trường…
- Dự án phát triển nhằm tới hai mục tiêu: Hiệu quả tài chính và hiệu quả
xã hội.


Các dự án phát triển phải tạo ra thu nhập bù đắp tồn bộ chi phí và có lãi.
Do đó, các dự án này phải được thiết kế trên cơ sở tính tốn được hiệu quả tài

chính trực tiếp. Khác với dự án thương mại, dự án phát triển phải thực hiện
các mục tiêu xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng, thay đổi cơ cấu kinh tế…
Chủ đầu tư thường là Nhà nước (hoặc các cơ quan phát triển) nên việc thực
hiện đa mục tiêu là tất yếu đối với dự án phát triển.
Các mục tiêu trong một số trường hợp lại mâu thuẫn với nhau, hoặc làm
giảm độ lớn của nhau. Chủ đầu tư vì vậy phải xác định nhóm mục tiêu cơ bản,
có tính thống nhất cao.
- Dự án phát triển nhận hỗ trợ trực tiếp từ Nhà nước.
Do tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển kinh tế, dự án phát triển
thường nhận hỗ trợ trực tiếp từ Nhà nước, như được ngân sách cấp vốn, được
vay ưu đãi, vay không cần tài sản đảm bảo, được Chính phủ bảo lãnh (miễn
phí) khi vay vốn, được đảm bảo vị thế độc quyền trong thời gian nhất định.
Thứ nhất, sản phẩm của dự án áp dụng giá độc quyền (có thể cao hoặc
thấp hơn giá thị trường) để đảm bảo dự án có lãi, hoặc để các doanh nghiệp sử
dụng sản phẩm của dự án có chi phí đầu vào thấp.



khơng cịn khả năng thu hồi. Do vậy, nếu chỉ tiêu này tăng thì RRTD của
ngân hàng là rất lớn.
 Giá trị tổn thất ước tính:
Tổn xu thế các tổ chức tín dụng sẽ căn cứ vào cơ sở dữ liệu đầy đủ để
xác định giá trị tổn thất theo công thức sau: ED = PD x EAL x LGD
Trong đó:
+ EL (Expected Loss): Giá trị tổn thất của một khoản vay có thể ước tính.
+ PD (Probability of Default) là xác suất khách hàng không trả được nợ:
cơ sở của xác suất này là các số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách
hàng, gồm các khoản nợ đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ khơng thu
hồi được. Căn cứ vào nhóm dữ liệu tài chính, dữ liệu đính tính phi tài chính,
dữ liệu mang tính cảnh báo để nhập vào một mơ hình định sẵn để tính được

xác suất khơng trả được nợ.
+ EAD (Exposure at Default): Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm
khách hàng không trả được nợ.
+ LGD (Loss Given Default) là tỷ trọng tổn thất ước tính: Đây là tỷ
trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả
được nợ, bao gồm tổn thất về khoản vay, tổn thất phát sinh khi khách hàng
khơng trả được nợ (chi phí xử lý tài sản BĐTV, chi phí dịch vụ pháp lý,…).
Với việc xác định tổn thất ước tính của khoản vay sẽ giúp tổ chức tín
dụng xây dựng hiệu quả hơn Quỹ dự phịng rủi ro tín dụng, nâng cao chất
lượng giám sát và tái xếp hạng khách hàng sau khi cho vay.
 Điểm của khách hàng
Thơng qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh,
hiệu quả dự án, mối quan hệ và uy tín của khách hàng… ngân hàng lập hồ sơ
về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao,
RRTD thấp, khách hàng loại C hoặc điểm thấp, RRTD cao. Chỉ tiêu này được
xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng xây dựng. Điểm của


khách hàng cho thấy rủi ro "tiềm ẩn".
 Các khoản cho vay có vấn đề
Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá
trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu
hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn
đề được xây dựng trên quy định của ngân hàng.
 Tính kém đa dạng của tín dụng
Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kỳ
của người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một
nhóm khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so
với đa dạng hóa.
1.3.3. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng phát triển

