HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN TH VN HNG
ĐảNG Bộ TỉNH LàO CAI LãNH ĐạO ĐàO TạO
NGUồN NHÂN LựC Từ NĂM 2001 ĐếN NĂM 2010
Chuyờn nganh : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Ma sụ : 62 22 56 01
TểM TT LUN N TIN S LCH S
H NI - 2014
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất để cấu thành lực lượng sản
xuất xã hội, quyết định sức mạnh và động lực thúc đẩy phát triển của mỗi
quốc gia. Lịch sử cho thấy không một nước nào CNH thành công mà không
chú trọng phát triển nguồn nhân lực. Trong giai đoạn hiện nay, khi nhân loại
đã bước vào nền kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ ngày càng xâm nhập
sâu và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nguồn nhân lực càng trở nên
quan trọng. Xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển là
một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của mỗi quốc gia, dân tộc.
Việt Nam tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện tiềm lực vật chất còn
hạn chế, tích luỹ từ nội bộ kinh tế còn thấp, tài nguyên khoáng sản không
nhiều… Để tiếp cận với trình độ khoa học, kỹ thuật đang tiến nhanh như vũ
bão của thế giới, từng bước rút ngắn và đuổi kịp với sự phát triển của các
nước, Đảng ta xác định phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững. Để tiến hành thành công nhiệm vụ trên, giáo dục và đào tạo giữ vai trò
hết sức quan trọng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001
đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những, động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững”, "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát
triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước". Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm
2006, Đảng đặt mục tiêu: "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức". Để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, một trong những việc quan trọng cần thực hiện đó là
vấn đề về đào tạo nguồn nhân lực.
1
Về vấn đề này, Nghị quyết 26/NQ-CP (5/2010) của Chính phủ nhận
định: "Công tác đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội đã góp phần tạo
chuyển biến quan trọng trong nhận thức từ nhà trường, doanh nghiệp và xã
hội. Tuy nhiên, việc đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội cũng còn nhiều hạn
chế, đặc biệt chưa tạo được chuyển biến về chất lượng lao động qua đào tạo
trên diện rộng".
Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH: "Các bộ, ngành, địa phương cần triển khai thực hiện quy
hoạch nguồn nhân lực cho phát triển ngành, địa phương mình giai đoạn
2011-2015. Chính phủ yêu cầu phải đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội,
phát triển nguồn nhân lực thành lợi thế quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc
tế giai đoạn 2011-2015".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 2011 chỉ ra một trong những đột phá chiến lược là "Phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào đổi mới
căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ". Đồng thời Đại hội
cũng khẳng định: "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn
hóa đầu đàn; đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề… Xây dựng và thực
hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các ngành, lĩnh vực mũi
nhọn, đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt đối với người
bị thu hồi đất; nâng cao tỉ lệ người lao động qua đào tạo".
Là một tỉnh miền núi với nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và
vị trí địa lý thuận lợi, Lào Cai giữ vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của vùng Tây Bắc. Nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh sẵn
có, những năm qua, Lào Cai đang phấn đấu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, dịch vụ, đẩy mạnh đầu tư,
phát triển công nghiệp, giao thông, du lịch và kinh tế cửa khẩu… Để tạo bước
2
chuyển biến mang tính đột phá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đưa
Lào Cai sớm ra khỏi tỉnh nghèo, Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai
khóa XII (12/2000) chỉ rõ: "Yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực tương xứng, nghĩa là cần phải có
con người - một đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn giỏi, có phẩm chất
đạo đức tốt, vì mục đích lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân, trên tất
cả mọi lĩnh vực, như quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, khoa học kỹ
thuật, xây dựng Đảng, đoàn thể và đội ngũ công nhân có tay nghề cao… phát
triển nguồn nhân lực đồng bộ với chất lượng cao".
Thực hiện chủ trương của Đại hội, các cấp bộ Đảng, chính quyền tỉnh
Lào Cai đã tập trung đánh giá, quy hoạch, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực. Trong đó chú trọng đào tạo cán bộ các cấp trong hệ
thống chính trị và đào tạo đội ngũ kỹ sư, các chuyên gia, nhà quản lý doanh
nghiệp giỏi của tỉnh để từng bước tiếp cận tham gia quản lý, điều hành hệ
thống chính trị cũng như các cơ sở kinh tế; đào tạo nghề cho lực lượng lao
động trẻ nhằm từng bước đáp ứng đủ nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế, xã
hội của tỉnh. Cùng với đó, tỉnh đã tăng cường hợp tác, liên kết để tranh thủ
nguồn lực từ bên ngoài, từ các dự án quốc tế, các tổ chức phi chính phủ… phục
vụ cho công tác giáo dục và đào tạo nguồn lao động ở địa phương. Nhờ những
nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương trong tỉnh, đội ngũ cán bộ quản
lý, khoa học- kỹ thuật Lào Cai cũng như lực lượng lao động của tỉnh đã từng
bước đáp ứng được nhu cầu cơ bản trong giai đoạn hiện tại, góp phần quan
trọng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, nguồn nhân
lực của Lào Cai vẫn còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển bền vững. Đặc biệt thiếu các cán bộ có trình độ chuyên
môn cao và các chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực, cơ cấu cán bộ giữa các
ngành cũng chưa phù hợp, cán bộ khoa học kỹ thuật ở cơ sở còn ít, tỷ lệ lao
động chưa qua đào tạo còn cao, thiếu công nhân lành nghề.
Bởi vậy, nghiên cứu quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển
khai công tác đào tạo nguồn nhân lực của các cấp bộ Đảng và chính
3
quyền tỉnh Lào Cai trong thập niên đầu thế kỉ XXI, là giai đoạn Lào Cai
đã đạt được những kết quả quan trọng về xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực sau 10 năm tái lập tỉnh, đang đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
theo tinh thần của Đại hội khóa XII và XIII của Đảng bộ tỉnh nhằm sớm
thoát khỏi tỉnh nghèo. Qua đó, khẳng định những thành tựu, chỉ ra những
hạn chế nhằm tìm ra nguyên nhân thành công cũng như chưa thành công,
tổng kết kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn trong giai đoạn tiếp theo là rất
cần thiết
. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn vấn đề: "Đảng bộ tỉnh Lào Cai
lãnh đạo đào tạo nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2010", làm đề
tài luận án tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Lào Cai
thực hiện đường lối của Đảng về đào tạo nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh;
đánh giá những thành quả đạt được, những hạn chế của công tác này trong
giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010, từ đó rút ra những kinh nghiệm chủ
yếu cho giai đoạn tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ
-
Phân tích hệ thống đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
về đào
tạo nguồn nhân lực.
