MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 6
1.Tính cấp thiết của đề tài
2.Mục đích nghiên cứu của luận văn
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.Phương pháp nghiên cứu
5.Kết cấu của luận văn
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ
ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 8
1.1.HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1.Khái quát về Ngân hàng thương mại 8
1.1.2.Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 10
1.2.THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Những vấn đề chung về dự án và thẩm định tài chính dự án 12
1.2.2. Sự cần thiết thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại 15
1.2.3.Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại 17
1.3.CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1.Khái niệm chất lượng thẩm định tài chính dự án 26
1.3.2.Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay
của Ngân hàng thương mại 27
1.3.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho
vay của Ngân hàng thương mại 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TIÊN PHONG 34
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TIÊN PHONG
2.1.1. Quá trình phát triển và cơ cấu tổ chức hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần
Tiên Phong 34
2.1.2. Khái quát tình hình hoạt động của NHTMCP Tiên Phong (2008 – 2010) 38
2.2.1. Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của
NHTMCP Tiên Phong 45
2.2.2. Phân tích chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Tiên Phong 57
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TIÊN PHONG
2.3.1. Kết quả đạt được 66
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 69
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH
DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN TIÊN PHONG 75
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TIÊN PHONG
3.1.1. Định hướng phát triển chung của Ngân hàng 75
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay của Ngân hàng 77
3.1.3. Định hướng công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng 78
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TIÊN PHONG
3.2.1. Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định tài chính dự án
3.2.2. Chuẩn hóa quy trình, quy chế thẩm định
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên gia thẩm định
3.2.4. Hoàn thiện hệ thống thu thập và xử lý, lưu trữ thông tin
3.2.5. Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định dự án, tăng cường hợp tác giữa các phòng
ban
3.2.6. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát công tác thẩm định
3.3. KIẾN NGHỊ VỚI CHÍNH PHỦ VÀ CÁC CƠ QUAN CÓ LIÊN QUAN
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần
NHNN Ngân hàng Nhà nước
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
CP Cổ phần
CBTĐ Cán bộ thẩm định
CBTD Cán bộ tín dụng
DA Dự án
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 - Bảng dự kiến vốn điều lệ của Ngân hàng Tiên Phong 34
Bảng 2.2 - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng giai đoạn 2008 - 2010 39
Bảng 2.3 - Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng Tiên Phong 39
Bảng 2.5 - Dự toán chi tiết vốn đầu tư dự án (Đơn vị\
VNĐ) 101
Hình 2.1 - Sơ đồ bộ máy điều hành, quản lý tại Ngân hàng Tiên Phong 4, 35
Hình 2.2 - Sơ đồ bộ máy tác nghiệp, quản lý tại Ngân hàng Tiên Phong 4, 37
Hình 2.3 - Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản qua các thời kỳ 38
Hình 2.4 - Quy trình thẩm định dự án đầu tư – Ngân hàng Tiên Phong 4, 46
Bảng 2.7 Thời gian thẩm định trung bình một dự án giai đoạn 2008 – 2010 57
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 - Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản qua các thời kỳ 32
Biểu đồ 2.2 – Tổng vốn huy động Ngân hàng Tiên Phong 2008-201035
Biểu đồ 2.3 – Tổng dư nợ cho vay và dư nợ cho vay dự án giai đoạn 2008-2010 37
Biểu đồ 2.4- Hoạt động cho vay dự án tại Ngân hàng Tiên Phong 2008-2010 56
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1 - Sơ đồ bộ máy điều hành, quản lý tại Ngân hàng Tiên Phong 29
Hình 2.2 - Sơ đồ bộ máy tác nghiệp, quản lý tại Ngân hàng Tiên Phong 31
Hình 2.3 - Quy trình thẩm định dự án đầu tư – Ngân hàng Tiên Phong 40
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động cơ bản và truyền thống của
các ngân hàng thương mại. Sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng thương mại
luôn gắn liền với những nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay. Trong giai
đoạn cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các ngân hàng đều cố gắng duy trì và mở
rộng doanh số cho vay, tuy nhiên bên cạnh đó cần phải tăng cường công tác quản lý
và kiểm soát rủi ro tín dụng. Để đảm bảo kiểm soát được rủi ro, công tác thẩm định
khi cho vay có vai trò hết sức quan trọng.
Cho vay theo dự án là một trong những hình thức tài trợ trung, dài hạn quan
trọng của ngân hàng thương mại. Tài trợ dự án có thể mang lại cho ngân hàng
những lợi ích lớn và lâu dài, song cũng tiềm ẩn rủi ro cao. Để đảm bảo khả năng thu
hồi nợ và lãi vay, ngân hàng cần lựa chọn cho vay những dự án có tính khả thi và
hiệu quả. Công tác thẩm định đối với dự án đầu tư hết sức phức tạp, trong đó khâu
thẩm định tài chính rất quan trọng để đánh giá tình khả thi và hiệu quả của dự án.
Do đó việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư luôn được các
ngân hàng hết sức quan tâm.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Tiên Phong là một trong những ngân hàng cổ
phần còn non trẻ, đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển và chịu áp lực
cạnh tranh gay gắt. Nhằm hạn chế và kiểm soát rủi ro, để tiếp tục đứng vững và
phát triển trong bối cảnh hiện nay, Ngân hàng đặc biệt quan tâm tới chất lượng công
tác thẩm định tín dụng. Trong đó, công tác thẩm định tài chính dự án là một mảng
hết sức quan trọng gắn liền với định hướng phát triển của Ngân hàng, tuy nhiên hiện
nay đang còn tồn tại hạn chế. Do vậy đề tài “Nâng cao chất lượng thẩm định tài
chính dự án trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên
Phong” được lựa chọn nghiên cứu bởi tính cấp thiết và ý nghĩa quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay và chất lượng công
tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại, làm cơ sở đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp.
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng chất lượng thẩm định tài
chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Thương mại cổ phần
Tiên Phong.
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định
tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Thương mại cổ phần
Tiên Phong.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng thẩm định
tài chính dự án cả về mặt lý luận và thực trạng.