RRTD trong hoạt động tín dụng phát triển của NHPT có thể do nhiều
nguyên nhân tạo ra, nhưng nhìn chung bao gồm các nhóm nguyên nhân sau:
1.3.3.1. Nguyên nhân thuộc về dự án phát triển và cơ chế chính sách về
tín dụng phát triển
Nhóm ngun nhân chính dẫn đến RRTD của NHPT là do đặc điểm của
bản thân các dự án phát triển mà ngân hàng tài trợ và cơ chế chính sách về tín
dụng phát triển của Nhà nước. Có thể khái quát một số nguyên nhân sau:
- Thời hạn cho vay của NHPT đối với các dự án phát triển thường rất
dài, trung bình là 10 năm, có dự án lên tới 20 - 30 năm. Điều này làm cho
hoạt động tín dụng phát triển trở nên rủi ro do NHPT không thể lường trước
được hết những yếu tố biến động xẩy ra trong quá trình đầu tư và vận hành
của dự án.
- Các dự án phát triển thường là các dự án có quy mơ lớn và chỉ thuộc
một số ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn cần ưu đãi theo quy định của Chính phủ,
do vậy việc tài trợ cho các dự án phát triển của NHPT thường có mức độ tập
trung vốn cao, nên mức độ rủi ro cũng cao hơn.


- Các dự án phát triển thường gắn liền với chính sách khuyến khích phát
triển kinh tế của quốc gia, trong đó nhiều dự án phát triển tập trung vào những
đối tượng như: khuyến khích đầu tư vào các vùng khó khăn, đặc biệt khó
khăn; khuyến khích sản xuất các mặt hàng mới, xâm nhập vào thị trường
mới… do vậy các dự án này có mức độ rủi ro rất cao. Điều đó dẫn đến hoạt
động tín dụng phát triển cũng chứa đựng những rủi ro cao hơn.
- Do thực hiện mục tiêu khuyến khích phát triển, nên lãi suất cho vay
vốn tín dụng phát triển thường thấp hơn so với lãi suất thị trường. Do vậy
xuất hiện tâm lý chiếm dụng nguồn vốn "rẻ" của chủ đầu tư, từ đó dẫn đến
RRTD cho NHPT. Bên cạnh đó cũng xuất hiện tâm lý trơng chờ, ỷ lại vào
nguồn vốn tín dụng phát triển mà ít quan tâm đến hiệu quả của dự án dẫn đến
một số dự án được đầu tư kém hiệu quả, khả năng thu hồi vốn vay thấp. Điều

này càng nghiêm trọng hơn đối với các dự án do các DNNN và Chính quyền
địa phương làm chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư vay vốn tín dụng phát triển tại NHPT thường khơng có
tài sản đảm bảo tiền vay, ngoại trừ các tài sản hình thành từ vốn vay. Tuy
nhiên, các tài sản này lại có tính thanh khoản rất thấp, do vậy nguy cơ RRTD
của NHPT là rất cao.
- Là tổ chức tín dụng chính sách, mạng lưới của NHPT được tổ chức
theo cấp chính quyền, và tại địa phương ảnh hưởng của chính quyền đối với
quyết định đầu tư của NHPT là rất cao. Về mặt nguyên lý, dự án phát triển có
ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế của quốc gia và địa phương (hoặc
ngành) nơi có dự án thường được hưởng lợi trực tiếp (như tạo công ăn việc
làm, tăng thu nhập…). Vì vậy, trên thực tế, nhiều địa phương, ngành rất muốn
có dự án phát triển. Do có quyền, nên nhiều địa phương hoặc Bộ chủ quản đã
quyết định đầu tư cho dự án phát triển và tạo sức ép đối với NHPT coi nhẹ
hiệu quả tài chính của dự án.
- Ngoài ra do danh mục các ngành nghề được ưu đãi thay đổi theo từng


thời kỳ, các sản phẩm của ngân hàng kém đa dạng nên NHPT khó duy trì
được mối quan hệ lâu dài với khách hàng… cũng là một nguyên nhân dẫn đến
RRTD cho NHPT.
1.3.3.2. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng phát triển
Đây là nhóm nguyên nhân quan trọng dẫn tới RRTD. Rất nhiều các
khoản RRTD có thể phịng tránh nếu bản thân NHPT chủ động hạn chế tốt
các nguyên nhân chủ quan. Điều này được phản ánh qua thực tế hoạt động
của nhiều NHPT trên thế giới với tỷ trọng nợ xấu chiếm ở mức rất thấp trong
tổng dư nợ khi họ chú trọng các biện pháp ngăn chặn RRTD do chủ quan, bao
gồm:
- Sự thiếu chặt chẽ, hợp lý trong quy chế hoạt động hoặc quy trình
nghiệp vụ cho vay của NHPT.