-
Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Lào Cai tác động đến
quá trình thực hiện đào tạo nguồn nhân lực trên địa bàn.
- Trình bày chủ trương và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đào tạo
nguồn nhân lực của Đảng bộ tỉnh Lào Cai trong 10 năm (2001-2010).
- Nêu rõ những thành tựu, những hạn chế và nguyên nhân.
- Nhận xét quá trình lãnh đạo thực hiện đào tạo nguồn nhân lực của
Đảng bộ tỉnh Lào Cai từ đó đúc rút một số kinh nghiệm có thể vận dụng để
thực hiện tốt hơn công tác này trong thời gian tới.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
- Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đối với đào tạo
nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh
- Thực tiễn công tác đào tạo nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Lào Cai
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung:
Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương của
Đảng bộ tỉnh
Lào Cai,
quá trình chỉ đạo thực hiện
đối với đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh
(tập trung chủ yếu vào: giáo dục phổ thông- yếu tố tạo nguồn cho đào tạo nhân
lực; đào tạo cán bộ, công chức cho HTCT; đào tạo nghề cho người lao động).
- Không gian: Địa bàn tỉnh Lào Cai.
- Thời gian: từ năm 2001 đến năm 2010
,
qua 02 nhiệm kỳ Đại hội của
Đảng bộ tỉnh Lào Cai khóa XII và khóa XIII.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò
con người, về nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là quan
điểm của Đảng về đào tạo nguồn nhân lực.
4.2. Nguồn tư liệu
Tư liệu để hình thành luận án chủ yếu dựa vào hệ thống các văn kiện,
nghị quyết của BCH Trung ương Đảng, các văn bản của Nhà nước, các Nghị
quyết, Chỉ thị, báo cáo của Tỉnh ủy, các Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh
Lào Cai; các đề án, các báo cáo tổng kết hàng năm, tổng kết giai đoạn, quá
trình đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh Lào Cai; các công trình khoa học liên
quan đến phát triển, đào tạo nguồn nhân lực; kết quả điều tra thực tế; các bài
báo, tạp chí liên quan được đăng tải trên báo Trung ương, địa phương, trên các
trang web của các cơ quan, các tổ chức…
4.3.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic.
Ngoài ra, nghiên cứu sinh sử dụng một số phương pháp khác như: thống kê, so
5
sánh, tổng hợp, khảo sát, điều tra xã hội học để làm nổi bật thực tiễn lãnh
đạo, chỉ đạo đào tạo nguồn nhân lực của Đảng bộ tỉnh Lào Cai những năm từ
2001 đến năm 2010.
5. Những đóng góp của luận án
- Bước đầu tổng kết quá trình Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo đào tạo
nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2010.
- Làm rõ những yếu tố tự nhiên, dân cư, xã hội tác động đến quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo đào tạo nguồn nhân lực của Đảng bộ tỉnh Lào Cai.
- Phân tích, làm rõ vai trò của các cấp bộ Đảng tỉnh Lào Cai trong lãnh
đạo, chỉ đạo đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh.
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ đóng góp một phần vào công tác
tổng kết quá trình lãnh đạo đào tạo nguồn nhân lực của Đảng bộ tỉnh Lào Cai
nói riêng; là cơ sở khoa học để các cấp bộ Đảng ở tỉnh Lào Cai, cũng như
Đảng và Nhà nước có những điều chỉnh, bổ sung chính sách đối với công tác
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Đồng thời
góp phần làm rõ chủ trương đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực của Đảng trong thời kỳ CNH, HĐH; Khẳng định tính đúng đắn và hiệu
quả qua thực tiễn tại địa bàn đặc thù như tỉnh Lào Cai. Qua đó, làm rõ hơn về
vai trò cụ thể hóa đường lối của phát triển nguồn nhân lực của Đảng của Đảng
bộ tỉnh Lào Cai; góp phần vào việc tổng kết một số kinh nghiệm lý luận - thực
tiễn 30 năm đổi mới trên vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực ở cấp
độ của một tỉnh.
Luận án cung cấp thêm luận cứ khoa học và gợi mở một số suy nghĩ có
thể vận dụng vào thực tiễn đào tạo nguồn nhân lực ở Lào Cai và các tỉnh miền
núi có đông đồng bào dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận án được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
6
TỔNG QUAN
1. Tình hình nghiên cứu của đề tài
NNL và đào tạo NNL là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà quản lý, nhà
khoa học, có nhiều công trình tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau đã được
xuất bản, nghiệm thu, chúng tôi chia thành các nhóm như sau:
1.1. Những công trình nghiên cứu chung về nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực
Đây là những công trình gồm sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ và các
bài trên tạp chí,
tập trung cung cấp hệ thống lý luận về NNL, những quan
điểm cơ bản của Đảng về công tác đào tạo NNL; vai trò của NNL đối với
tiến trình CNH,HĐH đất nước; đề xuất những giải pháp có tầm vĩ mô cho
công tác này.
1.2. Những công trình về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ở khu
vực miền núi, dân tộc thiểu số
Vấn đề này thường tập trung ở các Đề tài khoa học đã được xuất bản
thành sách và một số bài trên các tạp chí,…
Những công trình này đã cung
cấp thực trạng, kinh nghiệm cũng như giải pháp cho công tác đào tạo, phát
triển các thành phần của NNL ở cấp độ vùng như Tây Nguyên, miền núi
phía Bắc hoặc ở địa bàn từng tỉnh,
1.3. Những công trình liên quan đến vấn đề nhân lực trên địa bàn
tỉnh Lào Cai
Đây là vấn đề chưa có những công trình nghiên cứu chuyên biệt,
nhưng cũng đã có một số luận án tiến sĩ, sách và bài viết có đề cập đến thực
trạng, vai trò cũng như giải pháp phát triển NNL trên địa bàn.
2. Những vấn đề chưa được nghiên cứu đầy đủ
Ở nhiều góc độ khác nhau, các công trình nghiên cứu kể trên đã cung
cấp hệ thống lý luận, chủ trương của Đảng về đào tạo NNL; thực trạng, giải
pháp cũng như kinh nghiệm đào tạo NNL của các địa phương trong cả nước.
Tuy nhiên, trong số những công trình kể trên chưa có một công trình nào
mang đúng nội hàm như Luận án chúng tôi nghiên cứu.
