Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LÃNH ĐẠO KINH TẾ ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 2001 - 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.59 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
------------------

NGUYỄN MINH THÙY

ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI
LÃNH ĐẠO KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
GIAI ĐOẠN 2001 - 2006

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng
Người hướng dẫn khoa học
ThS. CHU THỊ THU THỦY

HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc của mình tới ThS. Chu
Thị Thu Thủy người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình, chỉ bảo cho tôi hoàn
thành khoá luận này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong khoa
Lịch sử và các bạn sinh viên trong nhóm khoá luận đã giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khoá luận.
Mặc dù đã có những cố gắng tìm tòi nhất định, song chắc chắn trong
quá trình hoàn thành khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô và tất cả các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2015
Tác giả khoá luận



Nguyễn Minh Thùy


LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của ThS. Chu
Thị Thu Thủy Tôi xin cam đoan rằng:
- Khoá luận này là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khoá luận là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng với bất kì công trình nghiên
cứu của tác giả nào đã được công bố trước đó.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2015
Tác giả khoá luận

Nguyễn Minh Thùy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........... Error! Bookmark not defined.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận............................................................................ 5
7. Bố cục khóa luận ....................................................................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1. CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LÃNH ĐẠO KINH
TẾĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 2001 - 2006 ...................................................... 7

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỈNH LÀO CAI ........................................ 7
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ........................................................................... 7
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .............................................................. 12
1.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA TỈNH LÀO CAI
TRƯỚC NĂM 2001.................................................................................... 17
1.3. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ LÃNH ĐẠO KINH TẾ ĐỐI
NGOẠI ........................................................................................................ 19
Chương 2. ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LÃNH ĐẠO KINH TẾ ĐỐI
NGOẠI GIAI ĐOẠN 2001 – 2006 ................................................................. 25
2.1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI VỀ LÃNH
ĐẠO KINH TẾ ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 2001 - 2006........................... 25
2.2. ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LÃNH ĐẠO KINH TẾ ĐỐI
NGOẠI GIAI ĐOẠN 2001 - 2006 ............................................................. 29
2.2.1. Hoạt động xuất – nhập khẩu ........................................................ 29


2.2.1.1. Khái quát công tác lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Lào Cai
đối với hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2006 .................. 29
2.2.1.2. Một số chính sách ưu đãi của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đối
với hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2001 – 2006 .............. 32
2.2.1.3. Một số thành quả đạt được của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đối
với công tác lãnh đạo hoạt động xuất – nhập khẩu của tỉnh giai
đoạn 2001 – 2006 ................................................................................ 36
2.2.1.4. Hạn chế trong công tác lãnh đạo hoạt động xuất nhập
khẩu của Đảng bộ tỉnh Lào Cai và nguyên nhân dẫn đến hạn chế ..... 41
2.2.2. Hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài .................................... 42
2.2.2.1. Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo Hoạt động thu hút vốn
đầu tư nước ngoài giai đoạn 2001 - 2006 ........................................... 42
2.2.2.2. Chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài
của Đảng bộ tỉnh Lào Cai trong giai đoạn 2001 – 2006 ..................... 46

2.2.2.3 Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trong
giai đoạn 2001 - 2006 ......................................................................... 53
2.2.2.4. Một số hạn chế và giải pháp thu hút vốn đầu tư nước
ngoài của tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001 – 2006 ................................... 55
2.3. NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ..................................... 57
2.3.1. Nhận xét ........................................................................................ 57
2.3.2. Bài học kinh nghiệm ..................................................................... 59
2.3.3. Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại ....................................... 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 66