Đây là một trong số các tiền đề để khách hàng lợi dụng lừa đảo, chiếm
đoạt vốn của ngân hàng. Hoạt động tín dụng phát triển gắn liền với các chiến
lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương trong
từng thời kỳ và có quan hệ mật thiết với các quy định của Nhà nước về đầu
tư, xây dựng, đấu thầu… và những quy định này thường xuyên được sửa đổi
bổ sung, nên yêu cầu về cải tiến, bổ sung và chỉnh lý quy định, quy trình hoạt
động là nhu cầu cấp thiết. Ngân hàng thiếu một chính sách cho vay rõ ràng,
phù hợp với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và các quy định khác có
liên quan của Nhà nước có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng về RRTD. Một
chính sách cho vay khơng đồng bộ, thống nhất, đầy đủ dẫn tới việc cấp tín
dụng khơng đúng đối tượng, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho NHPT.
Để thu hút khách hàng, tăng thu nhập, NHPT có thể bỏ quan các quy
trình tín dụng, hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, lẩn tránh hàng rào
kiểm sốt, thơng tin sai lệch… nên gặp phải rủi ro.
- Trình độ quản lý của ngân hàng khơng đảm bảo.
Trình độ quản lý yếu thể hiện ở việc buông lỏng trong quản lý, khoán


trắng hoặc phó mặc cho cán bộ tín dụng trong q trình xét duyệt các khoản
vay, kiểm sốt cán bộ chưa sâu sát, xử lý cán bộ làm sai chưa nghiêm, đặc
biệt là sai phạm trong quy trình nghiệp vụ tín dụng. Trong khi các dự án phát
triển thường là các dự án lớn, phức tạp và có mức độ rủi ro cao, nhưng một số
NHPT cịn để tình trạng một cán bộ phải quản lý quá nhiều khách hàng với
nhiều ngành nghề, nhiều vùng khác nhau nên không thể tìm hiểu và theo dõi
chi tiết từng khách hàng.
- Chất lượng của đội ngũ cán bộ bao gồm trình độ và đạo đức nghề
nghiệp không đảm bảo.
Nguồn nhân lực với trình độ và kinh nghiệm non kém khiến NHPT có
thể đưa ra quyết định cho vay sai lầm, bởi vì sự an tồn của các khoản vay
khơng chỉ phụ thuộc vào các quy định cho vay mà còn phụ thuộc vào bản thân

hoạt động của khách hàng, của dự án phát triển. Việc đánh giá khách hàng
không chỉ đơn thuần dựa trên các con số báo cáo mà còn cần dựa trên kinh
nghiệm thực tiễn, phân tích và phán đốn về khả năng, cơ hội thành công của
khách hàng. Việc đánh giá hiệu quả của dự án phát triển thường rất phức tạp
do tính chất đa mục tiêu của dự án phát triển. Do vậy việc đánh giá không
đúng về hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả tài chính của dự án phát triển, và do sự
"nhập nhèm" giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội trong quá trình tài trợ
cho dự án phát triển là một nguy cơ dẫn đến RRTD.
Nguồn nhân lực có trình độ cao là một yếu tố quyết định sự phát triển
của NHPT. Các NHPT lớn trên thế giới đều rất quan tâm đến việc tuyển chọn
cán bộ có trình độ cao, đồng thời thường xuyên đào tạo lại cán bộ để bắt kịp
tình hình thực tế. Vì vậy, họ ln đáp ứng được nhu cầu phát triển của thị
trường, đủ sức thẩm định các dự án phát triển, tránh được rủi ro.
Mặt khác, có những nhân viên tín dụng chưa hiểu hết tầm quan trọng của
nghiệp vụ tín dụng nên làm bừa, làm ẩu, thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn tới
việc cho vay mà không thu hồi được nợ. Do các dự án phát triển thường được


tài trợ ưu đãi nhất là về lãi suất nên nhiều chủ đầu tư dự án đã mua chuộc, lôi
kéo các cán bộ NHPT để được sử dụng nguồn vốn tín dụng phát triển của Nhà
nước.
1.3.3.3. Nguyên nhân thuộc về người vay
Nguyên nhân từ phía người đi vay cũng là một trong những nguyên nhân
quan trọng gây ra RRTD cho NHPT. Đây là rủi ro khi người vay không thực
hiện đúng hợp đồng tín dụng ngun nhân là do trình độ yếu kém của người
vay trong dự đoán các vấn đề kinh tế xã hội, yếu kém trong quản lý vận hành
các dự án phát triển, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng.
Do các dự án phát triển thường là các dự án lớn, phức tạp, và thường đầu
tư vào các ngành nghề, lĩnh vực mới, các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn;
thời gian đầu tư thường dài… nên chủ đầu tư rất khó dự đốn được những