7
3. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết
Hệ thống hóa quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
đào tạo NNL trong giai đoạn 2001 - 2010; Phân tích quá trình Đảng bộ tỉnh
Lào Cai vận dụng sáng tạo chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác đào
tạo NNL; Làm rõ những thành tựu, chỉ ra những hạn chế về công tác lãnh
đạo đào tạo NNL của các cấp bộ Đảng, chính quyền tỉnh Lào Cai; Đúc kết
một số kinh nghiệm trong chỉ đạo triển khai thực hiện công tác đào tạo NNL
của các cấp bộ Đảng, chính quyền tỉnh Lào Cai.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI (2001-2005)
1.1. KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC Ở TỈNH LÀO CAI
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
NNL là toàn bộ lao động của một quốc gia, dân tộc hay một tổ chức
được đánh giá trên hai mặt chủ yếu là số lượng và chất lượng. Đây là nguồn
lực đặc biệt bởi các nguồn lực khác có thể
biến mất, duy chỉ có nguồn lực con
người là tồn tại bền vững với thời gian và có thể tái tạo liên tục. Để phát triển
đất nước không có lựa chọn nào khác, hoặc là đào tạo NNL đáp ứng yêu cầu
phát triển, hoặc phải chịu tụt hậu so với các nước khác.
1.1.2. Đặc điểm tự nhiên, xã hội tỉnh Lào Cai tác động đến đào tạo
nguồn nhân lực
* Đặc điểm tự nhiên
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam. có diện
tích tự nhiên 6357,1 km
2
, có 203 km đường biên với Trung Quốc, có cửa khẩu
quốc gia Mường Khương và cửa khẩu quốc tế Lào Cai, là cửa ngõ thông
thương với miền Tây nam Trung Hoa. Vị trí địa lý đã tạo cho Lào Cai thành
địa bàn quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng của
8
đất nước. Hiện tại, tỉnh Lào Cai có 09 đơn vị hành chính, gồm thành phố Lào
Cai và 8 huyện, với 164 xã, phường, thị trấn. Trong đó, có đến 66% xã thuộc
diện khó khăn. Địa hình chủ yếu là núi cao hiểm trở, đất nông nghiệp chỉ
chiếm 12% diện tích tự nhiên của tỉnh. Đây là một lực cản cho quá trình phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung cũng như phát triển NNL nói riêng. Tuy
vậy, đất đai ở Lào Cai đa dạng cộng với khí hậu đặc trưng của vùng núi cao
nên thuận lợi phát triển các cây có giá trị cao. Lào Cai còn có nguồn khoáng
sản, tài nguyên rừng phong phú và trữ lượng cao; tiềm năng thuỷ điện đạt gần
1.000 MW… Đó là những lợi thế để Lào Cai phát triển kinh tế.
* Đặc điểm xã hội
Dân số toàn tỉnh là 615.620 người, số người trong độ tuổi lao
động chiếm 52%, với 320.122 người. Dân số Lào Cai là sự hợp thành của 25
dân tộc, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 64,09%. Các dân tộc anh em sinh
sống trên địa bàn đã tạo nên bản sắc văn hóa đa dạng, có nhiều di sản quý giá,
những kiến thức kinh nghiệm trong sinh hoạt, lao động, sản xuất,…được tích
lũy qua nhiều thế hệ là vốn quý, nếu biết phát huy sẽ góp phần vào phát triển
kinh tế xã hội hiện tại. Tuy vậy, trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Lào
Cai tình trạng đói nghèo và dân trí hạn chế vẫn còn phổ biến, bên cạnh đó yếu
tố tâm lý, tập quán sinh hoạt của cộng đồng đã ảnh hưởng đến công tác đào
tạo và phát triển NNL.
Để khai thác tiềm năng, lợi thế đưa Lào Cai thoát khỏi tỉnh nghèo cần có
đột phá về cơ chế, chính sách, đặc biệt là tạo nên nguồn nhân lực
1.1.3. Đào tạo nguồn nhân lực trong những năm đầu tái lập tỉnh (1991
- 2000) đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ sở cho phát triển kinh tế - xã hội
Sau 10 năm tái lập tỉnh, dù đã đạt được những thành tựu quan trong
nhưng nhưng Lào Cai vẫn là một trong 6 tỉnh nghèo nhất nước. Chất lượng
giáo dục, y tế còn thấp, khoa học kỹ thuật kém phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo còn
cao. NNL khá thấp so với mặt bằng chung cả nước và đang mất cân đối đào
tạo giữa các ngành. Để đưa Lào Cai phát triển, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XI xác định để đẩy nhanh phát triển cần đặc biệt quan tâm phát triển nguồn
lực con người, đẩy mạnh công tác đào tạo NNL.
9
1.2. ĐẢNG BỘ LÀO CAI VẬN DỤNG CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG
VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH (2001 - 2005)
1.2.1. Chủ trương của
Đảng về đào tạo nguồn nhân lực
Xuất phát từ nhận thức khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác -
Lênin: Dù ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng
luôn giữ vai trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của xã
hội. Từ khi ra đời, để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
luôn nhận thức rõ vai trò quan trọng của vấn đề chiến lược này. Ở mỗi thời kỳ
cách mạng khác nhau, quan điểm của Đảng về con người được bổ sung, hoàn
thiện cho phù hợp với yêu cầu phát huy nhân tố con người trong điều kiện
mới. Trong thời kỳ CNH, HĐH, Đảng nhấn mạnh: "Nguồn lực con người là
quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối với nước ta khi nguồn lực tài
chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Nguồn lực đó là người lao động có
trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa
học công nghệ (KHCN) hiện đại". Để thực hiện được mục tiêu trên Đảng yêu
cầu đẩy mạnh giáo dục đào tạo nhằm phát triển NNL đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của CNH, HĐH.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX "Để đáp ứng yêu cầu về con người
và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời
kỳ CNH, HĐH cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo"
1.2.2. Chủ trương đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng bộ tỉnh Lào Cai
Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XII (12/2000) xác định "Chăm lo
công tác phát triển và sử dụng NNL, gồm đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước
(QLNN), quản lý kinh tế, đội ngũ điều hành sản xuất kinh doanh, ứng dụng và
chuyển giao công nghệ, phát triển khoa học kỹ thuật và đào tạo công nhân kỹ
thuật (CNKT) lành nghề, đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH". Ngày
03/12/2001, Tỉnh ủy Lào Cai ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TU Phát triển
NNL giai đoạn 2001-2005. Trong đó, nhấn mạnh "Tập trung đào tạo, đào tạo
lại về trình độ văn hóa, chính trị, chuyên môn, QLNN và tin học cho đội ngũ
cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị (HTCT) từ tỉnh đến huyện; đào tạo
cán bộ khoa học, kỹ thuật, công nhân kinh tế phục vụ theo hướng xã hội hóa".
