MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa với sự thống
trị của tư bản độc quyền. Cùng với sự phát triển đó, chủ nghĩa tư bản ngày càng “bủa lưới” bao trùm cả thế
giới, các nước Đông Nam Á cũng ngày càng bị cuốn vào guồng quay của hệ thống kinh tế - chính trị thế
giới, trở thành những đối tượng bị chinh phục của chủ nghĩa tư bản thế giới. Hệ quả tất yếu là hầu hết các
nước trong khu vực Đông Nam Á đều lần lượt rơi vào vòng kiểm soát hoặc trở thành thuộc địa của chủ nghĩa
thực dân tư bản phương Tây ở những mức độ khác nhau. Trong bối cảnh đó, chỉ có hai quốc gia ở châu Á đã
thoát khỏi một cách ngoạn mục làn sóng xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Nếu ở Đông Bắc Á,
Nhật Bản là nước duy nhất giữ được độc lập thì ở Đông Nam Á, Xiêm cũng là quốc gia duy nhất không rơi
vào ách thuộc địa như các nước khác trong vùng và cơ bản vẫn duy trì được sự độc lập tương đối của mình.
Dưới các triều vua Rama IV (1851 - 1868), Rama V (1868 - 1910), ở Xiêm diễn ra khá thành công công
cuộc duy tân, phát triển đất nước theo hướng tư bản chủ nghĩa, đặt nền móng cho quá trình hiện đại hóa đất
nước của Xiêm. Với các cuộc cải cách này, Xiêm đã bước một bước đi đầu tiên vào quỹ đạo tư bản chủ
nghĩa, tuy nhiên, để hoàn tất quá trình định dạng chủ nghĩa tư bản thì Xiêm còn phải trải qua một quá trình
lâu dài và còn qua nhiều lần đổi mới, cải cách nữa, đặc biệt là một cuộc cách mạng vào năm 1932.
Nghiên cứu về cuộc cách mạng năm 1932 ở Xiêm, đặc biệt là tính chất và ý nghĩa lịch sử của nó không
chỉ làm rõ được những tiền đề, diễn biến, kết quả mà quan trọng hơn là đi sâu phân tích, đánh giá, nhận định
1
về tính chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng, giải đáp những câu hỏi, những vấn đề xung quanh “sự kiện
Xiêm” trong thập niên 30 thế kỉ XX. Đồng thời, trên cơ sở những nhận xét, đối chiếu, so sánh sự kiện này
với phong trào cách mạng ở một vài nước trên thế giới và khu vực Đông Nam Á, ta có thể góp phần làm rõ
hơn con đường phát triển của nước Xiêm – Thái Lan thời cận đại. Ngoài ra, việc tìm hiểu về Priđi
Phanômyông – linh hồn của cuộc cách mạng 1932, đặc biệt là những tư tưởng cải tạo xã hội của ông sẽ giúp
ta rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích và thiết thực đối với công cuộc xây dựng đất nước Việt
Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay.
Trong điều kiện hiện nay, khi các quốc gia châu Á đang đứng trước xu thế toàn cầu hóa, những bài học
về quá trình hội nhập trong thời kì cận đại tuy thuộc về quá khứ, nhưng nếu được chứng nghiệm là xác đáng,
thì vẫn có giá trị nhất định đối với quá trình đổi mới để hội nhập. Việt Nam hiện nay đang trong quá trình đổi
mới, “mở cửa” trong quan hệ hợp tác với cộng đồng quốc tế, trong đó có Thái Lan và các nước trong khu
vực Đông Nam Á. Với phương châm “Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”, việc tiếp tục mở rộng các mối
quan hệ quốc tế đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử các nước và các khu vực. Thực tế lịch sử cho
thấy, trong quá trình tồn tại và phát triển, Việt Nam và Thái Lan có mối quan hệ chặt chẽ nhiều mặt trong
quá khứ cũng như trong hiện tại. Do đó, chúng ta không thể không tìm hiểu một nước láng giềng khu vực
quan trọng, có nhiều điểm khác biệt, nhưng cũng không ít điều tương đồng về lịch sử và văn hóa như Thái
Lan. Con đường phát triển của Thái Lan, thông qua toàn bộ lịch sử của mình, để lại những kinh nghiệm tham
khảo rất bổ ích đối với Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay.
2
Những vấn đề đặt ra trên đây là cơ sở để chúng tôi chọn “Cách mạng năm 1932 ở Xiêm (Thái Lan) –
Tính chất và ý nghĩa lịch sử” làm đề tài Luận án tiến sĩ sử học của mình với hy vọng sẽ góp phần làm sáng
tỏ những khía cạnh đặt ra ở trên.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là khái quát những tiền đề, diễn biến, kết quả của cách mạng 1932. Từ
đó, phân tích làm rõ tính chất, đặc điểm và ý nghĩa của cuộc cách mạng trên cơ sở có sự so sánh, đối chiếu
với một vài cuộc cách mạng tư sản trên thế giới và trong khu vực.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm sáng tỏ nội dung Luận án, chúng tôi dự kiến tập trung đi sâu nghiên cứu những vấn đề trọng yếu
sau:
- Trước hết, luận án tập trung khái quát về cuộc cách mạng 1932 ở Xiêm về tiền đề, diễn biến, kết quả.
Trong phần này, chúng tôi tập trung vào sự ra đời nền quân chủ lập hiến thay thế cho chế độ quân chủ
chuyên chế ở Xiêm, sự ra đời của hai bản hiến pháp, những nét cơ bản trong tư tưởng cải tạo xã hội của Priđi
Phanômyông với tư cách là nội dung chính trị tư tưởng của cuộc cách mạng và quá trình lên cầm quyền của
giới quân sự Xiêm.
- Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi đi sâu phân tích, làm rõ về tính chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng
1932, so sánh, đối chiếu với các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu trong những thế kỉ trước, từ đó rút ra
những đặc điểm của cuộc cách mạng 1932. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đề tài. Trong phạm vi những công
trình và tài liệu nghiên cứu có thể tiếp cận, Luận án cố gắng cung cấp cho người đọc những ý kiến, quan
3
điểm khác nhau của các học giả trong và ngoài nước về tính chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng năm 1932.