- Phạm vi nghiên cứu: Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt
động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần Tiên Phong trong thời
gian từ năm 2007 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mac – Lênin, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, logic và lịch
sử, thống kê, so sánh kết hợp với ý kiến chuyên gia để rút ra kết luận của vấn đề
đang xem xét.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt
động cho vay của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động
cho vay tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Tiên Phong
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong
hoạt động cho vay tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Tiên Phong
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM
ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây gắn liền với sự ra
đời và phát triển của hàng loạt NHTM. Hoạt động lành mạnh và hiệu quả của các
NHTM có vai trò hết sức quan trọng góp phần thúc đẩy sản xuất, tạo ra tăng trưởng
kinh tế. NHTM là loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong một lĩnh vực
đặc biệt là lĩnh vực tiền tệ, không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất nhưng tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội
thông qua chức năng luân chuyển vốn cũng như cung cấp các dịch vụ ngân hàng
cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và người tiêu dùng.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính ngày
24/05/1990 (Điều I, Khoản 1) định nghĩa: "Ngân hàng thương mại là một tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách dưới những hình thức khác nhau với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, để chiết khấu và để làm phương tiện thanh toán". Như vậy, hoạt
động cơ bản nhất của NHTM là tiến hành huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi của các tổ chức, cá nhân và chuyển đến các tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn
cho đầu tư sản xuất hay tiêu dùng. Bên cạnh đó, các NHTM ngày nay cũng cung
cấp nhiều loại hình dịch vụ tài chính khác nhau, bao gồm các hoạt động cung cấp
dịch vụ mang tính truyền thống (dịch vụ trao đổi tiền tệ, dịch vụ uỷ thác), và một số
dịch vụ mới xuất hiện (cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính, quản lý tiền mặt). Theo
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 (Điều 4, khoản 3) “Ngân hàng thương mại là
loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Có
thể xem xét một số hoạt động cơ bản của một NHTM như sau:
Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động tạo vốn cho NHTM. Vốn là yếu tố cơ bản đầu tiên
để các ngân hàng có thể thực hiện kinh doanh do đó hoạt động huy động vốn có vai
trò to lớn quyết định đến khả năng hoạt động và phát triển của ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn của một NHTM bao gồm: Nhận tiền gửi, phát hành
các giấy tờ có giá ra công chúng, vay từ các tổ chức khác, tự tài trợ bằng vốn chủ
sở hữu của ngân hàng.
Tuy nhiên, dưới bất kỳ hình thức huy động nào thì Ngân hàng thương mại đều
phải trả một chí phí nhất định, đó là chí phí huy động vốn hay còn gọi là chi phí đầu
vào của ngân hàng.
Hoạt động cho vay và đầu tư
Cho vay và đầu tư là hoạt động kinh doanh mang lại thu nhập chủ yếu cho
Ngân hàng. Trong đó, hoạt động cho vay chiếm vị trí quan trọng nhất, quyết định
trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động cho vay trong NHTM được xem xét chi tiết tại nội dung tiếp theo của
luận văn.
Tạo phương tiện thanh toán
Bên cạnh hoạt động huy động vốn và cho vay, đầu tư, một nghiệp vụ cơ bản
của Ngân hàng thương mại là cung cấp các phương tiện thanh toán. Thanh toán qua
ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiện mặt, các tiện ích của thanh
toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã
góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng.
Nghiệp vụ này không chỉ mang lại thu nhập cho Ngân hàng mà còn góp phần thúc
đẩy hỗ trợ các nghiệp vụ cơ bản nói trên.
Ba hoạt động nói trên có quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau, gắn
liền với sự tồn tại và phát triển của NHTM, coi nhẹ hoạt động nào thì đều làm cho
ngân hàng không phát huy được hết sức mạnh tổng hợp. Bên cạnh đó, để đáp ứng
nhu cầu khách hàng và đạt được mục tiêu lợi nhuận ngày nay các NHTM cung cấp
một danh mục đa dạng các dịch vụ tài chính như mua bán ngoại tệ, quản lý ngân
quỹ, cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng
khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý.
Tóm lại, có thể khái quát về NHTM như sau: NHTM là một tổ chức kinh tế
được thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ với nội dung thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng tiền gửi đó để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.
1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm và đặc điểm hoạt động cho vay
Cho vay là chức năng kinh tế cơ bản hàng đầu của các Ngân hàng. Đây cũng
là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Trong quá trình
phát triển không ngừng của nền kinh tế, mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều
thay đổi, nhiều phương pháp, công cụ kinh doanh mới xuất hiện nhưng hoạt động
cho vay vẫn luôn là hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động
của NHTM. Khoản mục cho vay thường chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và thu lãi
từ các khoản cho vay chiếm phần lớn thu nhập của Ngân hàng.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích cụ thể trong một khoảng thời gian
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. NHTM là tổ
chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần
đối với Chính Phủ.
Hoạt động cho vay của NHTM có một số đặc điểm chính như sau:
- Tính pháp lý của nghiệp vụ cho vay: Hoạt động cho vay được thực hiện căn
cứ trên một cam kết có đầy đủ tính pháp lý (hợp đồng tín dụng), đảm bảo quyền lợi
và nghĩa vụ của cả khách hàng vay vốn và ngân hàng cho vay.
- Các khoản vay đều phải theo một quy trình cho vay, thu nợ nhất định, thông
thường gồm 5 bước: Lập hồ sơ đề nghị vay, phân tích tín dụng, quyết định cho vay,
giải ngân, giám sát thu nợ và thanh lý hợp đồng.
- Lãi suất và thời hạn cho vay theo thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng
cho vay.
- Các khoản cho vay có hoặc không có tài sản bảo đảm tùy vào việc đánh giá
và xếp hạng khách hàng của ngân hàng cho vay
- Khi kết thúc hợp đồng khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ gốc và lãi của
khoản vay hoặc một số thỏa thuận khác nếu được ngân hàng cho vay chấp nhận.
Trường hợp khách hàng không thực hiện hợp đồng hay không có điều khoản nào
khác thì tài sản đảm bảo thuộc quyền quyết định của ngân hàng cho vay.