10
Đánh giá sát thực tiễn, đề ra quan điểm và những giải pháp cụ thể, Nghị quyết
08-NQ/TU là bước đột phá trong lãnh đạo công tác đào tạo, phát triển NNL
của tỉnh Lào Cai; cơ sở quan trọng để thực hiện thành công nhiệm vụ phát
triển NNL mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào
Cai lần thứ XII đề ra.
1.3. ĐẢNG BỘ LÀO CAI CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC (2001 - 2005)
1.3.1. Đẩy mạnh giáo dục phổ thông, tạo tiền đề quan trọng cho đào
tạo nguồn nhân lực
Nâng cao trình độ dân trí, tạo tiền đề và nền tảng cho nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, Đảng bộ Lào Cai đã chú trọng phát triển hệ thống
GDPT, theo tinh thần Nghị quyết số 21/NQ-TU về Phát triển Giáo dục - Đào
tạo giai đoạn 2001-2005 và đến 2010, của Tỉnh ủy. Sau năm năm, GDPT Lào
Cai đã đạt được những tiến bộ quan trọng: Các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
tổ chức chính trị xã hội đã nhận thức sâu sắc hơn về yêu cầu phát triển giáo
dục, tham gia tích cực và ngày càng có hiệu quả; nhân dân hiểu và chăm lo
nhiều hơn đến quyền lợi và nghĩa vụ học tập của con em; quy mô giáo dục, hệ
thống trường lớp, học sinh phát triển mạnh, chất lượng giáo dục ổn định, từng
bước được nâng lên; đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý phát triển cả về số
lượng và chất lượng; trường, lớp được đầu tư, cơ bản đáp ứng điều kiện cho
dạy và học, được quản lý, sử dụng hiệu quả; công tác xã hội hóa giáo dục có
chuyển biến mạnh. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục phổ
thông cũng còn có những hạn chế nhất định, đó chính là vấn đề đặt ra cho
Đảng bộ tỉnh Lào Cai tiếp tục chỉ đạo trong thời gian tới để khắc phục.
1.3.2. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng số lượng, nâng cao chất
lượng cho đội ngũ cán bộ công chức trong hệ thống chính trị
* Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu phát triển
toàn diện của xã, phường, thị trấn
Để xây dựng đội ngũ cán bộ cho HTCT cơ sở, Tỉnh ủy Lào Cai chỉ rõ:
Nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ chủ chốt cơ sở đương chức và dự
nguồn. Đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa, LLCT, kiến thức
QLNN, quản lý kinh tế, lãnh đạo, quản lý các tổ chức đoàn thể trong HTCT,
11
chuyên môn nghiệp vụ và trang bị kỹ năng công tác cho từng chức danh…
Ngày 18/2/2002 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 60/QĐ-UB phê duyệt
Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cơ sở giai đoạn 2001 - 2005 với
phương châm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở đảm bảo cho hiện tại,
kế cận và dự nguồn kế cận. Trên cơ sở xác định mục tiêu, đề án phân kỳ đào
tạo, bồi dưỡng và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan, đơn vị chức
năng có liên quan trên địa bàn cùng tham gia. Đến cuối năm 2005, các mục
tiêu, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cơ sở giai đoạn 2001-2005
cơ bản đã đạt được đưa Lào Cai trở thành một trong những địa phương sớm
đạt chuẩn về cán bộ cấp xã, phường, thị trấn.
* Đẩy mạnh đào tạo đáp ứng yêu cầu tăng cường nhân lực cho HTCT
cấp huyện, tỉnh.
Cùng với tập trung bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ
trong HTCT cơ sở, Lào Cai đã đẩy mạnh công tác đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng và đáp ứng đủ số lượng cho HTCT cấp huyện, tỉnh. Ngày 4/ 12/ 2001,
Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết định 169-QĐ/TU về Đánh giá, bổ
nhiệm lại toàn bộ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ phó trưởng phòng cấp
huyện trở lên. Đây là một đợt rà soát lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, qua
đó xác định mục tiêu và kế hoạch đào tạo cũng như biện pháp hỗ trợ. Bằng
nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng đến năm 2005 đội ngũ cán bộ, công chức
trong HTCT cấp huyện, tỉnh Lào Cai đã được nâng cao. Song song với đào
tạo, bồi dưỡng về LLCT, chuyên môn, Lào Cai chú trọng nâng cao trình độ
Tiếng Trung cho cán bộ, công chức nhằm đáp ứng nhu cầu hợp tác giữa Lào
Cai và Vân Nam (Trung Quốc). Bên cạnh đó, để đảm bảo tỷ lệ cán bộ người
dân tộc thiểu số, từ năm 2001 đến năm 2005, đã có 1.296 con em dân tộc thiểu
số được tuyển dụng vào HTCT, chiếm tỷ lệ 23,51% trong số người được
tuyển dụng. Ngoài ra, công tác luân chuyển cán bộ được thực hiện theo đúng
kế hoạch đã góp phần nâng cao năng lực thực tiễn cho cán bộ cấp huyện tỉnh
và tạo điều kiện bồi dưỡng cho cán bộ cấp cơ sở.
Đến cuối 2005, năng lực, trình độ, kỹ năng quản lý điều hành của cán
bộ trong HTCT Lào Cai đã được nâng lên, từng bước đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ đặt ra. Thành công đó đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành của HTCT tỉnh Lào Cai.
12
* Đào tạo cán bộ kỹ thuật chuyên sâu, góp phần nâng cao đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật
Khắc phục tình trạng thiếu cán bộ kỹ thuật khoa học kỹ thuật, nâng
cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ công chức, Lào Cai xác định số lượng
và ngành nghề đào tạo; phối hợp với các trường đại học mở lớp tại chức tại
tỉnh, gửi cán bộ đi học tại các trường đại học và các cơ sở đào tạo. Đồng
thời có chính sách hỗ trợ cho người đi học. Do vậy, chất lượng của cán bộ
trong HTCT cấp huyện, tỉnh được nâng cao, góp phần tăng cường số lượng
và chất lượng cho đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của Lào Cai, đáp ứng
một phần về quản lý kinh tế - xã hội. Tuy vậy, vẫn thiếu hụt đội ngũ cán bộ
có trình độ chuyên môn cao và chuyên gia đầu ngành trên các lĩnh vực; cơ
cấu cán bộ giữa các ngành cũng chưa phù hợp, cán bộ khoa học kỹ thuật ở
cơ sở còn thiếu; đội ngũ cán bộ khoa học chưa đóng vai trò chủ thể trong
nghiên cứu khoa học của tỉnh; số lượng các đơn vị làm nhiệm vụ nghiên
cứu, triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ chưa nhiều. Năng lực
triển khai các đề tài, dự án lớn còn hạn chế. Hệ thống các trạm, trại thực
nghiệm, phòng thí nghiệm còn hạn chế, chủ yếu phục vụ cho công tác
chuyên môn của từng ngành.
Tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng cán bộ công chức trong
HTCT từ cơ sở đến cấp huyện, tỉnh, sau 5 năm thực hiện chủ trương phát triển
nguồn nhân lực theo tinh thần Nghị quyết 08/TU, đội ngũ cán bộ của HTCT
Lào Cai cơ bản đáp ứng được số lượng và chất lượng, góp phần quan trọng
trong thực hiện chức trách, phát huy hiệu quả trong công tác quản lý, điều
hành. Bên cạnh đó, thành công của công tác này đã tạo nguồn quan trọng cho
công tác đào tạo trong những năm tiếp theo.
1.3.3. Đào tạo công nhân kỹ thuật, nâng cao kỹ năng cho người lao
động gắn với giải quyết việc làm
Đào tạo tay nghề, giải quyết việc làm cho người lao động là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của công tác nâng cao, phát triển nguồn nhân lực.
Thực hiện chủ trương Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XII, ngày 18/2/2002 UBND
tỉnh đã ban hành Quyết định số 56/QĐ-UB, phê duyệt đề án Giải quyết việc
làm cho người lao động giai đoạn 2001 - 2005. Căn cứ vào mục tiêu đặt ra,
UBND tỉnh Lào Cai đã phân chỉ tiêu đào tạo và ngân sách theo từng năm.
13
Đề án xác định nhiệm vụ trọng tâm là tăng cường đào tạo nghề và
CNKT nhằm nâng cao chất lượng và năng suất lao động. Để nâng cao năng
lực đào tạo, UBND tỉnh đã thực hiện một số biện pháp: Nâng cấp các cơ sở
đào tạo trong tỉnh về cả cơ sở vật chất và biên chế… Đồng thời, Lào Cai xúc
tiến liên kết với các trường đại học trong và ngoài nước, các trường và trung
tâm đào tạo nghề trong nước để cử cán bộ hoặc con em các dân tộc trong tỉnh
đi học các khóa ngắn cũng như dài hạn.
Nhờ triển khai đồng bộ các biện pháp nên trong 5 năm đã có 36.000 lao
động được đào tạo và bồi dưỡng nghề, trong đó có 8.456 người được đào tạo
dài hạn, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 8,09% năm
2001 lên 15,5% năm 2005, vượt so với kế hoạch đề ra 1,16%. Về cơ bản, lực
lượng CNKT đã đáp ứng cả về số lượng và chất lượng cho các ngành kinh tế,
các doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế trên địa bàn theo đúng
mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết đã đề ra. Cùng với đó, công tác tập huấn
kỹ thuật khuyến nông - lâm - ngư nghiệp được triển khai sâu rộng. Ngoài ra,
thông qua Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ,… Lào Cai còn đẩy mạnh đào
tạo nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, mây tre đan, chế biến dược liệu, nông
sản… với hàng nghìn lượt người tham gia. Thành công trong đào tạo nghề gắn
với giải quyết việc làm cho người lao động đã góp phần quan trọng trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo an sinh trên địa bàn tỉnh.
*
* *
Trên quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục, đào tạo, phát triển con người, Đảng bộ Lào Cai đã quán triệt và cụ thể
hóa quan điểm coi trọng giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH của Đảng vào thực tiễn của địa phương
nhằm xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng được số lượng và chất lượng để khai
thác, phát huy tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, góp phần quan trọng thực hiện
thành công mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII đã đề ra.
14
Chương 2
ĐẨY MẠNH VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC (2006-2010)
2.1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI VỀ ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.1.1. Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thực hiện
thành công mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đề ra mục tiêu “Phát triển
NNL, bảo đảm đến năm 2010 có NNL với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao”.
Để đạt mục tiêu trên, Đại hội xác định “Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề
nghiệp, tăng nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu
công nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho xuất khẩu lao động. Mở rộng
mạng lưới cơ sở dạy nghề, phát triển trung tâm dạy nghề quận huyện. Tạo
chuyển biến căn bản về chất lượng dạy nghề, tiếp cận với trình độ tiên tiến của
khu vực và thế giới. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích cá hình thức dạy nghề
đa dạng, linh hoạt…”. Cụ thể hóa chủ trương của Đại hội, tại các Hội nghị
BCH của nhiệm kỳ đã thông qua các Nghị quyết: Về tiếp tục xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đó là những nghị quyết chuyên đề về cho
từng đối tượng, là sự cụ thể hóa chủ trương về đào tạo, phát triển NNL của
Đảng đối với những thành phần quan trọng của NNL, phù hợp với xu thế thời
đại và thực tiễn của đất nước
, nhằm hướng đến NNL chất lượng cao đáp ứng
được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, khắc phục tình trạng.
2.1.2. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, sớm đưa Lào Cai thoát
khỏi tỉnh nghèo
Đại hội lần thứ XIII, Đảng bộ tỉnh Lào Cai thẳng thắn nhìn nhận: dù đã
đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng về cơ bản Lào Cai vẫn là tỉnh
nghèo. Một trong những nguyên nhân là do
"NNL có trình độ, tay nghề thấp
15
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, đặc biệt chưa đáp ứng được yêu cầu
chuyển dịch của cơ cấu kinh tế trong giai đoạn hiện nay". Đảng bộ
Lào Cai
xác định phát triển NNL là một trong 7 chương trình trọng tâm của nhiệm kỳ
Khóa XII. Công tác đào tạo NNL được thể hiện trong ba đề án: Đào tạo nghề
cho người lao động (2006 - 2010); Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã,
phường, thị trấn, thôn, bản, giai đoạn 2006 - 2010; Đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lý, cán bộ chuyên môn và cán bộ kỹ thuật cấp tỉnh, huyện, thành phố,
giai đoạn 2006-2010, thực hiện thành công các đề án trên sẽ tạo được NNL
đáp ứng được yêu cầu phát triển, khai thác được lợi thế, sớm đưa Lào Cai
thoát khỏi tỉnh nghèo. Chủ trương trên được quán triệt sâu rộng, huy động
được cả HTCT, cac tầng lớp dân cư tham gia vào công tác đào tạo NNL.