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên bản đồ tổ quốc, Lào Cai mang hình con rùa vàng – một trong bốn
con vật quý và linh thiêng (tứ linh) của văn hóa Việt. Ở nơi địa đầu Tổ quốc,
hình tượng Kim Quy càng tôn thêm vị thế vững chãi, uy nghi. Lào Cai bắt
nguồn từ địa danh khu đô thị cổ “Lão Nhai” có nghĩa là “Phố Cổ”. Ngày
12/7/1907, tỉnh Lào Cai được thành lập, tên của đô thị cổ trở thành tên
tỉnh Lào Cai.
Lào Cai là nơi có đường biên giới với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) dài
203 km, có cửa khẩu quốc tế và quốc gia, có hệ thống đường bộ, đường sắt
và đường thủy, đảm bảo cho việc giao thương quốc tế. Từ thuở bình minh
lịch sử cho đến nay, Lào Cai luôn có vị trí chiến lược quan trọng ở vùng
thượng lưu sông Hồng. Nơi đây còn là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu
đời, 25 dân tộc anh em luôn đoàn kết một lòng, cần cù sáng tạo trong lao
động, anh dũng, kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ
vững chắc nơi biên cương phía Tây Bắc của Tổ quốc.Với vị trí địa lý đặc
biệt, Lào Cai trở thành đầu mối thông thương kinh tế, giao lưu văn hóa giữa
hai nước Việt Nam với Trung Quốc nói riêng và quốc tế nói chung. Đây cũng

chính là lí do để Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng đầu tư phát triển
kinh tế đối ngoại tại Lào Cai.
Chính vì lẽ đó, vấn đề kinh tế đối ngoại có ý nghĩa đặc biệt đối với sự
phát triển của tỉnh Lào Cai. Đề án phát triển kinh tế cửa khẩu giai đoạn 20012005- 2010 được Ủy ban Nhân dân tỉnh phê duyệt theo quyết định số 50/QPUB ngày 18/12/2002 đã xác định mục tiêu “Điều chỉnh quy hoạch và đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu du lịch kinh tế cửa khẩu, đặc biệt là khu
cửa khẩu quốc tế Lào Cai, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế, thương mại, du

1


lịch, dịch vụ cho trước mắt và tương lai lâu dài, tương xứng với tầm cửa khẩu
quốc tế văn minh, hiện đại” [5, tr.1]. Đồng thời tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh Lào Cai nhiệm kỳ 2000-2005, Đảng bộ tỉnh đã định hướng phát triển
thương mại tỉnh Lào Cai trong giai đoạn tới là: “Coi phát triển thương mại du lịch, dịch vụ là mũi nhọn; phát triển thương mại - dịch vụ, du lịch để khai
thác hiệu quả lợi thế. Phát triển thương mại Lào Cai có đặc thù khác so với
các tỉnh khác không có biên giới” [1,tr.8].
Ta có thể thấy rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nói chung cũng
như Đảng bộ tỉnh Lào Cai nói riêng đến vấn đề phát triển kinh tế đối ngoại
của tỉnh. Trên những ý nghĩa đó, tôi quyết định chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh
Lào Cai lãnh đạo kinh tế đối ngoại giai đoạn 2001 – 2006” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo kinh tế đối ngoại giai đoạn 2001 – 2006
là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan tổ chức của Đảng nói
chung và Đảng bộ tỉnh nói riêng. Đây cũng là vấn đề được nhiều nhà nghiên
cứu về kinh tế, chính trị tìm hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, cụ thể như:
- Trong tác phẩm Lào Cai Vận hội mới do Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2005, thì vấn đề kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào
Cai cũng được nghiên cứu sâu và nhìn theo góc độ đa chiều.
- Ngoài ra còn có các Dự án “Điều chỉnh Quy hoạch phát triển thương

mại tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001-2006” của Sở Công Thương Lào Cai và dự
án, đề tài khoa học do Viện nghiên cứu thương mại chủ trì “Hoàn thiện chính
sách thương mại biên giới của Việt Nam” các Dự án này trên hình thức
nghiên cứu để tìm ra biện phát điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại của tỉnh
Lào Cai trong giai đoạn 2001 – 2006.
- Trong tạp chí Gương mặt Việt Nam hành trình hội nhập WTO, Bài
viết mang tên “Lào Cai một thế kỷ phát triển và hội nhập” do Nhà xuất bản
2