Từ đó, chúng tôi đưa ra những quan điểm riêng của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà Luận án hướng tới là tính chất và ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng năm
1932 ở Xiêm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận án về không gian là vương quốc Xiêm (Thái Lan). Tuy nhiên, để có thể
hoàn thành tốt được những nhiệm vụ đặt ra trong luận án, chúng tôi thấy cần đặt nước Xiêm và cuộc cách
mạng 1932 trong bối cảnh quốc tế và khu vực. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, chúng tôi có mở rộng không
gian nghiên cứu ra khu vực châu Á và một vài nước trên thế giới.
Phạm vi thời gian mà Luận án bao quát chủ yếu là từ năm 1932, tức là năm bùng nổ cuộc cách mạng.
Tuy nhiên, để có thể tìm hiểu được những tiền đề, nguyên nhân sâu xa cũng như những nhiệm vụ của cuộc
cách mạng, chúng tôi phải mở rộng phạm vi thời gian nghiên cứu từ giữa thế kỷ XIX, khi Xiêm bắt đầu
những bước đầu tiên trong quá trình hội nhập với phương Tây.
Giới hạn cuối cùng về thời gian của Luận án là vào năm 1938, khi giới quân sự giải tán Nghị viện và
thành lập chính phủ mới, đánh dấu sự thắng thế hoàn toàn của giới quân sự trên chính trường Xiêm, mở đầu
một giai đoạn mới trong lịch sử Xiêm – Thái Lan.
4
Trong thời kì Luận án nghiên cứu, tên gọi của vương quốc Thái Lan được dùng là “Vương quốc Xiêm”
(gọi tắt là Xiêm) vì đến năm 1939 Xiêm mới đổi tên thành Thái Lan.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành Luận án, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu chủ yếu sau:
Tài liệu gốc:
Bao gồm các sắc lệnh, tuyên bố, thư từ, bài phát biểu của các vị vua Rama; những thông cáo, tuyên bố
của Hoàng gia Xiêm được trình bày trong các công trình nghiên cứu cụ thể như: The Political Economic of
Siam (1851 - 1910), tập 1, của tác giả Chatthip Nartsupha and Suthyprasartser, Hội Khoa học xã hội Thái
Lan xuất bản năm 1981; Siam in transition: A brief survey of cultural trends in the five years since the
Revolution of 1932, của tác giả Kenneth Perry Landon, Đại học Chicago xuất bản năm 1939; Chulalongkorn
the great của tác giả Prachomchochai xuất bản năm 1965 tại Tokyo; The End of the Absolute Monarchy in
Siam của tác giả Benjamin A. Batson, Đại học Oxford xuất bản năm 1986.
Những tập nhật kí, hồi kí của những người phương Tây đến Xiêm buôn bán, truyền đạo, làm gia sư cho các
con vua, các cố vấn trong triều đình Xiêm được trình bày trong các công trình: A True Description of the Mighty
Kingdoms of Japan and Siam của Francois Caron xuất bản tại Băng Cốc năm 1986, Description of Old Siam,
của Micheal Smithies, Đại học Oxford xuất bản năm 1995; An English governess at the court of Siam của
A.Leonowens xuất bản tại Luân Đôn năm 1954; The Diaries and Letters of King Chulalongkorn's General
Adviser của Walter E.J.Tips, Gustave Rolin – Jeaquemyns…
5
Các cuốn hồi kí của Priđi Phanômyông và một số nhà lãnh đạo cách mạng 1932 được trình bày trong
các công trình: Pridi Banomyong and the Making of Thailand Modern History, của tác giả Vichitvong Na
Pombhejara xuất bản năm 1979; On Founding the People’s Party and the Democratic System của Pridi
Banomyong xuất bản năm 1972; Field Marshal P.Pibul Songgram, 5 tập của Pibul Songgram xuất bản năm
1975 – 1976; Thai Politics: Extracts and Documents 1932-1957, của Thak Chaloemtiarana, Hội Khoa học
Xã hội Thái Lan xuất bản năm 1978…
Tuy nhiên, do không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với những tài liệu này bằng Tiếng Thái nên nguồn tài
liệu này chúng tôi chủ yếu lấy lại từ các công trình nghiên cứu bằng Tiếng Anh.
Tài liệu chuyên khảo: Bao gồm những công trình nghiên cứu của các thế hệ trước có liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp tới đề tài luận án, đó là: các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước nghiên
cứu về lịch sử Thái Lan trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa… đặc biệt là trong thời kì lịch sử
mà Luận án hướng tới. Ngoài ra, phải kể đến các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, cử nhân, các báo cáo trong
các hội thảo, các bài báo trên các tạp chí chuyên ngành. Nguồn tài liệu này bao gồm các thứ tiếng Anh, Pháp,
Nga, Thái, Việt đã được dịch hoặc nguyên bản và được lưu giữ tại các trung tâm nghiên cứu và các thư viện
lớn của Việt Nam (Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Viện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Học viện
khoa học xã hội Việt Nam…). Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu về lịch sử các nước như Liên Xô,
Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, qua đó cung cấp những sự kiện lịch sử có liên quan đến vấn đề Luận án
nghiên cứu và được sử dụng để so sánh, phân tích, đối chiếu làm rõ vấn đề cũng như rút ra những nhận xét
khái quát.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là một vấn đề lịch sử, do đó, để giải quyết những vấn đề do đề tài
Luận án đặt ra, về mặt cơ sở lí luận, chúng tôi dựa vào chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Điều đặc biệt lưu ý là trong khi nghiên cứu chúng tôi quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng ta, của
chủ nghĩa Mác – Lênin về công tác nghiên cứu lịch sử, trên cơ sở đó rút ra những bài học lịch sử cần thiết,
bổ ích phục vụ cho công cuộc đổi mới mở cửa của nước ta hiện nay.