2.2. CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÁC ĐỀ ÁN ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN
LỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN
2.2.1. Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, tạo nguồn quan
trọng cho đào tạo nguồn nhân lực
Trong 5 năm 2006 - 2010, Đảng bộ Lào Cai chỉ đạo thực hiện thành
công đề án Phát triển giáo dục Lào Cai giai đoạn 2006- 2010 (Đề án 14) tạo
nên bước phát triển toàn diện cả về quy mô, số lượng, chất lượng cho ngành
giáo dục của tỉnh. Mạng lưới trường lớp tiếp tục phát triển phù hợp với phân
bố dân cư và địa hình, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân và thực
hiện nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực cho tỉnh, Đội ngũ cán bộ, giáo viên
đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục, vững vàng về tư
tưởng, ổn định về số lượng. Phong trào xã hội hóa giáo dục có những chuyển
biến tích cực. Tháng 12/ 2007, Lào Cai đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS,
hoàn thành mục tiêu trước 3 năm so với cả nước. Chất lượng và hiệu quả giáo
dục có những chuyển biến toàn diện, nhất là ở vùng cao, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Số lượng học sinh Lào Cai trúng tuyển vào các trường đại học,
cao đẳng liên tục tăng và ổn định ở mức cao so với các tỉnh trong khu vực.
Thành công của ngành giáo dục trong các năm từ 2006 - 2010 đã góp phần
nâng cao dân trí, tạo nguồn đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài của
tỉnh Lào Cai.
16
2.2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị,
góp phần đào tạo nguồn nhân lực cao
Thực hiện chủ trương phát triển nguồn nhân lực của Đại hội Đảng bộ tỉnh
lần thứ XIII, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh các cơ quan, ban ngành
chức năng đã xây dựng Đề án "Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường,
thị trấn, thôn, bản" (Đề án 28) và Đề án “Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán
bộ chuyên môn, cán bộ kỹ thuật cấp tỉnh, huyện, thành phố”, (Đề án 29).
Để phân rõ trách nhiệm, đảm bảo sự phối hợp hiệu quả trong quá trình
thực hiện, Tỉnh ủy giao cho Ban Tổ chức chủ trì phối hợp các sở, ngành có
liên quan và các cơ sở đào tạo trên địa bàn.
* Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ, công
chức cơ sở
Sau 5 năm thực hiện đề án Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn, thôn bản, đến năm 2010, đã đạt và vượt những mục
tiêu đề án đặt ra, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ
trong HTCT cơ sở, đáp ứng tốt hơn vai trò lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước ở
cấp xã, phường, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh chính trị của tỉnh. khẳng định
sự nỗ lực rất lớn của Đảng bộ, chính quyền cũng như cố gắng của đội ngũ cán bộ
Lào Cai trong việc học tập nâng cao trình độ, góp phần nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho HTCT cơ sở của tỉnh. Tuy vậy, thực hiện đề án cũng còn có
hạn chế như chỉ tiêu đào tạo chuyên môn cho cán bộ cơ sở chưa hoàn thành.
* Đào tạo đội ngũ cán bộ trong HTCT cấp tỉnh, huyện góp phần xây
dựng nguồn nhân lực cao
Tỉnh ủy Lào Cai chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai Đề án 29 với mục
tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn và cán bộ kỹ thuật cấp
tỉnh, huyện, thành phố để đáp ứng cho nhu cầu phát triển và tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao. Ngoài những chính sách hỗ trợ đào tạo và thu hút NNL
chất lượng cao làm việc tại tỉnh, Lào Cai còn tăng cường hợp tác với các
nước, các tổ chức quốc tế để mở rộng các loại hình đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực cho đội ngũ cán bộ của tỉnh. Sau 5 năm thực hiện Đề án 29 đã
đạt 112% mục tiêu chung, có 16/19 nội dung vượt mục tiêu. Kết quả đó đã
17
góp phần tạo sự chuyển biến về số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức từng bước đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới. Bước đầu hình thành được đội ngũ cán bộ chuyên sâu trên một số
lĩnh vực. Bên cạnh đó, công tác cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số đi học các
trường đại học, cao đẳng, cũng đã góp phần nâng cao chất lượng cho đội ngũ
cán bộ các cấp. Từ năm 2006 đến năm 2010, toàn tỉnh có 250 học sinh đi học
cử tuyển tại các trường đại học, cao đẳng.
Tuy nhiên việc thực hiện đề án vẫn còn một số hạn chế cần được khắc
phục và cần có một chiến lược cụ thể cho việc đào tạo và phát huy nguồn nhân
lực nói chung và nguồn nhân lực trong HTCT nói riêng, nhằm đưa công tác
đào tạo tập trung đồng bộ, có tính hệ thống từ tạo nguồn, đào tạo, tuyển dụng,
đánh giá, bổ nhiệm.
2.2.3. Đẩy mạnh đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động
Đào tạo nghề cho người lao động là một trong những trọng tâm của công
tác phát triển nguồn nhân lực Lào Cai 2006 -2010. Để thực hiện nhiệm vụ này,
UBND tỉnh đã giao cho Sở Lao động thương binh và xã hội chủ trì, phối hợp với
với các ngành, các địa phương xây dựng và triển khai Đề án “Đào tạo nghề cho
người lao động tỉnh Lào Cai giai đoạn 2006-2010” (Đề án 27). Thực hiện theo
mục tiêu của Đề án, công tác đào tạo nghề được triển khai đồng bộ, mang lại kết
quả trên nhiều lĩnh vực. Đến 2010, hệ thống cơ sở dạy nghề đã đạt được những
bước tiến vượt bậc, cả về số lượng lẫn chất lượng đào tạo; nội dung giáo trình có
những đổi mới phù hợp với cấp độ, đối tượng đào tạo, ưu tiên cho việc biên soạn
tài liệu dạy nghề ngắn hạn có tính truyền thống, đặc thù của địa phương; đội ngũ
giáo viên dạy nghề tiếp tục được kiện toàn, bồi dưỡng nâng cao. Sau 5 năm thực
hiện Đề án 27, Lào Cai đã đào tạo được 53.230 lao động, vượt 151% so với mục
tiêu. Kết quả đó đã đưa lao động qua đào tạo nghề chiếm 27,8% nguồn nhân lực
của tỉnh, cao hơn so với mục tiêu 24,92% của đề án.