biến động về kinh tế xã hội ảnh hưởng tới dự án, việc đánh giá hiệu quả của
dự án phát triển thường gặp nhiều khó khăn. Do trình độ yếu kém của chủ đầu
tư trong việc dự đốn tình hình kinh tế - xã hội, trong thực hiện và vận hành
các dự án phát triển dẫn đến nhiều dự án không có hiệu quả và khơng trả được
nợ hoặc trả khơng đầy đủ, đúng hạn cho NHPT.
Do tính chất ưu đãi trong tài trợ cho các dự án phát triển đặc biệt là về lãi
suất nên nhiều chủ đầu tư nhất là các DNNN và chính quyền địa phương
thường có tâm lý ỷ lại, trơng chờ vào Nhà nước; cố tình chây ì với hy vọng có
thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt, hoặc sử dụng vốn sai
mục đích…
Tài trợ cho các dự án phát triển là sự tài trợ ưu đãi, có hạn chế về đối
tượng sử dụng. Nên để được sử dụng nguồn vốn này, nhiều chủ đầu tư cố tình
cung cấp thơng tin sai sự thật về dự án phát triển, năng lực của chủ đầu tư…,
thậm chí lơi kéo, mua chuộc cán bộ ngân hàng.
Bên cạnh đó, việc thiếu cam kết của người hưởng lợi hoặc sự ủng hộ của
chính quyền địa phương cũng là nhân tố dẫn đến RRTD cho NHPT. Đầu tư


phát triển tạo nên các cơng trình lớn, khó hoặc khơng thể di dời. Các nhân tố
chính trị xã hội địa phương, vì vậy ảnh hưởng lớn, lâu dài đến hiệu quả đầu
tư. Người nơng dân, vì lý do nào đó khơng cung cấp ngun liệu cho nhà
máy, chính quyền không ủng hộ nhà máy trong việc đảm bảo an ninh… đều
làm giảm hiệu quả của công cuộc đầu tư, gây ra RRTD cho NHPT.
1.3.3.4. Nguyên nhân khách quan khác
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm cho họ
mất khả năng thanh tốn cho NHPT. Ví dụ như, thiên tai, chiến tranh hoặc
những thay đổi tầm vĩ mơ (thay đổi chính sách kinh tế, thay đổi về môi trường
pháp lý, môi trường kinh tế, lạm phát,…) vượt quá tầm kiểm soát của người
vay và NHPT.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người

vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản
lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó
khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể bị tổn thất song vẫn có
khả năng trả nợ cho NHPT đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động
của những nguyên nhân khách quan đối với người vay là nặng nề, khả năng
trả nợ của họ bị suy giảm và NHPT gặp phải RRTD.
1.3. Quản trị rủi ro tín dụng phát triển
1.3.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng phát triển
Có khá nhiều định nghĩa: Theo Kloman Haimes, quản trị rủi ro là quá
trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, tồn diện và có hệ thống nhằm nhận
dạng, kiểm sốt, phịng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những
ảnh hưởng bất lợi của rủi ro.
Uỷ ban Basel cho rằng quản trị rủi ro là một quá trình liên tục cần được
thực hiện ở mọi cấp độ của một tổ chức tài chính và là yêu cầu bắt buộc để
các tổ chức tài chính có thể đạt được các mục tiêu đề ra, duy trì khả năng tồn
tại và sự minh bạch về tài chính.


Theo quan điểm hiện đại được các ngân hàng áp dụng phổ biến, quản lý
rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách
quản lý và tín dụng nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi mức độ rủi ro có
thể chấp nhận được. Kiểm sốt rủi ro tín dụng ở mức có thể chấp nhận là việc
ngân hàng tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ
quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, nhằm tăng doanh thu, giảm thấp
chi phí bù đắp rủi ro, nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh tín dụng cả trong
ngắn hạn và dài hạn. "Hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng là một bộ phận quan
trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trị cốt tử cho
sự thành cơng của ngân hàng trong dài hạn" (Basel Committee on Banking
Supervision, 2000).
Có thể đề cập khái niệm quản lý rủi ro tín dụng ở các góc độ khác nhau,