Thông tấn xã Việt Nam và Công ty Văn hóa trí tuệ Việt phối hợp xuấn bản
năm 2007, thì vấn đề kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai cũng được đề cập
đến. Tác giả đã nêu lên các vấn đề về thời cơ và thách thức đối với việc phát
triển kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai.
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Lương Đăng Ninh “Đổi mới quản lý Nhà
nước về hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn các tỉnh biên giới Việt Nam Trung Quốc”, tác phẩm đã đi sâu phân tích vào khía cạnh hoạt động xuất nhập
khẩu của vấn đề kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai.
Các công trình trên đều có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc,
song khi điểm lại tình hình nghiên cứu đó có thể thấy cho tới nay chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về chủ trương, đường lối, chỉ thị
của Đảng đối với hoạt động phát triển kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai. Tuy
nhiên, thành quả nghiên cứu của các công trình bài viết kể trên rất bổ ích, đó
không chỉ là nguồn tư liệu quý báu mà còn gợi mở những cách nhìn mới để
thực hiện bản khóa luận này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một các toàn diện và khách quan
chủ trương, đường lối, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong công tác
lãnh đạo kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001- 2006.Trình bày
quá trình thực hiện và thành quả đạt được khi tiến hành thực hiện những chủ

trương của Đảng đối với hoạt động kinh tế đối ngoại của tỉnh. Đồng thời, rút
ra một số bài học kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo kinh tế đối ngoại
tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001 – 2006.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề “Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo kinh tế đối ngoại
giai đoạn 2001 – 2006”, đề tài hướng đến giải quyết những nhiệm vụ sau:

3


Thứ nhất, khóa luận tiến hành khái quát những cơ sở thực tiễn và cơ sở
lý luận để Đảng bộ tỉnh Lào Cai về lãnh đạo kinh tế đối ngoại của tỉnh giai
đoạn 2001- 2006.
Thứ hai, khóa luận hệ thống hóa và phân tích quá trình Đảng lãnh đạo
hoạt động kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001- 2006 và một số
thành quả đạt được cũng như bài học được đúc rút ra trong quá trình lãnh
đạo đó.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Trên phạm vi tỉnh Lào Cai
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2001 đến năm 2006
3.4. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu những chủ trương, chính sách của Đảng nhằm
lãnh đạo kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai giai đoạn 2001 – 2006. Từ chủ
trương, đường lối chung của trung ương đến những bước đi cụ thể mà Đảng
Bộ tỉnh chỉ đạo, thực trạng và thành quả mà ngành kinh tế đối ngoại của tỉnh
đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khóa luận không đi sâu vào phân tích
từng hạng mục cụ thể của ngành kinh tế đối ngoại tỉnh, mà chỉ tiến hành
nghiên cứu hai hoạt động chính đó là hoạt động xuất – nhập khẩu và hoạt
động thu hút vốn đầu tư nước ngoài, để từ đó làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh đối với kinh tế đối ngoại trong giai đoạn 2001 – 2006.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
lênin, quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đất
nước cũng như phát triển kinh tế vững mạnh để phùng hợp với nền kinh
tế quốc tế.

4


Trên cơ sở đó, khóa luận thực hiện hai phương pháp nghiên cứu chính
là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, bên cạnh đó khóa luận còn sử
dụng một số phương pháp như: phương pháp mô tả, phương pháp thống kê và
phương pháp tổng hợp.
4.2. Nguồn tư liệu
Thực hiện đề tài này, khóa luận chủ yếu dựa vào các nguồn tài liệu sau:
- Các văn kiện của Đảng và Chính phủ về hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các văn kiện của Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai; các Chương trình, Nghị
quyết Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào Cai về hoạt động kinh tế đối ngoại.
- Các báo cáo tổng kết của các sở, ban, ngành có liên quan về công tác
lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại.
- Các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu được đăng tải trên
các tạp trí trung ương và địa phương,…
5. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận góp phần khẳng định những chủ trương, đường lối chỉ đạo
của Đảng về phát triển kinh tế đối ngoại trong giai đoạn 2001- 2006 là hoàn
toàn đúng đắn. Cụ thể là chủ trương của Đảng bộ tỉnh Lào Cai đối với công
tác lãnh đạo kinh tế đối ngoại của tỉnh.
- Trên cơ sở các nguồn tư liệu lịch sử, đặc biệt là nguồn tư liệu gốc,
khóa luận đã trình bày khái quát về tỉnh Lào Cai, công tác lãnh đạo hoạt động

kinh tế đối ngoại của Đảng bộ tỉnh Lào Cai từ năm 2001 đến năm 2006; nêu
những thành tựu của tỉnh Lào Cai đã đạt được, những ưu điểm và hạn chế của
Đảng bộ tỉnh trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
- Khóa luận nêu lên một số kinh nghiệm lịch sử trong quá trình Đảng
bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại, đề xuất một số giải
pháp, định hướng chủ yếu góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của hoạt
động kinh tế đối ngoại trong tương lai.