Về phương pháp cụ thể, trong Luận án, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc là
phương pháp nghiên cứu chủ yếu, qua đó, trình bày quá trình hình thành và phát triển của các vấn đề bằng
những sự kiện điển hình, phân chia giai đoạn phát triển bằng các mốc lịch sử theo thời gian, qua đó rút ra kết
luận khái quát.
Với phương pháp lịch sử, chúng tôi cố gắng dựng lại toàn bộ cuộc cách mạng 1932 ở Xiêm qua những
sự kiện, nhân vật, các giai đoạn, diễn biến và kết quả chính của nó.
Phương pháp lôgíc được sử dụng trong luận án nhằm rút ra những đặc điểm, những nhận định, đánh giá
về tính chất và ý nghĩa của cách mạng 1932, đồng thời đặt nó trong sự đối sánh với các cuộc cách mạng trên
thế giới và trong khu vực, từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích đối với Việt Nam trong công cuộc
xây dựng đất nước ngày nay.
Đây là những phương pháp cơ bản, chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu luận án. Chúng tôi rất
quan tâm đến việc trình bày các quan điểm trên cơ sở tôn trọng các sự kiện và tính chân thực lịch sử đúng như nó
đã diễn ra và đã từng tồn tại. Ngoài ra, từ việc nghiên cứu một sự kiện lịch sử trong tổng thể bối cảnh chung của
7
khu vực và thế giới đồng đại nên phương pháp so sánh được chúng tôi chú ý vận dụng. Bên cạnh đó, Luận án còn
vận dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp và phân tích để Luận án có cái nhìn tổng quát hơn.
6. Đóng góp của Luận án
- Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam về cuộc cách mạng năm 1932 ở Xiêm (Thái
Lan), dựng lại bức tranh tương đối toàn diện, có hệ thống về cuộc cách mạng một cách khách quan và khoa
học.
- Cùng với việc việc nghiên cứu, trình bày một cách có hệ thống diễn biến và kết quả của cuộc Cách
mạng 1932 ở Xiêm, trọng tâm của Luận án là nghiên cứu và rút ra những ý kiến về tính chất, đặc điểm và ý
nghĩa của cuộc cách mạng này.
- Trong phạm vi những công trình và tài liệu nghiên cứu có thể tiếp cận, Luận án cố gắng cung cấp cho
người đọc những ý kiến, quan điểm khác nhau của các học giả trong và ngoài nước về cách mạng 1932 nói
chung và tính chất, ý nghĩa lịch sử của nó nói riêng. Từ đó, chúng tôi đưa ra những nhận định và đánh giá,
những quan điểm riêng của mình.
- Luận án có thể sử dụng như một công trình tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy về lịch
sử cuộc Cách mạng 1932 nói riêng và lịch sử Thái Lan nói chung, cũng như phục vụ cho nhu cầu hiểu biết
của bạn đọc quan tâm tới lịch sử Thái Lan và Đông Nam Á.
7. Bố cục của Luận án
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, thư mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung của Luận án gồm 4
chương:
8
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về Cách mạng 1932 ở Xiêm (Thái Lan).
Chương 2: Tiền đề và diễn biến của cách mạng 1932
Chương 3: Tính chất và đặc điểm của cách mạng 1932
Chương 4: Ý nghĩa của cách mạng 1932
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ CÁCH MẠNG 1932 Ở XIÊM (THÁI LAN)
1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước
1.1.1. Các tác giả Thái
Trong số những công trình nghiên cứu của người Thái mà chúng tôi tiếp cận được, có liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp tới cuộc Cách mạng 1932, chúng tôi thấy nổi bật lên một số công trình như sau: Công trình
“Cách mạng Xiêm 1932” của hai tác giả Chanvit Kasetsiri và Thamrongsak Petchalertanan được Quỹ
khuyến khích Khoa học xã hội và nhân văn xuất bản tại Băng Cốc năm 2009; “Pridi Banomyong and The
Making of Thailand Modern History” (Pridi Banomyong và Sự hình thành Lịch sử Hiện đại Thái Lan),
Singapore, ISEAS, của tác giả Vichitvong na Pombhejara xuất bản năm 1979;“A History of Thailand” (Lịch
sử Thái Lan) của Rong Syamananda, giáo sư Trường Đại học Chulalongkorn, được xuất bản năm 1972 tại
Băng Cốc bằng cả tiếng Thái và tiếng Anh; “Lịch sử Thái Lan” của tác giả Penxri Duk, Priyanark Bunnag,
9
Nhà xuất bản Ăkxon Chu Ron Thắt, năm 1983; “Thai Politics: Extracts and Documents 1932 - 1957”
(Chính trị Thái Lan: Những trích đoạn và tài liệu 1932 - 1957) của tác giả Thak Chaloemtiarana; “Sự hưng
thịnh và suy vong của nền quân chủ chuyên chế Thái Lan”của tác giả Chaiyan Rajchagool do Nhà xuất bản
White Lotus, Băng Cốc, Thái Lan xuất bản năm 1994.
1.1.2. Các tác giả nước ngoài
Đối với các học giả nước ngoài, cuộc Cách mạng năm 1932 ở Xiêm thường được đề cập một cách khái
quát trong các công trình viết về lịch sử Đông Nam Á hoặc lịch sử Thái Lan. Có thể kể đến một số công trình
như:
Công trình “Siam in transition – A brief survey of cultural trends in the five year since the Revolution of
1932” (Nước Xiêm chuyển biến – Khảo sát về những khuynh hướng văn hóa trong 5 năm kể từ Cách mạng
1932) của tác giả Kenneth Perry Landon, xuất bản năm 1939; Nhà nghiên cứu người Nga – E.O Bécdin với
cuốn sách “Lịch sử Thái Lan” xuất bản năm 1976 tại Mátxcơva; Công trình “Lịch sử hiện đại Thái Lan” do
nhà sử học Liên Xô N.V. Rêbricôva biên soạn và được Nhà xuất bản Văn học phương Đông, Mátxcơva xuất
bản năm 1960; Công trình “Thailand – A short history” (Sơ lược lịch sử Thái Lan) của tác giả David K. Wyatt
được xuất bản năm 1982 tại Luân Đôn; Công trình “Politics in Thailand” của tác giả David A. Wilson do
Trường Đại học Cornell, Ithaca, New York xuất bản năm 1962.