nhưng bản chất là giống nhau và đứng trên góc độ của quản lý khoa học,
chúng ta có thể diễn giải khái niệm quản trị rủi ro tín dụng phát triển là q
trình NHPT tiến hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát
kiểm tra tồn bộ hoạt động tài trợ tín dụng phát triển, nhằm đạt được mục tiêu
của NHPT với mức rủi ro có thể chấp nhận.
1.3.2. Đặc điểm của quản trị rủi ro tín dụng phát triển
- Hoạt động quản trị rủi ro là một quy trình liên tục, mang tính hệ thống.
Kéo dài từ khi tiếp xúc khách hàng đến khi ký hợp đồng tín dụng, giải ngân
và chỉ chấm dứt khi Hợp đồng tín dụng đã được thanh lý.
Rủi ro luôn luôn tiềm ẩn ở bất cứ mọi lúc trong suốt q trình tín dụng.
Khi tiếp xúc khách hàng, khách hàng thường che giấu khuyết điểm của mình
và đề cao những điểm mạnh để gây ấn tượng tốt ban đầu đối với cán bộ tín
dụng. Trong q trình lập hồ sơ, khách hàng thường tạo ra sự chú ý, muốn tạo
lịng tin cho cán bộ tín dụng qua việc cung cấp các thơng tin có lợi cho mình.
Tại giai đoạn này, bao giờ ngân hàng cũng ở trong vị thế thông tin không cân
xứng đối với khách hàng. Chưa kể các mối quan hệ thân thiết có thể làm lu


mờ các thơng tin cụ thể trong q trình xem xét thẩm định hồ sơ vay vốn.
Giai đoạn giải ngân, giám sát sau giải ngân cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khi
cán bộ tín dụng khơng tn thủ quy trình giám sát hoặc bản thân quy trình
giám sát của ngân hàng khơng chặt chẽ. Cán bộ tín dụng sơ ý bỏ qua các lỗi vi
phạm của khách hàng trong việc sử dụng vốn,…
Vì vậy, cơng tác quản trị rủi ro tín dụng phải thường xuyên suốt từ khi
tiếp xúc khách hàng, thẩm định cho vay, ký hợp đồng, giải ngân, thu nợ và chỉ
chấm dứt khi đã thanh lý hợp đồng tín dụng.
- Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng khơng bó hẹp trong phạm vi một bộ
phận, một phịng mà là q trình xun suốt từ hoạt động của cán bộ đến các
phòng ban trong Chi nhánh và Hội sở chính.
Rủi ro tín dụng khơng chỉ được tạo ra do sự tắc trách của cán bộ tín

dụng, do sự non yếu về nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ tín dụng mà cịn có
thể được tạo ra ngay trong cơ chế, chính sách tín dụng của ngân hàng. Rủi ro
tín dụng tồn tại ở mọi lúc, mọi nơi và có thể phát sinh ở bất cứ lúc nào. Vì
vậy, việc quản trị rủi ro đồng hành từ khâu xây dựng cơ chế chính sách, quy
trình nghiệp vụ cho đến q trình thực thi. Việc kiểm sốt rủi ro khơng chỉ ở
cán bộ tín dụng (người thực thi), các Giám đốc Chi nhánh mà còn bao gồm
trong các hoạt động cảnh báo, trong hệ thống báo cáo,… của các Ban Hội sở
chính và cả q trình quản lý tín dụng, quyết định duyệt vay theo phân cấp
giữa Chi nhánh và Hội sở chính.
- Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng phải được thực hiện thường xuyên,
liên tục và ln ln được cải tiến. Hoạt động tín dụng chịu tác động rất lớn
từ mơi trường. Trong đó, khơng ít các nguyên nhân rủi ro tín dụng đều xuất
phát từ môi trường. Mà môi trường hoạt động luôn biến đổi trong khi tài
nguyên, nhân lực của ngân hàng không những có hạn mà ln biến động
khơng theo kịp sự biến động của mơi trường. Vì vậy, hoạt động quản trị rủi ro
tín dụng cũng phải thích nghi được với sự thay đổi và biến động đó. Các ngân


hàng đều có các chun gia phân tích mơi trường, nhận diện rủi ro để tự cải
thiện và xây dựng các chính sách đối phó thích hợp. Trong đó có các chính
sách, hoạt động liên quan đến quản trị rủi ro tín dụng.
- Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng khơng chỉ là q trình hoạch định,
phân tích, tổ chức, kiểm sốt mà cịn phải xử lý tổn thất khi rủi ro xảy ra. Hoạt
động tín dụng là dịch vụ, khơng có sản phẩm cụ thể. Khi quyết định cho vay,
nếu có rủi ro xảy ra, ngân hàng khơng thể thay thế và sửa chữa nó như hoạt
động sản xuất. Vì vậy, các chính sách, cơng việc mà cán bộ tín dụng cần phải
thực hiện khi rủi ro xảy ra là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động
quản trị rủi ro tín dụng. Các nhà quản trị cấp cao rất quan tâm đến nội dung
này và thường ban hành các chính sách có liên quan một cách cụ thể nhằm xử
lý tổn thất một cách có hiệu quả nhất.

- Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng luôn gắn kết với chiến lược kinh
doanh của ngân hàng, là một bộ phận không thể tách rời với công tác quản trị
ngân hàng. Vì vậy, chính sách khách hàng là một bộ phận không thể tách rời
trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng.
- Quản trị rủi ro tín dụng trong mỗi bộ phận mang tính sáng tạo to lớn.
Điều này có nghĩa là cùng với các điều kiện về con người và về vật chất kỹ
thuật như nhau nhưng quản trị rủi ro tín dụng của mỗi ngân hàng lại có thể
khai thác khác nhau, đem lại hiệu quả khác nhau. Nói cách khác, với những
điều kiện về nguồn lực như nhau, quản trị tốt sẽ phát huy hiệu quả của những
nguồn lực đó nhằm giảm thiểu rủi ro theo như mong muốn. Còn quản trị tồi
sẽ khơng khai thác được thậm chí cịn làm hao tổn nguồn lực, dẫn đến tổn thất
trầm trọng thêm.
1.3.3. Nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng phát triển
Là một loại hình rủi ro trong hoạt động ngân hàng, quản trị rủi ro tín
dụng của NHPT cũng phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của quản trị rủi
ro trong hoạt động Ngân hàng nói chung bao gồm:


- Nguyên tắc chấp nhận rủi ro: Các nhà quản lý ngân hàng cần phải chấp
nhận rủi ro ở mức độ cho phép, nếu như mong muốn có được thu nhập phù
hợp từ những hoạt động nghiệp vụ của mình. Dĩ nhiên, mỗi nghiệp vụ cụ thể
sau khi đánh giá mức độ rủi ro, các ngân hàng cần xây dựng chiến thuật
"phịng chống rủi ro"; Tuy nhiên, loại bỏ hồn tồn rủi ro trong hoạt động
ngân hàng là khơng thể, bởi vì rủi ro ngân hàng là sự hiện hữu khách quan
vốn có trong các nghiệp vụ của ngân hàng. Do đó, ngun tắc đầu tiên trong
q trình quản lý rủi ro đối với các nhà quản lý ngân hàng là phải nhận biết
những "rủi ro cho phép". Việc chấp nhận mức độ rủi ro, nhận biết các loại rủi
ro là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực của chúng
trong quá trình quản lý rủi ro.
- Nguyên tắc điều hành rủi ro cho phép: Nguyên tắc này địi hỏi phần

lớn rủi ro trong "gói rủi ro cho phép" phải có khả năng điều tiết trong q
trình quản lý mà khơng phụ thuộc vào những hồn cảnh khách quan và chủ
quan. Chỉ đối với những loại rủi ro như vậy thì các nhà quản lý ngân hàng
mới có thể sử dụng tất cả những "vũ khí", "nghệ thuật" của mình để điều tiết
chúng. Ngồi ra, đối với các loại rủi ro khơng cịn khả năng "điều chỉnh" cần
phải được chuyển, đẩy sang lĩnh vực khác phù hợp hơn; Ví dụ: chuyển sang
các Cơng ty bảo hiểm.
- Nguyên tắc quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt: Một trong những
nguyên lý cơ bản của lý thuyết quản lý rủi ro là các loại rủi ro khá độc lập với
nhau và sự thiệt hại do một loại nào đó trong "gói rủi ro cho phép" gây nên
khơng nhất thiết sẽ làm tăng xác suất xảy ra với các loại rủi ro khác. Nói cách
khác, về nguyên tắc sự thiệt hại đối với ngân hàng do các loại rủi ro khác
nhau gây nên là khá độc lập với nhau và quá trình quản lý chúng cần phải
được điều tiết riêng biệt, không thể gộp các loại rủi ro khác nhau vào một
nhóm để đưa ra cùng một phương pháp điều hành.
- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập:


Nguyên tắc này là nền tảng của lý thuyết quản lý rủi ro. Các ngân hàng
trong quá trình hoạt động của mình chỉ được phép chấp nhận các loại, mức độ
rủi ro mà thiệt hại khi chúng xảy ra ở mức khơng được cao q mức thu nhập
phù hợp. Có nghĩa là, tất cả các loại rủi ro có mức độ cao hơn mức độ thu
nhập mong đợi cần phải được loại bỏ.
- Nguyên tắc phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài
chính:Giá trị thiệt hại mà ngân hàng mong muốn từ những khoản rủi ro phải
phù hợp với phần vốn mà ngân hàng có thể trích dự phịng cho những thiệt
hại khi chúng xảy ra. Khi rủi ro xảy ra, kéo theo sự thiệt hại thu nhập, giảm
lợi nhuận và giảm nhịp độ phát triển của ngân hàng. Do đó, giá trị thiệt hại
phải phù hợp với mức vốn dự phòng của ngân hàng và ngân hàng phải xác
định được mức độ (dự báo) phù hợp, bao gồm cả những khoản rủi ro không