1.1.2.2 Các hình thức cho vay
Nền kinh tế càng phát triển kéo theo nhu cầu về tín dụng của khách hàng
càng đa dạng và phong phú. Để đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn, các
NHTM đã cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau. Tuỳ theo từng căn cứ, các
khoản cho vay có thể được phân loại như sau:
- Căn cứ vào mục đích vay vốn có thể kể đến các khoản tín dụng như sau: Cho
vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ cho dự án, trong đó:
Cho vay thương mại: Ngân hàng cho vay người bán (người bán chuyển các
khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước) hay ngân hàng cho vay trực tiếp
người mua để giúp họ có vốn mua hàng dự trữ nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho vay đối với các cá nhân, hộ gia đình nhằm
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, phổ biến là các hình thức cho vay mua sắm nhà cửa,
phương tiện vận chuyển.
Tài trợ cho dự án: Ngân hàng cho vay tài trợ các dự án đầu tư như xây dựng
nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, đầu tư dây chuyền công nghệ mới.
- Căn cứ vào thời gian vay vốn: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn,
trong đó:
Cho vay ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ một năm trở xuống,
được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp,
hoặc phục vụ cho tiêu dùng cá nhân.
Cho vay trung và dài hạn: Là khoản cho vay có thời hạn trên một năm. Loại
hình cho vay này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến
và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công
trình thuộc cơ sở hạ tầng Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và
công nghệ, để tồn tại và phát triển, nhu cầu vốn trung và dài hạn của các doanh
nghiệp ngày càng cao. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài
trợ cho các doanh nghiệp mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua
công nghệ mới.
- Căn cứ vào lãi suất, có các loại hình: Cho vay với lãi suất thả nổi, cho vay
với lãi suất cố định và cho vay với lãi suất ưu đãi.
- Căn cứ vào hình thức bảo đảm: Cho vay có bảo đảm và cho vay không có
bảo đảm.
1.2. THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Những vấn đề chung về dự án và thẩm định tài chính dự án
1.2.1.1 Khái niệm và đặc điểm của dự án
Khái niệm về dự án gắn liền với hoạt động đầu tư của nền kinh tế. Đối với bất
kỳ một tổ chức kinh tế nào, đầu tư là hoạt động quan trọng, quyết định sự phát triển
và khả năng tăng trưởng của đơn vị. Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nhằm thu về lợi ích trong tương lai lớn hơn các nguồn lực
đã bỏ ra. Trong hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bỏ vốn dài hạn nhằm hình thành và
bổ sung những tài sản cần thiết để thực hiện những mục tiêu kinh doanh. Ngày nay
để tối đa hóa hiệu quả đầu tư, các hoạt động đầu tư đều được thực hiện theo dự án.
Vậy dự án được hiểu như thế nào?
Theo từ điển về dự án AFNOR, dự án là hoạt động đặc thù tạo nên một thực
tế mới một cách có phương pháp với các nguồn lực đã định. Trong quy chế đầu tư
và xây dựng theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP định nghĩa: Dự án là một tập hợp
những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những
cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải
tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác
định. Có thể khái quát lại, dự án là hình thức thực hiện của hoạt động đầu tư, bao
gồm một tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau,
được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện ràng buộc về phạm vi,
thời gian và ngân sách.
Một dự án có các đặc điểm chính như sau:
- Dự án có mục đích, kết quả rõ ràng: Mỗi dự án bao gồm tập hợp các nhiệm
vụ cần thực hiện, mỗi nhiệm vụ cụ thể này khi thực hiện sẽ thu được kết quả độc
lập và tập hợp các kết quả đó tạo thành kết quả chung của dự án. Các kết quả này
có thể theo dõi, đánh giá bằng hệ thống các tiêu chí rõ ràng. Nói cách khác, dự án
bao gồm nhiều hợp phần khác nhau được quản lý, thực hiện trên cơ sở đảm bảo
thống nhất các chỉ tiêu về thời gian, nguồn lực và chất lượng.
- Thời gian tồn tại của dự án có tính hữu hạn: Mỗi dự án đều trải qua các giai
đoạn hình thành, phát triển và kết thúc. Nó không kéo dài mãi mãi, khi dự án
hoàn thành, kết quả được chuyển giao, đưa vào khai thác sử dụng, tổ chức dự án
giải tán.
- Dự án chịu ràng buộc về nguồn lực: Thông thường các dự án bị ràng buộc về
vốn, vật tư, lao động. Đối với dự án quy mô càng lớn, mức độ ràng buộc về nguồn
lực càng cao và càng phức tạp, mọi quyết định liên quan đến các vấn đề nảy sinh
trong quá trình thực hiện dự án đều bị chi phối bởi nhiều mối quan hệ.
- Dự án tồn tại trong một môi trường không chắc chắn: Môi trường triển khai
dự án thường xuyên thay đổi, chứa đựng nhiều yếu tố bất định nên có thể nói việc
thực hiện dự án thường có nhiều rủi ro. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến mức
độ thành công của dự án và là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý dự án.
Dự án được hình thành và phát triển với nhiều giai đoạn riêng biệt nhưng gắn
kết chặt chẽ với nhau. Về cơ bản, vòng đời của một dự án có thể chia thành các giai
đoạn như sau:
CÁC GIAI ĐOẠN CỦA MỘT DỰ ÁN
- Xác định dự án là giai đoạn hình thành ý tưởng đầu tư trên cơ sở nghiên cứu,
thu thập thông tin về chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia, của từng ngành, khu
vực, cũng như những nghiên cứu về thị trường trong và ngoài nước.
- Phân tích và lập dự án: Đây là giai đoạn quan trọng có vai trò quyết định sự
thành công hay thất bại khi thực hiện dự án. Trong giai đoạn này một số công việc
chính được thực hiện như sau: Nghiên cứu về nhu cầu và khả năng tiến hành dự án
cũng như kết quả của dự án, lựa chọn hình thức đầu tư, chương trình sản xuất và các
yếu tố cần thiết, phân tích các phương án cụ thể về mặt kỹ thuật, công nghệ, nguồn
vốn, các hình thức quản lý, lập kế hoạch tổng thể, phân tích, lập bảng chi tiết công
việc, lập kế hoạch ngân sách, nguồn lực cần thiết.