Liên quan rải rác đến đề tài mà luận án nghiên cứu còn phải kể đến một loạt các công trình:
J.D.G.Campbell với công trình “Siam in the twentieth century” (Xiêm trong thế kỉ XX) xuất bản năm 1902;
công trình “The Kingdom of Siam” (vương quốc Xiêm) của tác giả A.C.Carter xuất bản năm 1904; “Siam”
10
(Nước Xiêm) của W.A.Graham xuất bản năm 1924; “The Kingdom and People of Siam” (Vương quốc và cư
dân Xiêm) của John Bowring – Đại sứ Anh tại Xiêm xuất bản năm 1977 tại Singapo; công trình “A History
of the Kings of Thailand” (Lịch sử các nhà vua Xiêm) của hoàng thân Chula Chacrabongse xuất bản tại Băng
Cốc năm 1960; công trình “Mongkut - The King of Siam” (Vua Xiêm – Môngkút) của A.L.Moffat xuất bản
tại New York năm 1962; “Chulalongkorn the Great” (Chulalongkorn vĩ đại) của Prachom Choochai xuất
bản năm 1965; “State and Society in the Reign of Mongkut (1851 - 1868)” (Nhà nước và xã hội Xiêm thời
Môngkút (1851 - 1868)) của tác giả Wilson Constance; tác giả Walter E.J.Tips với công trình“Gustave Rolin
Jaequemyns and the Making of Modern Siam” (Gustave Rolin Jaequemyns và sự hình thành nước Xiêm
hiện đại ) do Nhà xuất bản White Lotus, Băng Cốc xuất bản năm 1996.
1.1.3. Các tác giả Việt Nam
Với tư cách là láng giềng gần gũi, các nhà khoa học Việt Nam cũng có những công trình nghiên cứu về
Thái Lan trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, số lượng các công trình nói chung chưa nhiều và cho đến nay
chưa có một công trình chuyên khảo nào về cách mạng 1932. Có thể dẫn ra đây một số tác giả và công trình
tiêu biểu như:
Giáo sư Vũ Dương Ninh với “Lịch sử vương quốc Thái Lan”, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1994;
PGS.TS Lê Văn Quang với “Lịch sử vương quốc Thái Lan”, xuất bản năm 1995 tại thành phố Hồ Chí Minh;
Nguyễn Khắc Viện với “Thái Lan – Một số nét về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa và lịch sử”, Nhà xuất
bản Thông tin lí luận xuất bản năm 1988.
11
Một số lượng lớn các công trình có liên quan rải rác đến nội dung của đề tài như: “Lịch sử Thái Lan”
của hai tác giả Phạm Nguyên Long, Nguyễn Tương Lai, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1998;
Luận án “Chính sách đối ngoại của Xiêm nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX” của Tiến sĩ Đào Minh Hồng, Trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001; Luận án “Quá trình cải cách ở Xiêm 1851 - 1910 và
những hệ quả của nó” của Tiến sĩ Dương Thị Huệ, bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2003;
Luận án “Chính sách đối ngoại của vương triều Ayuthaya thế kỉ XIV - XVIII” của Tiến sĩ Trần Thị Nhẫn,
bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2011.
1.2. Những vấn đề Luận án cần giải quyết
1.2.1. Những nội dung kế thừa từ các công trình đã công bố
Luận án kế thừa những công trình nghiên cứu đã công bố những nội dung cụ thể như sau:
Một là, quá trình cải cách ở Xiêm 1851 – 1910 trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, tôn
giáo, quân sự, ngoại giao và những tác động của nó đối với Xiêm; những nhận xét, đánh giá về bước đầu tiến
trình hội nhập với phương Tây và sự định dạng của chủ nghĩa tư bản ở Xiêm.
Hai là, những khái quát cơ bản về tiến trình diễn biến của cách mạng và những kết quả của nó.
1.2.2. Những nội dung mới cần giải quyết trong luận án
Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu về lịch sử Thái Lan của các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến
nội dung nghiên cứu mà luận án đang hướng tới, chúng tôi nhận thấy những nội dung mới cần giải quyết
trong luận án như sau:
12
Thứ nhất: Các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu đi trước ở Thái Lan, trên thế giới và Việt
Nam đã tái hiện khá đầy đủ lịch sử Thái Lan từ buổi đầu cho đến thời hiện đại. Cách mạng 1932 được trình
bày với tư cách là một sự kiện quan trọng, một mốc lịch sử trong quá trình định dạng của chủ nghĩa tư bản ở
Xiêm. Tuy nhiên, những tiền đề khách quan, chủ quan, sự ra đời của tổ chức chính trị lãnh đạo cách mạng và
yếu tố thời cơ cách mạng chưa được các tác giả đề cập và nghiên cứu một cách có hệ thống. Đây là một nội
dung chúng tôi cố gắng làm rõ trong luận án.
Thứ hai, luận án tập trung làm rõ sự ra đời chế độ quân chủ lập hiến thay thế chế độ quân chủ chuyên
chế ở Xiêm. Đồng thời, làm rõ tiến trình cải cách hiến pháp ở Xiêm và một số nội dung quan trọng trong
những tư tưởng cải cách về kinh tế - xã hội của Priđi Phanômyông (1900 - 1983). Trên cơ sở đó, có những
nhận xét, so sánh đối chiếu với Việt Nam và rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng trong xây dựng đất
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Thứ ba, qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu về cuộc Cách mạng 1932 ở Xiêm, chúng tôi nhận thấy ý kiến
về tính chất của cuộc cách mạng còn có nhiều khác biệt. Một số tác giả cho rằng cách mạng 1932 là một
cuộc cách mạng tư sản, một số khác cho rằng đây là cuộc chính biến, nhóm thứ ba lại cho đây vừa là cuộc
cách mạng tư sản vừa là cuộc chính biến. Xuất phát từ thực tế đó, trên cơ sở nghiên cứu và khái quát những
nhận định, đánh giá về tính chất cách mạng 1932 của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng tôi
mạnh dạn trình bày suy nghĩ và bước đầu đưa ra ý kiến cá nhân của mình về vấn đề này.