Bên cạnh đó, từ năm 2009, thực hiện Chương trình 30a của Chính Phủ,
Lào Cai đã tiến hành dạy nghề cho bà con nông dân ở các huyện thuộc Khu
vực III, đồng thời triển khai Quyết định QĐ 1956/QĐ-TTg về Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020, đã góp phần nâng cao kỹ năng cho lao
đông nông thôn. Tuy vậy, do đầu vào của nguồn nhân lực còn thấp, ý thức của
người dân đối với học nghề chưa cao, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy nghề
18
còn hạn chế, đặc biệt thiếu các điều kiện để học viên có thể thực hành, ứng
dụng nghề nên chất lượng đào tạo còn chưa đáp ứng được yêu cầu, số học
viên sau khi ra trường phải đào tạo lại còn cao.
*
* *
Bám sát chủ trương, chính sách phát triển nguồn nhân lực của Đảng và
Nhà nước, trong 5 năm (2006 - 2010), Đảng bộ, chính quyền tỉnh Lào Cai đã
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các đề án phát triển nguồn nhân lực,
đạt được những kết quả quan trọng, đáp ứng được mục tiêu và yêu cầu mà Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đã đề ra. GDPT đạt được nhiều tiến bộ; chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong HTCT từ xã, phường, thị trấn, thôn bản
đến huyện, tỉnh được nâng lên; Nhân lực chất lượng cao phát triển vượt bậc;
Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm sau cao hơn năm trước. Những thành công đó
không chỉ kịp thời phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh mà còn đặt
nền móng cho công tác này trong giai đoạn tiếp theo.
Chương 3
ĐÁNH GIÁ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
3.1. ĐÁNH GIÁ
3.1.1. Nhận thức về vai trò đào tạo nguồn nhân lực được nâng cao
Công tác tuyên truyền, phổ biến các nội dung và chính sách về đào tạo,
phát triển NNL được triển khai sâu rộng qua đó, các tổ chức, cá nhân dần nhận
thức rõ tầm quan trọng của việc đào tạo, phát triển NNL cho quá trình phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh. Nâng cao nhận thức về công tác đào tạo phát triển
NNL của cả HTCT và toàn xã hội là một thành công của quá trình thực hiện
chủ trương phát triển NNL của Đảng bộ Lào Cai. Điều đó càng đặc biệt có ý
nghĩa khi Lào Cai là một tỉnh trình độ dân trí còn thấp, kinh tế kém phát triển,
chưa có sản xuất hàng hóa lớn, còn nhiều tập tục lạc hậu.
3.1.2. Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực
phù hợp điều kiện của tỉnh
Trong 10 năm lãnh đạo, chỉ đạo đào tạo, phát triển NNL, Lào Cai đã
hình thành nên hệ thống đào tạo gồm các trường đào tạo chuyên nghiệp, 44 cơ
19
sở đào tạo nghề; hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; quy
mô, mạng lưới trường, lớp học của bậc giáo dục phổ thông cũng được quan
tâm và tiếp tục phát triển. Cùng với đó, đội ngũ giáo viên được trưởng thành
cả về số lượng và chất lượng. Đó là sự phát triển vượt bậc, về cơ bản đã đáp
ứng được nhu cầu đào tạo NNL cho tỉnh. Tuy vậy, do đặc thù của địa bàn
miền núi, kinh tế còn nhiều khó khăn nên hệ thống đó vẫn còn những bất cập
trong cả cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên.
3.1.3. Cơ chế quản lý, chính sách đào tạo nguồn nhân lực ngày càng
được hoàn thiện
Quá trình thực hiện chủ trương đào tạo phát triển NNL của Đảng bộ Lào
Cai đã giúp cho hệ thống quản lý, cơ chế, chính sách về công tác ngày càng
hoàn thiện, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động, tạo ra NNL
chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đó là quá
trình thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan
tham mưu, giúp việc về công tác quản lý và phát triển NNL nhằm phát huy
mọi tiềm năng để công tác đào tạo NNL trên địa bàn đạt kết quả cao hơn. Tuy
còn những hạn chế nhưng việc hình thành được hệ thống quản lý; xây dựng và
hoàn thiện hệ thống chính sách và công cụ khuyến khích thúc đẩy đào tạo phát
triển NNL là một trong những thành công cơ bản trong công tác lãnh đạo đào
tạo NNL của Đảng bộ tỉnh Lào Cai.
3.1.4. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao,
góp phần quan trọng thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh
Sau 10 năm tập trung đào tạo NNL, đội ngũ cán bộ trong HTCT của tỉnh
tăng 9058 người so với 2000; 90% đã tốt nghiệp PTTH, Tỷ lệ được đào tạo từ
đại học trở lên chiếm 27,6%, tăng 12,4% so năm 2000, trong đó tỷ lệ đào tạo
sau đại học chiếm 1,1% (tăng 0,9% so năm 2000). Lao động chưa qua đào tạo
giảm từ 84,3% năm 2000 xuống còn 61,62 % năm 2010. Lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật tăng từ 15,7% năm 2000 lên 38,38% Đó là những kết
quả quan trọng, góp phần to lớn vào phát triển kinh tế- xã hội của địa phương.
Tuy nhiên, trong công tác này cũng còn nhiều bất cập: Lao động là người dân
tộc thiểu số của tỉnh còn ít; số lao động có trình độ chuyên môn giỏi, tay nghề
bậc cao còn hạn chế, tỷ lệ lao động là người dân tộc thiểu số thấp, thiếu các
20
chuyên gia, CNKT giỏi, nghệ nhân, v.v ; tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ" khá
phổ biến; chất lượng cán bộ, công chức, viên chức còn có khoảng cách so với
yêu cầu; chính sách thu hút lao động chưa thực sự phát huy được hiệu quả.
3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
3.2.1. Chú trọng thực hiện chiến lược của Đảng về giáo dục - đào tạo
nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh Lào Cai
Thực hiện phương châm "Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn
Đảng, của Nhà nước và của toàn dân", Lào Cai đã chú trọng phát triển giáo
dục toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đẩy mạnh đào tạo
nghề, tăng cường bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ lãnh
đạo quản lý, quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã tạo
cho Lào Cai có được cơ cấu NNL hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh. Đó là một trong những kinh nghiệm cơ bản của Đảng bộ tỉnh
Lào Cai trong quá trình lãnh đạo công tác đào tạo, phát triển NNL.