- Thẩm định và duyệt dự án: Sau khi phân tích và lập dự án, khâu quan trọng
tiếp theo là thẩm định dự án, rà soát, kiểm tra lại mọi nội dung của dự án nhằm hạn
Xác định dự
án
Phân tích và
lập dự án
Thẩm định
và duyệt
dự án
Thực hiện
dự án
Nghiệm thu,
tổng kết,
giải thể
chế đáng kể những rủi ro trong quá trình thực hiện. Thẩm định tài chính là một khâu
quan trọng trong thẩm định dự án. Sau khi thẩm định, dự án phải được phê duyệt
bởi một hội đồng gồm các thành viên liên quan.
- Thực hiện dự án: Là giai đoạn quản lý tổ chức triển khai các nguồn lực bao
gồm các công việc cần thiết như xây dựng phòng ốc, hệ thống, lựa chọn công cụ,
mua sắm trang thiết bị, lắp đặt, phát triển hệ thống. Kết thúc giai đoạn này, các hệ
thống được xây dựng và kiểm định, hệ thống có thể chuyển sang giai đoạn vận
hành, đưa vào khai thác thử nghiệm.
- Nghiệm thu, tổng kết và giải thể dự án: Trong giai đoạn này, thực hiện các
công việc như hoàn thành sản phẩm, bàn giao hệ thống, công trình và những tài liệu
liên quan, đánh giá dự án, giải phóng các nguồn lực.
1.2.1.2 Thẩm định tài chính dự án
Một dự án dù được chuẩn bị, phân tích kỹ lưỡng đến đâu vẫn thể hiện tính chủ
quan của nhà phân tích và lập dự án, khó tránh khỏi những khiếm khuyết và lệch lạc
trong quá trình lập dự án. Để khẳng định được một cách chắn chắn hơn mức độ hợp
lý và hiệu quả, tính khả thi của dự án, cần phải xem xét, kiểm tra lại dự án một cách
độc lập, đây chính là hoạt động thẩm định dự án. Thẩm định dự án là việc tổ chức
xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh
hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới việc đầu tư cũng như tính khả thi của một dự án để
cho phép đầu tư và (hoặc) quyết định tài trợ vốn.
Mục đích của thẩm định dự án là nhằm phát hiện, ngăn chặn những dự án xấu,
không bỏ sót các dự án tốt trong quy luật ngày càng khan hiếm các nguồn lực, giúp
cho các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư đưa ra những quyết định đúng đắn, đạt
được lợi ích kinh tế, xã hội thông qua đầu tư dự án.
Đối với chủ đầu tư: Việc thẩm định được thực hiện độc lập với quá trình soạn
thảo dự án cho phép chủ đầu tư nhìn nhận lại dự án một cách khách quan hơn, từ đó
thấy được những thiếu sót trong quá trình soạn thảo để bổ sung kịp thời và ra quyết
định đầu tư chính xác.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước: Mục đích thẩm định là nhằm đánh giá
được tính phù hợp của dự án đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, địa
phương và của cả nước, xác định các tác động tích cực cũng như tiêu cực của dự án
khi đi vào hoạt động trên các khía cạnh như ứng dụng công nghệ mới, trình độ sử
dụng vốn, ô nhiễm môi trường.
Đối với người cho vay (các tổ chức tín dụng): Các tổ chức tài trợ thẩm định
các dự án đầu tư nhằm rút ra các kết luận chính xác về tính khả thi, khả năng trả nợ,
những rủi ro có thể xảy ra của dự án để ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay,
làm cơ sở xác định số tiền, thời gian cho vay và có thể tham gia tư vấn cho chủ đầu
tư.
Thẩm định dự án đầu tư bao gồm các nội dung cơ bản: Thẩm định kỹ thuật,
thẩm định kinh tế xã hội và thẩm định tài chính. Trong đó, có thể nói thẩm định tài
chính dự án là nội dung quan trọng và phức tạp trong quá trình thẩm định dự án.
Nội dung này đòi hỏi sự tổng hợp của các biến số tài chính, kỹ thuật, thị trường…đã
được lượng hoá trong các nội dung thẩm định trước nhằm phân tích, tạo ra những
bảng dự trù tài chính, những chỉ tiêu tài chính phù hợp có ý nghĩa. Những chỉ tiêu
này là những thước đo quan trọng hàng đầu quyết định dự án có được chấp thuận
hay không. Có thể khái quát Thẩm định tài chính dự án là thẩm định các yếu tố
ảnh hưởng tới hiệu quả tài chính của dự án. Đứng dưới khía cạnh của NHTM khi
tiến hành cho vay dự án, thẩm định tài chính là thẩm định tính khả thi về mặt tài
chính của dự án, nhu cầu vay vốn cũng như khả năng trả nợ và lãi vay của dự án.
1.2.2. Sự cần thiết thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thu lợi chủ yếu nhờ hoạt động cho vay. Đây là hoạt động sinh lời
lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Rủi ro này có thể gây ra tổn thất, thậm chí
đưa Ngân hàng tới bờ vực của sự phá sản. Do đó, điều các NHTM quan tâm hàng
đầu là khả năng khách hàng hoàn trả khoản vay cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn. Chính
vì vậy, trước khi đưa ra quyết định cho vay, các NHTM đều phải tiến hành thẩm
định tín dụng. Đây là quá trình thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách
hàng và phương án vay vốn để đánh giá khả năng thu nợ của khoản vay. Thẩm định
dự án là một nội dung phức tạp trong thẩm định tín dụng có liên quan tới hoạt động
cho vay đối với các dự án đầu tư của NHTM.