13
Thứ tư, với tư cách là người Việt Nam, nghiên cứu lịch sử Thái Lan, thông qua việc so sánh với một số
cuộc cách mạng ở châu Âu trong những thế kỉ trước, chúng tôi cố gắng tập trung làm rõ những đặc điểm và ý
nghĩa của cuộc cách mạng này . Đây là một nội dung trọng tâm mà luận án hướng tới.
Cuối cùng, cho đến hiện tại, trong thời điểm thực hiện luận án, chúng tôi nhận thấy, ở Việt Nam chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, tổng thể và chuyên sâu về cách mạng 1932, đặc biệt là
tính chất và ý nghĩa lịch sử của nó.
Tóm lại, luận án vừa là sự kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các học giả, các nhà nghiên cứu đi
trước, vừa là sự cố gắng của bản thân tác giả trong việc tập trung nghiên cứu, góp phần làm rõ một sự kiện
quan trọng trong lịch sử Thái – Cách mạng năm 1932 – Tính chất và ý nghĩa lịch sử.
Chương 2
TIỀN ĐỀ VÀ DIỄN BIẾN CỦA CÁCH MẠNG 1932
2.1. Những tiền đề của Cách mạng 1932
2.1.1. Các cuộc cải cách nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Giữa thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trước áp lực xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây, triều đình
phong kiến Xiêm thời Rama IV – Môngkút (1851 - 1868) đã tiến hành canh tân đất nước, loại bỏ những hủ
tục phong kiến lạc hậu lỗi thời, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Sau khi Rama IV qua đời, năm
1868, Rama V – Chulalongkorn (1868 - 1910) lên kế vị và tiếp tục thực hiện những cải cách của vua cha.
14
Dưới thời Rama V, một cuộc cải cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục,
quân sự đã diễn ra ở Xiêm.
2.1.2. Nước Xiêm đầu thế kỉ XX (1910 - 1932)
2.1.2.1. Về kinh tế
Đầu thế kỉ XX, dưới các triều vua Rama VI (1910 - 1925), Rama VII (1925 - 1935), nền kinh tế Xiêm
rơi vào tình trạng khủng hoảng khá gay gắt. Làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn giữa tư bản bản xứ
với tư bản nước ngoài và bộ phận địa chủ phong kiến quý tộc vốn bị tư bản nước ngoài lôi kéo, mua chuộc;
làm thế nào để thoát khỏi sự phụ thuộc và kiểm soát của tư bản nước ngoài đưa nền kinh tế tiếp tục phát triển
mạnh mẽ hơn theo hướng tư bản chủ nghĩa là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với Xiêm khi đó.
2.1.2.2. Về xã hội
Từ giữa những năm 20 của thế kỉ XX, cuộc khủng hoảng của xã hội Xiêm đã bước vào thời kì nghiêm
trọng. Cuộc khủng hoảng xã hội đã đụng chạm không chỉ tới giới cầm quyền mà còn đụng chạm tới lợi ích
và thái độ của mọi tầng lớp nhân dân Xiêm. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) bùng nổ thì
tình hình giai cấp cũng có nhiều biến chuyển với đặc điểm nổi bật là các giai tầng xã hội đều bất mãn với chế
độ cai trị của triều đại Rama.
2.1.2.3. Về chính trị
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đi liền với sự suy yếu của nền kinh tế, chế độ quân chủ chuyên chế
phong kiến Xiêm đã có những dấu hiệu khủng hoảng.
15
Đặc biệt, một sự kiện nổi bật có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị Xiêm là sự ra đời một chính đảng
- Đảng Nhân dân (Khana Ratsadon - คณะราษฎร). Cùng với đó là sự xuất hiện của Priđi Phanômyông
(1900 - 1983) – một trí thức tiểu tư sản, một trong những người đã tham gia sáng lập Đảng Nhân dân, một
nhân vật có ảnh hưởng lớn trên trường chính trị Thái Lan những thập niên đầu thế kỉ XX.
2.2. Diễn biến Cách mạng 1932
2.2.1. Giai đoạn 1: Cách mạng bùng nổ và sự sụp đổ của chế độ quân chủ chuyên chế (24 tháng 6 năm
1932 đến 27 tháng 6 năm 1932).
5h sáng ngày 24 tháng 6 năm 1932, trong khi nhà vua đang đi nghỉ mát tại cung mùa hè "Klaikangvol" ở
tỉnh Prachuap Khiri Khan (thuộc Hứa Hin) bên bờ vịnh Xiêm, các đơn vị quân đội gồm kị binh và pháo binh
bao vây cung điện nhà vua và các cơ quan khác của chính phủ, bắt Bộ trưởng Nội vụ là hoàng thân Nacon
Xavan cùng 40 người khác thuộc thành viên chính phủ làm con tin. Đồng thời, 3 viên đại tá, thuộc những
người trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cuộc binh biến, gồm: Bahol Balabayuha, Song Suradet và Riddhi
Aganey, thảo một tối hậu thư tới nhà vua tuyên bố sự ra đời nền quân chủ lập hiến và yêu cầu nhà vua trở về
trị vì với tư cách một vị vua lập hiến.