5


6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Khóa luận gồm hai chương chính như sau:
Chương 1: Cơ sở để Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo kinh tế đối ngoại
giai đoạn 2001- 2006
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo kinh tế đối ngoại giai đoạn
2001- 2006.

6


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LÃNH ĐẠO KINH TẾ
ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 2001- 2006
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỈNH LÀO CAI
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
 Vị trí địa lý
Lào Cai là một tỉnh miền núi biên giới nằm giữa nằm giữa vùng Đông

Bắc và Tây Bắc của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 296 km theo đường sắt,
345 km theo đường bộ, có diện tích tự nhiên khoảng 6.350 km2. Tọa độ địa lý
từ 22040’56” đến 22050’30” vĩ độ Bắc; 103030’24” đến 104038’21” kinh độ
Đông, phía Bắc giáp với tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, phía Đông giáp với
tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp với tỉnh Yên Bái, phía Tây giáp với tỉnh
Sơn La và Lai Châu.
Lào Cai có đường biên giới chung với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
dài 203 km, trong đó có 59 km đường đất liền và 144 km đường sông, suối.
Lào Cai có Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai và Cửa khẩu Quốc gia Mường
Khương, có tuyến đường sắt liên vận Quốc tế Hà Nội – Lào Cai – Côn Minh
cùng các tuyến quốc lộ 70, 4E, 79 nối Lào Cai với các tỉnh phía Nam của tỉnh
(Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội...) và với tỉnh Vân Nam – Trung Quốc
ở phía Bắc; các quốc lộ 40, 32 nối Lào Cai với Lai Châu; đường 279 nối Lào
Cai với tỉnh Hà Giang, Sơn La. Ngoài giao thông đường sắt, đường bộ, Lào
Cai còn tham gia mạng lưới giao thông đường thủy quan trọng vào bậc nhất ở
phía Bắc với 130 km sông Hồng chảy qua tỉnh, có đoạn ranh giới chung giữa
Việt Nam và Trung Quốc trên suốt chiều dài khoảng 50km [11, tr.47].

7


Với vị trí địa lý đặc biệt này, Lào Cai trở thành đầu mối thông thương
kinh tế, giao lưu văn hóa giữa hai nước Việt Nam với Trung Quốc nói riêng
và quốc tế nói chung.
 Địa hình và sông ngòi
Địa hình Lào Cai khá phong phú gồm nhiều loại hình , có địa hình
thung lũng, có địa hình vùng núi thấp, địa hình vùng núi cao và các đỉnh núi
rất cao như đỉnh Phanxipăng – nóc nhà của tổ quốc cao 3.143m... Lào Cai có
107 sông suối chạy qua tỉnh ,với 3 hệ thống sông chính là sông Hồng (có
chiều dài chạy qua địa phận Lào Cai 120km), sông Chảy (có chiều dài chạy

qua tỉnh là 124 km) và sông Nậm Mu (có chiều dài chạy qua tỉnh là 122km).
 Khí hậu
Lào Cai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong vùng lục
địa bị chi phối bởi nhiều yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có
phần bị thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Khí hậu Lào Cai chia
thành hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình năm ở vùng cao từ
150C – 200C, lượng mưa trung bình từ 1.800mm – 2.000mm. Nhiệt độ trung
bình năm ở vùng thấp từ 230C – 290C, lượng mưa trung bình từng 1.4000mm
– 1.700 mm.
 Sinh vật
Đặc điểm nổi bật của sinh vật Lào Cai là tính đa dạng sinh học. Toàn
tỉnh có hơn 2000 loài thực vật , 442 loại chim, thú, bò sát, ếch nhái. Trong đó
có 60 loại động vật chỉ tìm thấy ở Lào Cai, 9 loại thực vật chỉ tìm thấy ở Sa
Pa. Lào Cai có kho tàng quỹ gen đặc biệt quý hiếm (chiếm tới gần 50% số
loại thực vật đặc biệt quý hiếm ở nước ta).
 Tài nguyên
Lào Cai là mảnh đất giàu tài nguyên như tài nguyên đất, tài nguyên
rừng, khoáng sản, du lịch... tất cả đã tạo điều kiện thuận lợi để Lào Cai phát
triển một cách bền vũng và lâu dài có thể kể đến như sau:
8