thể chuyển được sang cho đối tác hay các công ty bảo hiểm bên ngoài.
- Nguyên tắc hiệu quả kinh tế: Mục đích cơ bản của việc quản lý rủi ro
ngân hàng là điều tiết những tác động tiêu cực của rủi ro khi nó xảy ra. Cùng
với nó, chi phí của ngân hàng bỏ ra để giảm thiểu rủi ro phải thấp hơn giá trị
thiệt hại do những rủi ro xảy ra và thậm chí ở mức độ thấp nhất khi chúng xảy
ra.
- Nguyên tắc hợp lý về thời gian: Thời gian tồn tại của một nghiệp vụ
ngân hàng càng lâu thì biên độ xảy ra rủi ro càng lớn, khả năng điều tiết
những tác động tiêu cực của nó và tính kinh tế của quản lý rủi ro càng thấp.
Khi bắt buộc phải tồn tại các nghiệp vụ này thì ngân hàng phải đảm bảo mức
độ thu nhập phụ trội cần thiết, khơng chỉ vì lợi nhuận mà cịn vì mục đích bù
đắp những chi phí để điều tiết tác động xấu của rủi ro trong trường hợp chúng
xảy ra.
- Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng: Hệ thống
quản lý rủi ro cần phải được dựa trên nền tảng những tiêu chí chung của chiến


lược hoạt động và phát triển của ngân hàng cũng như các chính sách điều
hành trong hoạt động của ngân hàng.
- Nguyên tắc chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép: Nguyên tắc này
đòi hỏi các loại rủi ro phải nằm trong “gói rủi ro cho phép”, phải có khả năng
tính chuyển đẩy cao. Các loại rủi ro khơng tương thích với khả năng của ngân
hàng trong việc điều tiết những hậu quả tiêu cực khi chúng xảy ra hay không
phù hợp với những yêu cầu cụ thể của chiến lược và chính sách điều hành
hoạt động của ngân hàng cần phải được loại bỏ khỏi “gói rủi ro cho phép”.
Hay nói cách khác, chúng chỉ được cho phép rủi ro khi có khả năng chuyển
đẩy cao sang các đối tác khác hoặc các công ty bảo hiểm bên ngoài.
Trên đây là 9 nguyên tắc cơ bản để từ đó mỗi ngân hàng xây dựng cho
mình một chính sách quản lý hay quản lý rủi ro riêng biệt.
1.3.4. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng phát triển

Theo ngun lý chung trong quy trình quản lý rủi ro tín dụng, phải bảo
đảm thực hiện đồng bộ các khẩu (i) xác định rủi ro, (ii) tìm hiểu, (iii) đo
lường rủi ro, (iv) phân tích rủi ro, (v) theo dõi, (vi) quản lý và (vii) báo cáo.
Mặc dù có sự phân đoạn trong quy trình quản lý rủi ro tín dụng song một
ngun tắc có tính xun suốt là các khâu được phân ra trong quy trình phải
ln có sự liên hệ gắn bó với nhau, tạo thành một chu trình liên tục, có vậy
mới bảo đảm kiểm sốt được rủi ro theo mục tiêu đã định. RRTD một khi đã
xác định thì cần phải phân tích, đo lường và đưa ra các biện pháp quản lý theo
dõi. Cũng trong quá trình quản lý theo dõi, hệ thống quản lý rủi ro tín dụng
phải có khả năng xác định, tìm ra các nguy cơ rủi ro mới, và công việc của
quản lý rủi ro lại được lặp lại.
Trên thực tế, có những tài liệu khác phân quá trình quản lý rủi ro ra
thành 4 khâu: xác định; đo lường; quản lý và kiểm soát. Nội dung cụ thể, cách
phân đoạn đã giúp một số khâu trong cách phân đoạn của cách thứ nhất vào
làm một phân đoạn; ví dụ: khâu tìm hiểu, đo lường và phân tích được gộp