Ngày 27 tháng 6 năm 1932, vua Prachathipok (1925 - 1935) chấp nhận kí vào bản Hiến pháp tạm thời do
Đảng Nhân dân đề ra, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế, thành lập chế độ quân chủ lập hiến – một chế
độ mà nhà vua vẫn tồn tại với tư cách là người đứng đầu nhà nước nhưng chỉ mang tính chất tượng trưng, đại
diện cho truyền thống, cho sự thống nhất của quốc gia, không có nhiều quyền hành trong thực tế. Nói cách
khác nhà vua trị vị nhưng không cai trị.
16
2.2.2. Giai đoạn 2: Sự thiết lập nền quân chủ lập hiến và cuộc đấu tranh bảo vệ chế độ mới (27 tháng 6 năm
1932 đến tháng 3 năm 1933)
Sự kiện Rama VII (1925 - 1935) chấp nhận kí vào bản Hiến pháp tạm thời ngày 27 tháng 6 năm 1932
đánh dấu thiết chế nhà nước quân chủ lập hiến chính thức ra đời ở Xiêm. Mô hình nhà nước quân chủ lập
hiến được xây dựng dựa trên nguyên tắc tam quyền phân lập, với sự phân định rõ ba quyền: Lập pháp, Hành
pháp, Tư pháp và được quy định rõ trong Hiến pháp.
Qua một quá trình chuẩn bị, ngày 10 tháng 12 năm 1932, Hiến pháp chính thức được ban hành. Hiến
pháp chính thức quy định rõ về chức năng và quyền hạn của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của nhà
nước. Giống như hiến pháp tạm thời, Hiến pháp chính thức quy định Nghị viện (Quốc hội) là cơ quan lập
pháp của nhà nước, theo chế độ một viện, cơ quan hành pháp là Hội đồng Nhà nước do vua bổ nhiệm gồm
Thủ tướng và 14 bộ trưởng được chọn trong số các nghị sĩ quốc hội (Nghị viện). Ngoài ra, có 10 thành viên
khác của Hội đồng nhà nước được chọn từ bên ngoài Nghị viện, tuỳ theo tài năng. Hội đồng nhà nước chịu
trách nhiệm trước Nghị viện và khi cần Nghị viện sẽ bỏ phiếu tín nhiệm. Tòa án vẫn là cơ quan tư pháp.
Như vậy, so sánh nội dung của hai bản hiến pháp có thể thấy rằng mặc dù được tiến hành trên cơ sở kế
thừa những nội dung cơ bản từ Hiến pháp tạm thời nhưng Hiến pháp chính thức tháng 12 năm 1932 có
những điểm nhượng bộ nhà vua. Sau khi thông qua Hiến pháp, giai cấp phong kiến quý tộc, đứng đầu là nhà
vua đã chuẩn bị đấu tranh quyết liệt với Đảng Nhân dân. Trong khi đó, những trí thức tiểu tư sản Xiêm, đứng
đầu là Priđi Phanômyông (1900 - 1983) nhận thức rõ sự cần thiết phải tiếp tục quá trình cải cách kinh tế, xã
17
hội sau khi giành được chính quyền. Với mục đích đó, Priđi Phanômyông (1900 - 1983) đã khởi thảo và đưa
ra chương trình cải tạo kinh tế, xã hội của mình.
2.2.3. Cuộc đấu tranh vì quyền lực và quá trình lên cầm quyền của phái quân sự - giai đoạn (1933 –
1938)
Những năm 1933 – 1938 là giai đoạn đấu tranh hết sức căng thẳng để quyết định đường lối chính trị ở
Xiêm giữa những tầng lớp có xu hướng dân chủ mà Priđi Phanômyông (1900 - 1983) là đại diện và những
thế lực bảo thủ muốn khôi phục lại chế độ quân chủ chuyên chế, là cuộc tranh giành quyền lực giữa hai phái
dân sự và quân sự. Cuối cùng, cán cân chính trị đã nghiêng về giới quân sự và trong Chiến tranh thế giới thứ
hai (1939 – 1945), Thái Lan đã đi theo xu hướng phát xít của Nhật Bản.
18
Chương 3
TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁCH MẠNG 1932
3.1. Tính chất của Cách mạng 1932
3.1.1. Cách mạng 1932 ở Xiêm là một cuộc cách mạng tư sản, đã giải quyết được những vấn đề, nhiệm
vụ cơ bản của một cuộc cách mạng tư sản
Cách mạng 1932 đã thành công trong việc thay thế chế độ quân chủ chuyên chế (Absolute monarchy)
bằng chế độ quân chủ lập hiến (Constitutional monarchy) – một trong những hình thức nhà nước tư sản đã
từng xuất hiện trong thời kì bùng nổ cách mạng tư sản ở châu Âu trước đó (cách mạng tư sản Anh 1642, cách
mạng tư sản Pháp trong giai đoạn 1789 - 1792).
3.1.2. Cách mạng 1932 là một cuộc cách mạng tư sản không triệt để, mang tính nửa vời
Tính nửa vời của cuộc cách mạng được thể hiện rõ ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, ngay từ đầu, khi Đảng Nhân dân mới thành lập, cơ cấu thành phần trong Đảng đã không thuần
nhất và trên thực tế mục tiêu cách mạng giữa hai phái “Những người lớn tuổi” và “Phái những người trẻ”
cũng có sự khác biệt.
Thứ hai, cách mạng không triệt để vì vấn đề ruộng đất của nông dân chưa được đáp ứng.
19
Thứ ba, hình thức thống trị mà giai cấp lãnh đạo cách mạng đã lựa chọn là nền quân chủ lập hiến – một
sự thỏa hiệp giữa hai chế độ, thể hiện mối liên hệ có tính chất kế thừa giữa thiết chế nhà nước trước và sau
cách mạng, chưa hoàn toàn đoạn tuyệt với chế độ phong kiến, mọi tàn dư của chế độ cũ chưa được rũ sạch.