Tài nguyên đất

Có 10 nhóm đất chính, được chia làm 30 loại đất, 10 nhóm đất là: đất
phù sa, đất lầy, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ, đất mùn alit trên núi,
đất mùn thô trên núi, đất đỏ vàng bị biến đổi do trồng lúa, đất sói mòn mạnh
trơ sỏi đá và đất dốc tụ. Xin giới thiệu một số nhóm đất đang được sử

dụng thiết thực:
Nhóm đất phù sa: diện tích nhỏ, chiếm 1,47% diện tích tự nhiên, phân
bố chủ yếu dọc sông Hồng và sông Chảy, có độ phì tự nhiên khá cao, thích
hợp đối với các loại cây lương thực, cây công nghiệp.
Nhóm đất đỏ vàng: thường có màu nâu đỏ, đỏ nâu, đỏ vàng hoặc vàng
đỏ rực rỡ. Hình thành và phân bố rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh ở độ cao
900m trở xuống, diện tích chiếm trên 40% diện tích tự nhiên. Nhóm đất này có
độ phì nhiêu khá cao, thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây hàng năm.
Nhóm đất mùn vàng đỏ: chiếm trên 30% diện tích tự nhiên, phân bố tập
trung tại các huyện Sa Pa, Mường Khương, Bắc Hà, Bát Xát, Văn Bàn. Nhóm
đất này thích hợp trồng các loại cây dược liệu quý, cây ăn quả và nhiều loại
rau ôn đới quan trọng của tỉnh. Đồng thời, nhóm đất này có thảm thực vật
rừng phong phú, đa dạng bậc nhất của tỉnh.
Nhóm đất mùn alit trên núi: chiếm 11,42% diện tích tự nhiên, tập trung
ở huyện Sa Pa, Văn Bàn... có thảm rừng đầu nguồn khá tốt, thích hợp với một
số loại cây trúc cần câu, đỗ quyên, trúc lùn, rừng hỗn giao.
Nhóm đất đỏ vàng bị biến đổi màu do trồng lúa: đây là các loại đất
feralitic hoặc mùn feralitic ở các sườn và chân sườn ít dốc được con người bỏ
nhiều công sức tạo thành các ruộng bậc thang để trồng trọt hoa màu. Diện tích
chiếm khoảng 2% diện tích tự nhiên phân bố rải rác ở các huyện tạo nên
những cảnh quan ruộng bậc thang rất đẹp mà tiêu biểu là hai huyện Bắc Hà
và Sa Pa.

9


 Tài nguyên nước
Lào Cai có hệ thống sông suối dày đặc được phân bố khá đều trên địa
bàn tỉnh với 2 con sông lớn chảy qua là sông Hồng (130 km chiều dài chảy
qua tỉnh) và sông Chảy bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc) có chiều dài