chung vào khâu đo lường. Cho dù là cách phân đoạn nào, thì điều quan trọng
quá trình quản lý rủi ro tín dụng muốn đạt hiệu quả phải bảo đảm rằng các
công đoạn như phát hiện kịp thời, xác định được rủi ro đang tồn tại, phân tích
và định lượng nó để từ đó đề ra biện pháp ứng phó. Quản lý rỉ ro tín dụng
hiệu quả khơng có nghĩa là rủi ro không xảy ra mà là rủi ro có thể xảy ra
nhưng xảy ra trong mức độ dự đoán trước và ngân hàng đã chuẩn bị đủ nguồn
lực để bù đắp các rui ro có thể xảy ra đó.
+ Phát hiện RRTD là việc nhận biết được các nguy có rủi ro tồn tại trong
hoạt động tín dụng. Sự phát triển của công nghệ, thị trường và xu hướng tồn
cầu hóa làm cho số lượng rủi ro ngày càng gia tăng và khả năng xảy ra rủi ro
sẽ thường xuyên hơn. Vì vậy, một hệ thống quản lý rủi ro có hiệu lực, hiệu
quả phải là hệ thống có khả năng nhận biết hết các rủi ro hiện hữu trong tín
dụng. Ngân hàng nắm được tình hình rủi ro của danh mục tín dụng, ngân hàng

cần xác định rõ lý do RRTD: do đánh giá tín dụng chưa tốt? do thoái trào kinh
doanh? Do gian lận? hay do chất lượng tài sản thế chấp kém?...
+ tìm hiểu, đo lường, phân tích là các bước tiếp theo sau khi đã phát hiện
được nguy cơ rủi ro. Trên thực tế các bước này khá gần gũi với nhau và
thường được gộp chung lại trong quá trình thực hiện tác nghiệp. Mục đích của
các bước này là giúp cho bộ máy quản lý rủi ro hiểu chính xác và nhất quán
nguy cơ rủi ro đã xác định, phân tích rõ nguyên nhân và quan trọng nhất là
lực lượng hóa mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng.
+ Theo dõi: sau khi đã xác định, phân tích và hình thành các chỉ tiêu đo
lường, rủi ro cần phải được theo dõi thường xuyên. Mục đích của khâu này
giúp cho bộ máy quản lý rủi ro nắm được tình trạng rủi ro.
+ Quản lý, báo cáo, kiểm soát rủi ro: Đây là những khâu thể hiện rõ nhất
tính chiến lược, cũng như tư tưởng của ngân hàng về rủi ro tín dụng. Trước
hết ngân hàng cần xây dựng được hệ thống các công cụ quản lý nhằm hạn chế
rủi ro. Bên cạnh đó là chính sách chuẩn bị nguồn lực để bù đắp rủi ro.


Kiểm soát RRTD là việc giám sát một cách độc lập RRTD và quản lý rủi
ro đó. Q trình kiểm soát RRTD phải đảm bảo đánh giá một cách độc lập
nhằm tuân thủ các mục tiêu và yêu cầu của ban lãnh đạo ngân hàng.
1.4. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng tại một số ngân hàng phát
triển.
1.4.1. Ngân hàng phát triển Nhật Bản
NHPT Nhật Bản (Development Bank of Japan - DBJ) được thành lập
theo Luật NHPT Nhật Bản ngày 01/10/1999 với nhiệm vụ chính tài trợ cho
các dự án đủ điều kiện theo chính sách của Nhà nước (chủ yếu trong các lĩnh
vực: phát triển cộng đồng, bảo vệ môi trường, công nghệ mới) thông qua việc
cho vay và cung cấp dịch vụ hỗ trợ khác với thời hạn dài, lãi suất thấp và cố
định đối với các dự án đáp ứng được yêu cầu của chính sách Nhà nước; hỗ trợ
tư vấn lập dự án; thực hiện các nghiên cứu, khảo sát về tình hình KT - XH …

Ngồi ra DBJ cịn cung cấp các dịch vụ khác giống như các tổ chức tài chính
thơng thường.
Là một tổ chức tài chính thực thi chính sách của Chính phủ theo quy
định của Luật NHPT Nhật Bản và không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật
Ngân hàng hay Luật về cứu vãn sự tồn tại của hệ thống tài chính, nhưng DBJ
rất chú trọng đến cơng tác QLRR.
Để có sự phù hợp với từng loại rủi ro riêng biệt, DBJ đã phát triển hệ
thống quản lý tài sản Nợ - Có và QLRR, trong đó phân định rõ trách nhiệm
của mỗi vụ đối với từng loại rủi ro. Vụ kế hoạch tài chính - Tổng hợp theo dõi
tồn diện các hoạt động quản lý tài sản Nợ - Có và QLRR. Uỷ ban quản lý tài
sản Nợ - Có, bao gồm các quan chức điều hành và Thống đốc DBJ quy định
các chính sách cơ bản liên quan đến sự quản lý toàn diện đối với tài sản Nợ Có và rủi ro, đồng thời chỉ đạo việc theo dõi thường xuyên đối với mỗi loại
rủi ro.


×