3.2. Đặc điểm của Cách mạng 1932
3.2.1. Cách mạng 1932 là cuộc cách mạng do bộ phận cấp tiến gồm những sĩ quan trong quân đội và
tầng lớp trí thức dân sự được du học ở châu Âu lãnh đạo
Trong những cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu những thế kỉ trước, lãnh đạo cách mạng tư sản thường là
bản thân giai cấp tư sản (Cách mạng tư sản Pháp 1789) hoặc giai cấp tư sản liên minh với quý tộc mới (Cách
mạng tư sản Anh 1642).
Trong khi đó, ở Xiêm, lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản 1932 là bộ phận cấp tiến vốn là những sĩ quan
trong quân đội và tầng lớp trí thức dân sự được du học ở châu Âu, chịu ảnh hưởng của những tư tưởng dân
chủ tư sản châu Âu. Đặc biệt trong số này phải kể tới nhân vật quan trọng – người được coi là linh hồn của
cuộc cách mạng 1932 – Priđi Phanômyông (1900 - 1983).
3.2.2. Cách mạng 1932 là cuộc cách mạng không có sự tham gia của quần chúng nhân dân và không sử
dụng bạo lực, không đổ máu
Khác với các cuộc cách mạng ở châu Âu những thế kỉ trước, trong cuộc cách mạng Xiêm năm 1932
không có sự tham gia của quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân không trở thành động lực của cách
mạng. Cách mạng 1932 là một cuộc cách mạng hòa bình (A peaceful revolution).
3.2.3. Cách mạng 1932 gắn liền với vai trò to lớn của giới quân sự
20
Lịch sử của cuộc cách mạng 1932 và lịch sử chính trị Xiêm gắn liền với vai trò của giới quân sự. Những
người thuộc giới quân sự chiếm một vị trí quan trọng trong Đảng Nhân dân ở cả hai phái “Những người lớn
tuổi” và “Những người trẻ”, trong chính phủ mới và trong cả tiến trình cách mạng Xiêm những năm 30.
3.2.4. Cách mạng 1932 gắn liền và bị chi phối bởi đặc tính dân tộc Thái, đó là: Tính thực dụng, uyển
chuyển, dễ thích nghi; Sự tôn trọng và duy trì tinh thần Phật giáo của dân tộc, vai trò của nhà vua vẫn
được coi trọng
Sự lựa chọn thiết chế nhà nước quân chủ lập hiến vừa phù hợp với xu thế phát triển của Xiêm trong tiến
trình hội nhập vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản vừa gắn liền với đặc tính dân tộc Thái, đó là: Tôn trọng và duy
trì tinh thần Phật giáo của dân tộc với biểu hiện rõ nhất là sự coi trọng vai trò và địa vị của nhà vua. Sự tồn
tại của một nhà vua theo tinh thần Phật giáo bên cạnh Nghị viện và Chính phủ là nét đặc trưng riêng biệt của
nền quân chủ lập hiến Xiêm so với các nền quân chủ lập hiến trên thế giới.
Chương 4
Ý NGHĨA CỦA CÁCH MẠNG 1932
4.1. Cách mạng 1932 đưa đến sự kết thúc chế độ quân chủ chuyên chế, hình thành nên thể chế quân chủ
nghị viện tư sản và cải cách nền chính trị Xiêm theo phương thức dân chủ phương Tây
Có thể đánh giá đây là ý nghĩa quan trọng nhất của cuộc cách mạng. Cách mạng 1932 đã kết thúc 150
năm tồn tại của triều đại Chakri và gần 700 năm chế độ quân chủ chuyên chế trong lịch sử Thái Lan. Sự ra
21
đời của chế độ quân chủ lập hiến thay thế cho chế độ quân chủ chuyên chế trước đó là một bước tiến lớn về
chính trị của Thái Lan.
Với cách mạng 1932, thể chế chính trị Xiêm đã thay đổi. Từ một nước phong kiến thuần nhất theo chế
độ quân chủ chuyên chế phương Đông với quyền lực tập trung trong tay nhà vua, nhà vua là người đứng đầu
quốc gia, chịu trách nhiệm về sự phát triển kinh tế của đất nước đồng thời là người đứng đầu về tín ngưỡng,
đời sống tinh thần của xã hội, Xiêm đã tiến thêm một bước trong tiến trình hòa nhập vào sự phát triển chung
của chủ nghĩa tư bản thế giới với sự ra đời một chế độ chính trị mới – chế độ quân chủ lập hiến. Chế độ mới
này gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vương quốc Xiêm đã lấy mẫu hình của các
quốc gia tư sản phương Tây để xây dựng bộ máy nhà nước Xiêm.
4.2. Cách mạng 1932 thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tiếp tục phát triển ở Xiêm
Hệ quả to lớn của cách mạng 1932 là nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày càng được củng cố và phát
triển ở Xiêm. Xu hướng kinh tế tư bản chủ nghĩa đã ảnh hưởng tới tất cả các ngành nông nghiệp, công
nghiệp, thương nghiệp…
Trong những năm 30 thế kỉ XX, nền kinh tế Xiêm đã đạt được những bước phát triển đáng kể theo
hướng tư bản chủ nghĩa, đó là một nền nông nghiệp hướng vào xuất khẩu hàng hóa, một cơ cấu công thương
nghiệp với sự xuất hiện các nhà máy, xí nghiệp, các trung tâm công nghiệp tương đối nhộn nhịp. Có thể nói,
cách mạng 1932 với những hệ quả to lớn của nó đã góp phần làm thay đổi bản chất kinh tế của vương quốc
Xiêm, từ một nền kinh tế lạc hậu, phụ thuộc vào tư bản nước ngoài trở thành một nền kinh tế hàng hóa tư
bản chủ nghĩa.