Một dự án đầu tư như đã đề cập thường đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, trong
một thời gian dài, phần lớn vượt quá khả năng tài chính, khả năng tự tài trợ của các
doanh nghiệp. Do vậy họ phải huy động nguồn tài trợ từ các NHTM. Về phía
NHTM, cho vay theo dự án đầu tư là một nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, có
khả năng sinh lời cao nhưng cũng chứa đựng rủi ro lớn. Để giảm bớt được rủi ro,
trước khi cấp tín dụng cho dự án, Ngân hàng phải tiến hành kiểm tra tính khả thi,
xem xét các đặc điểm của dự án, các yếu tố thuộc về môi trường có thể ảnh hưởng
tới dự án, công việc đó chính là công tác thẩm định dự án đầu tư. Thông qua thẩm
định dự án, Ngân hàng có được cái nhìn vừa tổng quát vừa cụ thể, chi tiết về chủ
đầu tư và về dự án. Về chủ đầu tư Ngân hàng đánh giá được năng lực pháp lý, năng
lực tài chính, trình độ, tình hình sản xuất kinh doanh hiện tại của chủ dự án. Về dự
án, thông qua thẩm định một cách đầy đủ về mọi phương diện có liên quan như thị
trường, kỹ thuật, tài chính, xã hội… Ngân hàng sẽ đánh giá được hết những ưu
nhược điểm của dự án, đo lường và dự báo những tình huống sẽ xảy ra khi triển
khai dự án và khi dự án đi vào vận hành khai thác. Trong đó, thẩm định tài chính là
nội dung hết sức quan trọng giúp cho Ngân hàng đánh giá hiệu quả tài chính của dự
án, nhất là thời gian và các nguồn dùng để trả nợ cho Ngân hàng, làm cơ sở xác
định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức nợ hợp lý.
Về mặt nghiệp vụ, Ngân hàng thương mại với phương châm hoạt động hiệu
quả và an toàn, công tác thẩm định tài chính dự án của Ngân hàng giúp cho:
- Ngân hàng có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư
vốn cũng như khả năng hoàn vốn của dự án, quan trọng hơn cả là xác định khả năng
trả nợ của chủ đầu tư.
- Ngân hàng dự đoán được những rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới quá trình
triển khai thực hiện dự án. Trên cơ sở này, phát hiện và bổ sung thêm các biện pháp
khắc phục hoặc hạn chế rủi ro, đảm bảo tính khả thi của dự án đồng thời tham gia ý
kiến với các cơ quan quản lý Nhà nước và chủ đầu tư để có quyết định đầu tư đúng
đắn.
- Ngân hàng có phương án hạn chế rủi ro tín dụng đến mức thấp nhất khi xác
định giá trị khoản vay, thời hạn, lãi suất, mức thu nợ và hình thức thu nợ hợp lý, tạo
điều kiện cho dự án hoạt động có hiệu quả.
- Ngân hàng tạo ra các căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích,
đúng đối tượng và tiết kiệm vốn đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư dự án.
- Ngân hàng rút ra kinh nghiệm trong cho vay để thực hiện và phát triển có
chất lượng hơn.
Xuất phát từ tính cần thiết, tính thực tế, tính hiệu quả của công tác thẩm định
tài chính dự án, hoạt động này đã và đang tiếp tục trở thành một bộ phận quan trọng
mang tính quyết định trong hoạt động cho vay của mỗi ngân hàng.
Để làm tốt công tác thẩm định tài chính dự án, trước hết cần nắm vững nội
dung thẩm định tài chính dự án.
1.2.3. Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt chẽ với
nhau. Một số nội dung chủ yếu trong công tác thẩm định tài chính đối với các dự án
được NHTM xem xét cho vay như sau:
1.2.3.1. Thẩm định tổng mức vốn đầu tư và nguồn tài trợ cho dự án
Đây là nội dung quan trọng đầu tiên cần xem xét khi tiến hành phân tích tài
chính dự án. Việc dự toán chính xác tổng mức vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng
đối với tính khả thi và hiệu quả của dự án. Nếu mức vốn đầu tư dự tính quá thấp dự
án sẽ không thực hiện được, ngược lại nếu dự tính quá cao sẽ không phản ánh chính
xác hiệu quả tài chính của dự án.
Dưới giác độ của một dự án, vốn đầu tư là tổng số tiền được chi tiêu để hình
thành nên các tài sản cố định và tài sản lưu động cần thiết.
Vốn đầu tư vào tài sản cố định bao gồm: đầu tư vào trang thiết bị, dây
chuyền sản xuất… tuy nhiên, cũng cần phải chú ý đến chi phí "chìm" - tức là chi phí
mà doanh nghiệp bỏ ra không liên quan đến việc dự án có khả thi hay không. Điển
hình là các chi phí khảo sát địa điểm xây dựng dự án, chi phí tư vấn thiết kế dự án.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động ròng: Đây là vốn đầu tư nhằm hình thành
các tài sản lưu động cần thiết để thực hiện dự án như nguyên vật liệu, điện nước,
nhiên liệu, phụ tùng, tiền lương, hàng dự trữ.
Dự toán vốn đầu tư là việc phân tích và xác định nhu cầu vốn đầu tư dành cho
một dự án đang được xem xét. Dự toán vốn đầu tư đòi hỏi phải phân tích và cân
nhắc kỹ lưỡng căn cứ vào nhiều yếu tố như chính sách phát triển kinh tế của Nhà
nước, thị trường và sự cạnh tranh trong ngành, chi phí tài chính, sự tiến bộ khoa học
kỹ thuật, khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Hai phương pháp cơ bản thường được áp dụng để dự toán vốn đầu tư:
Phương pháp dự báo theo tỷ phần doanh thu: Phương pháp này thường áp
dụng đối với các dự án nhỏ gắn kết trực tiếp với hoạt động thường ngày của doanh
nghiệp. Việc xác định nhu cầu vốn đầu tư dựa trên cơ sở phân tích những chuyển
biến trực tiếp của doanh nghiệp khi có dự án. Phương pháp này đòi hỏi ước lượng
mức độ chi phí, tài sản và nợ cho kỳ tương lai theo tỷ phần dự báo của doanh thu.
Dự báo doanh thu cho năm tới căn cứ trên xu hướng quá khứ của doanh thu được
kỳ vọng vẫn có giá trị cho năm tới và ảnh hưởng của các sự kiện có thể tác động
vào xu thế đó. Bên cạnh đó, lấy doanh thu làm nhân tố cơ bản và dự báo tác động
của nó lên chi phí, tài sản và nợ, các biến tài chính khác. Phương pháp này được áp
dụng phổ biến do dễ sử dụng và ít tốn kém.