3.2.2. Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển khoa học, công nghệ trên địa bàn tỉnh để đào
tạo hướng tới nguồn nhân lực chất lượng cao
Căn cứ từ yêu cầu của thực tiễn, kiên định thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng CNH - HĐH, phát triển KHCN của tỉnh để đào tạo
NNL đã giúp cho quá trình lãnh đạo công tác đào tạo phát triển NNL của tỉnh
Lào Cai đạt được những thành công như: gắn kết giữa đào tạo với giải quyết
việc làm; gắn kết phát triển khoa học kỹ thuật với đào tạo nhân lực bậc cao;
đào tạo cán bộ đáp ứng được yêu cầu đổi mới của HTCT,… Do vậy, hiệu quả
của công tác đào tạo được nâng lên, thu hút được các đối tượng học tập, nâng
cao trình độ, là một trong những yếu tố căn bản để công tác đào tạo, phát triển
NNL đạt được kết quả cao.
3.2.3. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền, cơ
quan quản lý nhà nước về công tác đào tạo nguồn nhân lực
Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cấp chính quyền, cơ quan
QLNN là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo NNL,
bảo đảm phát triển NNL có mục tiêu và kế hoạch cụ thể phù hợp với từng giai
đoạn, đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Để bộ máy
21
quản lý NNL được hoàn thiện, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt
động, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã yêu cầu các cơ quan, các cấp các ngành liên
quan phối hợp chặt chẽ, thực hiện theo kế hoạch,… đã tạo nên sự thống nhất,
hoạt động vì mục tiêu chung, huy động tối đa mọi nguồn lực cho công tác đào
tạo NNL, góp phần vào thành công của công tác này.
3.2.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn của
cấp ủy các cấp trong đào tạo nguồn nhân lực
Xác định đúng vai trò lãnh đạo, Các cấp ủy Đảng ở Lào Cai đã nắm bắt
được thực trạng về NNL và sự cần thiết của công tác đào tạo NNL; hiểu đúng
những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức; dự báo được yêu cầu và
những đòi hỏi về NNL trong tương lai. Những nhận thức đó đã được quán triệt
sâu sắc, thể hiện cụ thể trong các nghị quyết, chủ trương, biện pháp lãnh đạo,
chỉ đạo sát với thực tiễn. Từ nhận thức đúng, các cấp ủy đã triển khai có hiệu
quả các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển NNL
trên địa bàn cũng như nâng cao năng lực lãnh đạo, kiểm tra giám sát, quy
hoạch cán bộ đã giúp cho các cấp ủy Đảng Lào Cai hoàn thành tốt nhiệm vụ
lãnh đạo công tác đào tạo phát triển NNL. Đó cũng là một trong những kinh
nghiệm quan trọng để cấp ủy Đảng Lào Cai hoàn thành tốt nhiệm vụ này trong
những giai đoạn tiếp theo.
KẾT LUẬN
Xuất phát từ nhận thức khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác -
Lênin: Dù ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng
luôn giữ vai trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch
sử xã hội. Căn cứ vào tình hình thực tế của một tỉnh miền núi, có đông đồng
bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, kinh tế xã hội kém phát triển,…
Đảng bộ tỉnh Lào Cai đã vận dụng sáng tạo đường lối xây dựng con người,
phát triển nguồn nhân lực của Đảng đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương. Quá trình thực hiện chủ trương đào tạo nguồn nhân lực
đã mang lại những kết quả nhất định: Đã nâng cao nhận thức cho toàn xã hội,
huy động được sức mạnh của HTCT, các thành phần kinh tế trong tỉnh cho
công tác này. Đó là quá trình tự hoàn thiện, dần nâng cao nhận thức, phương
pháp tổ chức thực hiện, mục tiêu của của công tác đào tạo, phát triển nguồn
22
nhân lực. Trong nhiệm kỳ đại hội XII (2000 - 2005), công tác đào tạo phát
triển nguồn nhân lực được thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TU
Phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-2005 với các đề án và chính sách
được UBND tỉnh ban hành. Đến nhiệm kỳ Đại hội XIII (2005 - 2010), vấn đề
phát triển nguồn nhân lực đã được đặt thành một trong bảy nhiệm vụ trọng
tâm của toàn khóa, với các đề án cụ thể trên các mặt của công tác này đồng
thời phân công, phân nhiệm các cơ quan, cá nhân phụ trách cũng như vạch rõ
các biện pháp, phương hướng để hoàn thành mục tiêu đặt ra. Suốt 10 năm thực
hiện đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, Lào Cai đã hình thành được hình
thành được hệ thống cơ sở đào tạo và hệ thống quản lý, cơ chế, chính sách
phát triển đào tạo nhân lực. Cùng với nâng cao nhận thức về công tác này cho
toàn HTCT và mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh, đây là một trong những thành
công cơ bản, là cơ sở để Đảng bộ tỉnh Lào Cai tiếp tục thực hiện công tác đào
tạo phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn tiếp theo.
Với tất cả nỗ lực, khắc phục mọi khó khăn, quá trình thực hiện chủ
trương đào tạo nguồn nhân lực của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đã mang lại những
chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng cho nguồn nhân lực của
tỉnh. Số lượng lao động tăng, số được qua đào tạo, số lao động có nghề năm
sau cao hơn năm trước; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong HTCT
được tăng cường, tỷ lệ cán bộ đạt chuẩn ngày càng cao. Thành công đó đã góp
phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, quá trình lãnh đạo công tác đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực của Đảng bộ tỉnh Lào Cai còn có những hạn
chế đó là dù được tăng về số lượng và nhưng nguồn nhân lực của tỉnh chưa
thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển. Năm 2010, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh (PCI) của Lào Cai xếp thứ 2 cả nước, nhưng chỉ số chất lượng nguồn
nhân lực lại thuộc ở nhóm thấp so với cả nước. Cũng do đặc thù của tỉnh miền
núi, có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nên dù rất cố gắng nhưng lực lượng
lao động tham gia các ngành kinh tế của tỉnh Lào Cai tăng hàng năm không
cao, trung bình khoảng trên 6.100 lao động/năm. Điều này đã dẫn đến tình
trạng thiếu hụt lao động trong các ngành, như: Công nghiệp, xây dựng, y tế,
giáo dục. Khi có nhiều tổng công ty, doanh nghiệp triển khai các dự án đầu tư
lớn trên địa bàn đã không tuyển được lao động từ địa phương, mà phải huy
động lao động từ địa phương khác đến
23