22
4.3. Cách mạng 1932 đánh dấu một thời kì mới trong lịch sử Xiêm: Thời kì thắng thế của giới quân sự và
sự gia tăng chủ nghĩa Đại Thái
Nhìn lại lịch sử Thái Lan thế kỉ XX có thể thấy, trong tiến trình phát triển của cách mạng từ năm 1932
đến năm 1938, giới quân sự luôn giữ vai trò rất lớn. Trong giai đoạn nửa sau thập niên 30, vị trí và ảnh
hưởng của giới quân sự ngày càng nổi lên rõ rệt trên vũ đài chính trị Xiêm và chi phối nền chính trị của đất
nước nên các cuộc đảo chính quân sự lật đổ lẫn nhau thường xảy ra. Từ cuộc đảo chính tháng 6 năm 1933
đến cuộc đảo chính năm 1938, sự thay đổi của các chính phủ đều do người của giới quân sự tiến hành và
đứng đầu (từ chính phủ của Bahol đến chính phủ của Phibun). Và như vậy, một thực tế khách quan không
thể phủ nhận được là với cách mạng 1932, giới quân sự đã chính thức lên nắm quyền ở Xiêm. Đây là đặc
điểm trước đó chưa từng có trong lịch sử.
KẾT LUẬN
1. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trước áp lực xâm thực mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản thực dân
phương Tây, dưới các triều vua Rama IV (1851-1868), đặc biệt là Rama V (1868 - 1910), vương quốc Xiêm
đã lựa chọn con đường mở cửa, canh tân đất nước theo mô hình phát triển của các nước phương Tây và trở
thành quốc gia duy nhất trong khu vực còn giữ được nền độc lập tương đối trong khi hầu hết các quốc gia
khác đều trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Kết quả của quá trình cải cách đã
đưa Xiêm tiến một bước đi đầu tiên vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
23
Tuy nhiên, quá trình cải cách chỉ là những cải cách từ trên xuống do giai cấp phong kiến quý tộc tiến
hành. Vì vậy, mặc dù mang tính chất tư sản nhưng hết sức không triệt để, vẫn chỉ là những thay đổi hạn chế
trong trật tự và giới hạn của chế độ phong kiến.
2. Trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, với sự kiện cách mạng 1932, Xiêm nổi lên là một
hiện tượng khá độc đáo, không chỉ trong bản thân lịch sử nước Xiêm mà cả ở khu vực.
Cách mạng 1932 bùng nổ là sự kết hợp tác động của các yếu tố nội sinh và ngoại sinh, yếu tố chủ quan
và khách quan. Nguyên nhân chủ quan của cách mạng 1932 là tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về kinh
tế, chính trị, xã hội Xiêm trong những năm 20 thế kỉ XX, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
1929 – 1933. Về nguyên nhân khách quan, cùng với những nguy cơ và thách thức, có thể thấy, bối cảnh thế
giới và khu vực Đông Nam Á đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho Xiêm có thể học hỏi và tiếp thu những
mô hình và những bài học kinh nghiệm, áp lực xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây như một “lực
đẩy” buộc Xiêm phải tiến hành đổi mới và đổi mới hơn nữa để theo kịp với thời đại.
3. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân, chủ yếu gồm các trí thức tiểu tư sản chịu ảnh hưởng của tư
tưởng dân chủ phương Tây và các quan chức quân sự. Cách mạng 1932 diễn biến qua ba giai đoạn chủ yếu:
Giai đoạn 1: Cách mạng bùng nổ và sự sụp đổ của chế độ quân chủ chuyên chế.
Giai đoạn 2: Sự thiết lập nền quân chủ lập hiến và cuộc đấu tranh bảo vệ chế độ quân chủ chuyên chế.
Giai đoạn 3: Cuộc đấu tranh vì quyền lực và quá trình lên cầm quyền của phái quân sự - giai đoạn 1933
– 1938.
Kết quả cuối cùng quan trọng nhất của cuộc cách mạng là sự sụp đổ của chế độ quân chủ chuyên chế, sự
ra đời của chế độ quân chủ lập hiến và đặc biệt một hệ quả từ tiến trình cách mạng mà Luận án muốn nhấn
24
mạnh là sự thắng thế và lên nắm quyền của giới quân sự trong cách mạng – nguyên nhân gây nên những bất
ổn kéo dài trong lịch sử Thái cho đến tận ngày nay.
4. Nghiên cứu về cách mạng 1932 ở Xiêm, chúng ta thấy tính chất của nó là một cuộc cách mạng tư sản,
cơ bản hoàn thành những nhiệm vụ dân tộc và dân chủ. Tuy nhiên, cách mạng 1932 vẫn là một cuộc cách
mạng tư sản không triệt để, chưa giải quyết triệt để vấn đề ruộng đất cho nông dân, chưa rũ bỏ hoàn toàn
những tàn dư của chế độ phong kiến. Những hạn chế này sẽ từng bước được khắc phục trong những giai
đoạn lịch sử tiếp theo của Xiêm.
Khác với các cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu trong những thế kỉ trước, cách mạng 1932 ở Xiêm có
những đặc điểm riêng biệt, đó là:
- Lãnh đạo cách mạng không phải là giai cấp tư sản mà là lực lượng cấp tiến gồm các trí thức quân sự
dân sự và các quan chức cao cấp trong quân đội.
- Cách mạng 1932 không có sự tham gia của quần chúng nhân dân và là cuộc cách mạng không bạo lực,
không đổ máu.
- Cách mạng 1932 và sự ra đời nền quân chủ lập hiến gắn liền với vai trò của giới quân sự.
- Cách mạng 1932 gắn liền và bị chi phối bởi đặc tính dân tộc Thái, đó là: Tính thực dụng, uyển chuyển,
dễ thích nghi; Sự tôn trọng và duy trì tinh thần Phật giáo của dân tộc, vai trò của nhà vua vẫn được coi trọng
Những đặc điểm riêng biệt trên đây đã làm cho Thái Lan với cuộc cách mạng 1932 trở thành một hiện
tượng độc đáo không chỉ đối với bản thân lịch sử Xiêm mà còn đối với cả khu vực Đông Nam Á.
5. Cách mạng 1932 có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử Thái Lan. Ý nghĩa được đánh giá là quan trọng
nhất đó là lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại lâu đời ở Xiêm, thành lập mô hình nhà nước quân chủ
25