Phương pháp dự toán tổng thể: Phương pháp này thường áp dụng đối với các
dự án lớn có thể được xem như một doanh nghiệp có tính “độc lập cao”. Quy trình
dự toán vốn đầu tư được thực hiện rất chi tiết và cẩn trọng. Để xác định được toàn
bộ số vốn cần thiết cho dự án cần dựa vào các căn cứ chi tiết và cụ thể: Các báo cáo
nghiên cứu thị trường, hồ sơ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công, khối
lượng công tác xây lắp theo thiết kế, đơn giá xây dựng cơ bản, danh mục và số
lượng thiết bị, công nghệ, định mức các chi phí, phí, lệ phí…
Trên cơ sở dự toán tổng vốn đầu tư, ngân hàng tiến hành xem xét các nguồn
tài trợ cho dự án, trong đó tìm hiểu về khả năng đảm bảo vốn từ mỗi nguồn về quy
mô và tiến độ. Các nguồn tài trợ cho dự án có thể do chính phủ tài trợ, ngân hàng
cho vay, vốn tự có của chủ đầu tư, vốn huy động từ các nguồn khác. Qua nghiên
cứu bước này ngân hàng có được quyết định phù hợp nếu cho vay thì phải giải ngân
như thế nào, tiến độ thu hồi nợ ra sao để hạn chế rủi ro mà vẫn đảm bảo dự án được
tiến hành một cách thuận lợi. Bên cạnh đó, cơ cấu nguồn tài trợ cho dự án ảnh
hưởng tới dòng tiền của dự án và việc lựa chọn lãi suất chiết khấu.
1.2.3.2. Thẩm định dòng tiền của dự án
Sau khi thẩm định tổng nhu cầu vốn, cơ cấu nguồn vốn và tiến độ huy động
vốn, bước tiếp theo ngân hàng xem xét dòng tiền của dự án. Việc xác định chính
xác dòng tiền là điều tối quan trọng trong đánh giá dự án. Các nhà đầu tư quan tâm
tới lợi ích được tạo ra trong tương lai từ quyết định đầu tư hiện tại. Lợi ích được tạo
ra dưới dạng các khoản tiền ròng trong tương lai từ dự án, được tính bằng số tiền
thu được trừ đi số tiền bỏ ra ở các mốc thời gian khác nhau trong tương lai. Chính
vì trải qua các mốc thời gian khác nhau mà người ta đưa ra khái niệm dòng tiền.
Như vậy, dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản chi và thu được kỳ vọng
xuất hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Dòng tiền
ròng được xác định bằng cách lấy toàn bộ khoản thu trừ đi khoản chi, đây chính là
cơ sở xác định giá trị hiện tại ròng (NPV) của dự án.
Thẩm định dòng tiền của một dự án gồm các nội dung sau:
Thẩm định dòng tiền ra của dự án: Dòng tiền ra của dự án trước hết phải kể
đến các khoản chi mua sắm máy móc, nhà xưởng, trang thiết bị, ngoài ra cũng phải
tính đến các chi phí đi kèm như chi phí lắp đặt, vận chuyển, bảo hiểm, chi phí cho
việc đào tạo công nhân vận hành, chi phí chạy thử, các khoản đầu tư vào tài sản lưu
động ròng. Bên cạnh đó, dòng tiền ra của dự án cũng được phản ánh ở các chi phí
sản xuất, dịch vụ dựa trên kế hoạch sản xuất hàng năm trong suốt vòng đời của dự
án. Cán bộ thẩm định phải xem xét tính đầy đủ, hợp lý của các loại chi phí này. Một
vấn đề cần lưu ý trong việc phân tích dòng tiền ra cần phải tính đến yếu tố chi phí
cơ hội, chi phí cơ hội được định nghĩa là cơ hội thu nhập bị bỏ qua do chấp nhận
dự án này mà không chấp nhận dự án khác. Trong khi đó, các chi phí chìm sẽ
không được tính đến trong phân tích dòng tiền, bởi đây là chi phí mà chủ dự án phải
bỏ ra cho dù dự án đó có được chấp nhận hay không.
Thẩm định dòng tiền vào của dự án: Các khoản thu của dự án thường được
tính theo năm và dựa vào kế hoạch sản xuất, tiêu thụ hàng năm của dự án để xác
định. Trong bước này, cán bộ thẩm định cần đánh giá công suất huy động dự tính
của chủ dự án có chính xác hay không, khả năng tiêu thụ sản phẩm, giá cả của sản
phẩm bán ra;… dựa vào định hướng phát triển của nghành nghề và dự báo ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường. Trong dòng thu của dự án cũng cần phải tính tới
giá trị thanh lý thuần của thiết bị, máy móc khi dự án kết thúc. Giá trị thanh lý thuần
của một tài sản là giá trị dự tính tài sản có thể bán được tại thời điểm dự án kết thúc
sau khi trừ đi chi phí thanh lý. Đối với dòng thu còn cần phải chú ý dòng tiền được
sử dụng để tính toán trong thẩm định dự án đầu tư là dòng tiền sau thuế.
Xác định dòng tiền ròng hàng năm của dự án đầu tư: Dòng tiền ròng của dự án
là chênh lệch giữa số tiền thu được và số tiền chi ra. Dòng tiền ròng của dự án được
tính cho từng năm trong suốt vòng đời của dự án, việc tính toán thường được thực
hiện theo phương pháp gián tiếp như sau:
NCF
i
= LNST
i
+ KH
i
Trong đó, NCF
i
được hiểu là dòng tiền ròng năm thứ i, LNST
i
là lợi nhuận sau
thuế năm thứ i và KH
i
là khấu hao năm thứ i.
Khấu hao được tính vào chi phí để xác định lợi nhuận trong kì, nhưng nó là
chi phí không xuất quỹ, do đó theo phương pháp tính này khấu hao được coi như là
một nguồn thu nhập của dự án. Khấu hao là một yếu tố của chi phí sản xuất, bởi vậy
mức khấu hao có ảnh hưởng đến lợi nhuận, đến mức thuế thu nhập phải nộp hàng
năm của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới quy mô dòng tiền mỗi năm. Vì vậy,
việc xác định chính xác mức khấu hao có ý nghĩa quan trọng trong phân tích tài
chính dự án. Mức khấu hao được xác định hàng năm phụ thuộc vào phương pháp
tính khấu hao. Một số phương pháp khấu hao thường được các doanh nghiệp sử
dụng: Phương pháp khấu hao đường thẳng, phương pháp khấu hao theo tổng số
năm, phương pháp khấu hao nhanh điều chỉnh. Trong quá trình thẩm định, cần xem
xét đặc điểm riêng của dự án và các vấn đề tài chính liên quan để lựa chọn phương
pháp khấu hao phù hợp cho các tài sản cố định.
1.2.3.3. Dự tính lãi suất chiết khấu của dự án
Do tiền có giá trị về thời gian nên không thể so sánh các dòng tiền xuất hiện
tại các mốc thời gian khác nhau mà phải quy chúng về một thời điểm để so
sánh.Việc quy các dòng tiền về hiện tại được thực hiện thông qua lãi suất chiết
khấu. Bên cạnh việc thẩm định dòng tiền, xác định chính xác lãi suất chiết khấu là
bước quan trọng để tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án. Lãi
suất chiết khấu phản ánh tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà đầu tư yêu cầu đối với một
dự án. Việc tính toán lãi suất chiết khấu phải dựa trên phân tích rủi ro và khả năng
sinh lời của dự án, trong đó cơ cấu vốn đầu tư dự án là nhân tố ảnh hưởng quan
trọng. Về bản chất, lãi suất chiết khấu của một dự án chính là chi phí vốn của dự án
đó.
Khi vốn đầu tư dự án là vốn chủ sở hữu: Cố đông muốn doanh nghiệp đầu tư
vào dự án chỉ khi lợi tức kỳ vọng của dự án ít nhất bằng lợi tức kỳ vọng của tài sản
tài chính có cùng mức độ rủi ro. Vận dụng mô hình CAPM, lợi tức kỳ vọng của cổ
phiếu được xác định:
( )
fMf
s
RRRR
−+=
β
Trong đó:
f
R
là lợi tức phi rủi ro,
fM
RR
−
là chênh lệch giữa lợi tức kỳ vọng
của danh mục thị trường và lợi tức phi rủi ro,
β
là hệ số rủi ro của cổ phiếu.
Bên cạnh mô hình CAPM, mô hình định giá cổ tức có thể được sử dụng để
xác định chi phí vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Bằng cách sử dụng mô hình này,
giá trị hiện tại P của các khoản thanh toán cổ tức kỳ vọng của doanh nghiệp được
mô tả như sau:
P =
)1(
)1()1(
)1(
3
3
2
21
+
+
++
+
+
+
+
+
N
s
N
ss
s
r
Div
r
Div
r
Div
r
Div
Trong đó
s
r
là lợi tức yêu cầu của các cổ đông và chính là chi phí vốn chủ sở
hữu của doanh nghiệp. Nếu cổ tức tăng trưởng với một tỷ lệ không đổi,g, ta có:
P =
gr
Div
s
−
1
Từ đó, ta có:
s
r
=
g
P
Div
+
1
Trong đó
P
Div
1
được gọi là tỷ lệ lợi tức cổ phần trong năm tới. Việc ước
lượng chi phí vốn chủ sở hữu được xác định thông qua ước lượng
P
Div
1
và g. Trong
trường hợp phát hành cố phiếu mới có tính tới chi phí phát hành, gọi F là chi phí
phát hành trên một đồng vốn huy động, ta có:
s
r
=
g
FP
Div
+
−
)1(
1
Trong trường hợp này, Chi phí vốn chủ sở hữu
s
R
được sử dụng làm lãi suất
chiết khấu.
Khi vốn đầu tư là nợ: Đối với những dự án mới, nếu vốn tài trợ cho dự án
hoàn toàn là nợ thì lãi suất chiết khấu được sử dụng để chiết khấu các dòng tiền của
dự án có thể được xác định là chi phí nợ sau thuế = (1- T)Kd. Trong đó Kd là chi
phí nợ trước thuế (lãi suất cho vay), T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Khi vốn đầu tư gồm nợ và chủ sở hữu: Đây là trường hợp phổ biến nhất trong
đầu tư dự án. Nếu doanh nghiệp sử dụng cả nợ và vốn chủ sở hữu thì chi phí vốn
của dự án là chi phí bình quân gia quyền:
WACC =
)1( Tr
BS
B
r
BS
S
Bs
−
+
+
+
BS
S
+
tỷ trọng giá trị của vốn chủ sở hữu,
BS
B
+
tỷ trọng giá trị của nợ,
s
r
là
chi phí vốn chủ sở hữu,
)1( Tr
B
−
là chi phí nợ sau thuế.
Trong trường hợp này, lãi suất chiết khấu của dự án là chi phí bình quân vốn
đầu tư vào dự án.
1.2.3.4. Các chỉ tiêu tài chính của dự án
Xác định dòng tiền của dự án và lãi suất chiết khấu là căn cứ để tính toán một
số chỉ tiêu tài chính quan trọng giúp cho ngân hàng đánh giá hiệu quả tài chính của
dự án, từ đó đưa ra quyết định tài trợ cho dự án hay không.
• Chỉ tiêu Giá trị hiện tại ròng (NPV)
Giá trị hiện tại ròng của một dự án là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các
luồng tiền dự tính dự án mang lại trong tương lai với giá trị đầu tư ban đầu. Do vậy,
chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm (khi NPV dương) hoặc giảm đi (khi NPV
âm).
Công thức tính toán giá trị hiện tại ròng (NPV) như sau:
NPV = - C
0
+
n
n
r
C
r
C
r
C
r
C
)1(
)1()1(
)1(
3
3
2
21
+
++
+
+
+
+
+
Trong đó: NPV là giá trị hiện tại ròng
C
0
là vốn đầu tư ban đầu vào dự án.
C
1
, C
2
, C
3
,…, C
n
là các luồng tiền dự tính dự án mang lại các năm 1, 2, 3,…, t
r: lãi suất chiết khấu phù hợp của dự án.
NPV là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất trong thẩm định tài chính dự án,
vì chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. NPV mang giá trị dương
nghĩa là việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư, tức là dự án
có hiệu quả và ngược lại.
Ưu điểm của NPV là tính trên dòng tiền và xét đến giá trị thời gian của tiền,
xét đến qui mô dự án và thoả mãn yêu cầu tối đa hoá lợi nhuận, phù hợp với mục
tiêu hoạt động của ngân hàng.
Nhược điểm của NPV là chỉ tiêu này chỉ cho biết quy mô mà không cho biết
thời gian nhanh hay chậm. Bên cạnh đó, lãi suất đo lường chi phí cơ hội của vốn
thay đổi theo lãi suất thị trường, cho nên việc giữ nguyên một tỷ lệ chiết khấu cho
cả thời kỳ hoạt động của dự án là không hợp lý.
Vì vậy, sự kết hợp với các chỉ tiêu khác vẫn là điều cần thiết khi tiến hành
thẩm định dự án trong các điều kiện thực tế, cụ thể.
• Chỉ tiêu Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR)
Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại ròng của dự
án bằng 0, tức giá trị hiện tại của dòng thu nhập tính theo tỷ lệ chiết khấu đó cân
bằng với hiện giá của vốn đầu tư.
Từ công thức: NPV = 0= C
0
+
n
IRR
Cn
IRR
C
IRR
C
)1(
)1(
1
2
21
+
++
+
+
+
Áp dụng phương pháp nội suy ta có được kết quả của IRR.
Theo chỉ tiêu này, dự án là hiệu quả về mặt tài chính khi có IRR lớn hơn lãi
suất chiết khấu.
Tuy nhiên chỉ tiêu IRR chỉ phản ánh tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án là bao
nhiêu chứ không cung cấp quy mô của số lãi (hay lỗ) của dự án tính bằng tiền. Khi
dự án được lập trong nhiều năm, việc tính toán chỉ tiêu là rất phức tạp. Đặc biệt loại
dự án có các luồng tiền dòng vào ra xen kẽ năm này qua năm khác, kết quả tính
toán có thể cho nhiều IRR khác nhau gây khó khăn cho việc ra quyết định. Do đó,
IRR là chỉ tiêu kết hợp, bổ trợ cho chỉ tiêu NPV
Lưu ý: Trong trường hợp có sự xung đột giữa 2 phương pháp NPVvà IRR thì
việc lựa chọn dự án theo NPV cần được coi trọng hơn để đạt mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận của dự án .
• Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn (PP)
Thời gian hoàn vốn của dự án là độ dài thời gian để thu hồi toàn bộ khoản đầu
tư ban đầu. Các nhà tài trợ thường quan tâm tới chỉ tiêu này do thời gian thu hồi vốn
của dự án càng ngắn càng hạn chế bớt rủi ro trước những biến động của nền kinh tế.
Công thức tính:
PP = n +
Số vốn đầu tư còn lại cần được thu hồi
Dòng tiền ngay sau mốc hoàn vốn
Trong đó n là năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư.
PP là một chỉ tiêu thường được sử dụng kết hợp với NPV, IRR để đánh giá
toàn diện hiệu quả tài chính của dự án.
• Chỉ số doanh lợi (PI)
Chỉ số doanh lợi là tỷ lệ giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền dự án mang lại
và giá trị của đầu tư ban đầu. Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị đầu tư sẽ mang lại
bao nhiêu đơn vị giá trị. Nếu PI lớn hơn 1 có nghĩa là dự án mang lại giá trị cao hơn
chi phí và khi đó có thể chấp nhận được.
Công thức xác định như sau: PI =
P
PV
Trong đó: PV là thu nhập ròng hiện tại.
P là vốn đầu tư ban đầu.
Với PV = NPV + P
Theo tiêu chuẩn PI, phương án được chọn là phương án có PI >1
Tóm lại, mỗi chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án đều có
những ưu nhược điểm nhất định. Vậy để có thể đưa ra được một kết quả thẩm định
chính xác và hiệu quả thì cần kết hợp tất cả các chỉ tiêu trên vì chúng bổ sung hỗ trợ
cho nhau giúp người thẩm định đưa ra được kết luận khách quan và chính xác nhất.
1.2.3.5. Đánh giá rủi ro trong dự án
Đánh giá rủi ro của dự án là phân tích hiệu quả tài chính của dự án trong sự
thay đổi của môi trường gây tác động xấu tới dự án. Một số phương pháp thường
được áp dụng để đo lường rủi ro như sau :
Phân tích độ nhạy: Thẩm định độ nhạy của dự án là xem xét sự thay đổi các
chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án (lợi nhuận, NPV, IRR…) khi các yếu tố có liên
quan đến chỉ tiêu đó thay đổi. Phương pháp này bao gồm các bước:
Xác định các yếu tố dễ bị thay đổi do ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài
(giá cả sản phẩm, sản lượng, chi phí, tỷ giá).
Đo lường % thay đổi của chỉ tiêu hiệu quả tài chính do sự thay đổi của các yếu
tố, tính độ nhạy của dự án theo công thức:
=
% thay đổi của chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án
% thay đổi của các yếu tố đầu vào gây ra sự thay đổi đó
Chỉ số nhạy cảm thường mang dấu âm, trị tuyệt đối của chỉ số càng lớn thì độ
rủi ro càng lớn, do các yếu tố đầu vào biến động ảnh hưởng lớn tới kết quả tài chính
của dự án. Bên cạnh tác dụng đo lường rủi ro, phân tích độ nhạy cũng chỉ ra hiệu
quả dự án nhạy cảm với yếu tố đầu vào nào nhất, từ đó yếu tố này cần được lưu ý để
giảm thiểu rủi ro cho dự án.
Phân tích tình huống: Phương pháp này đánh giá kết quả của dự án trong
một số trường hợp với những điều kiện nhất định của các yếu tố xác định dự án có
tính tới phân bố xác xuất và phạm vi khác nhau của các giá trị có thể có của các yếu
tố. Phương pháp này mang lại hiệu quả cao hơn trong việc đo lường rủi ro của dự
án do khả năng xem xét đồng thời sự kết hợp của các yếu tố và có tính tới mối quan
hệ của các yếu tố đó. Tuy nhiên, đây là phương pháp khá phức tạp, đòi hỏi người