đoạn chảy qua tỉnh là 124 km. Ngoài 2 con sông lớn, trên địa bàn tỉnh còn có
hàng nghìn sông, suối lớn nhỏ (trong đó có 107 sông, suối dài từ 10 km trở
lên). Đây là điều kiện thuận lợi cho Lào Cai phát triển các công trình thuỷ
điện vừa và nhỏ.
Bên cạnh đó, nguồn nước nguồn ước tính có trữ lượng xấp xỉ 30 triệu
m3, trữ lượng động khoảng 4.448 triệu m3 với chất lượng khá tốt, ít bị
nhiễm vi khuẩn.
Theo các tài liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng,
nước nóng có nhiệt độ khoảng 400oC và nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa,
hiện chưa được khai thác, sử dụng.
 Tài nguyên rừng
Rừng: 307.573 ha, trong đó có 249.434 ha rừng tự nhiên và 58.139 ha
rừng trồng.
Thực vật rừng: rất phong phú cả về số lượng loài và tính điển hình của
thực vật. Riêng tại khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn đã phát hiện được
847 loài thực vật thuộc 164 họ, 5 ngành, trong đó có nhiều loại quý hiếm như:
Lát Hoa, Thiết Sam, Đinh, Nghiến,...
Động vật rừng: theo các tài liệu nghiên cứu, Lào Cai có 442 loài chim,
thú, bò sát, ếch nhái. Trong đó, thú có 84 loài thuộc 28 họ, 9 bộ; chim có 251
loài thuộc 41 họ, 14 bộ; bò sát có 73 loài thuộc 12 họ,...
 Tài nguyên khoáng sản
Tới nay đã phát hiện được 150 mỏ và điểm mỏ với trên 30 loại khoáng
sản, trong đó có một số mỏ khoáng sản đã được thăm dò, đánh giá trữ lượng,

10


chất lượng thuộc loại quy mô lớn nhất nước và khu vực như: mỏ A Pa Tit
Cam Đường với trữ lượng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt Quý Sa trữ lượng 124 triệu tấn,
mỏ đồng Sin Quyền trữ lượng 53 triệu tấn, mỏ Molipden Ô Quy Hồ trữ lượng

15,4 nghìn tấn.
Nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng là cơ sở để ngành
công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản khẳng định là ngành công
nghiệp mũi nhọn của tỉnh.
 Tài nguyên du lịch
Trọng tâm là khu du lịch nghỉ mát Sa Pa - một trong 21 trọng điểm du
lịch của Việt Nam. Sa Pa nằm ở độ cao trung bình từ 1.200m - 1.800m, khí
hậu mát mẻ quanh năm, có phong cảnh rừng cây núi đá, thác nước và là nơi
hội tụ nhiều hoạt động văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc như
chợ vùng cao, chợ tình Sa Pa,...
Đỉnh núi Phan Xi Păng - nóc nhà của Việt Nam có dãy núi Hoàng Liên
Sơn và khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên hấp dẫn nhiều nhà khoa học,
khách du lịch.
Lào Cai có nhiều địa danh lịch sử, hang động tự nhiên và các vùng sinh
thái nông nghiệp đặc sản như mận Bắc Hà, rau ôn đới, cây dược liệu quý, cá
hồi (Phần Lan), cá tầm (Nga)...Và đặc biệt, đây còn là nơi mang đậm nét đặc
trưng văn hoá độc đáo của nhiều dân tộc anh em.
Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu cũng là một điểm du lịch thú vị
mà điểm dừng chân không thể là nơi nào khác ngoài thành phố Lào Cai.
Đặc biệt, là tỉnh miền núi cao, đang phát triển nên Lào Cai còn giữ
được cảnh quan môi trường đa dạng và trong sạch. Đây sẽ là điều quan trọng
tạo nên một điểm du lịch lý tưởng đối với du khách trong và ngoài nước.
 Tài nguyên nhân văn
Với hơn 20 nhóm dân tộc cùng sinh sống, Lào Cai trở thành mảnh đất
phong phú về bản sắc văn hoá, về truyền thống lịch sử, di sản văn hoá,... Theo
11


kết quả điều tra, hiện dân tộc Thái còn lưu trữ hơn 100 bộ sách bằng chữ Pali
ra đời từ thế kỉ XIII; dân tộc Tày, Dao, Giáy có hàng nghìn bản sách cổ bằng

chữ Nôm. Đặc biệt tại huyện Sa Pa có bãi đá cổ được chạm khắc hoa văn thể
hiện các hình tượng, bản đồ, chữ ký, ký hiệu,...Hơn nữa, những biến động
trong lịch sử đã để lại cho Lào Cai nhiều di tích nổi tiếng như đền Bảo Hà,
đền Thượng, kiến trúc nhà Hoàng A Tưởng,... Không chỉ nhiều di sản vật thể
và phi vật thể được phát hiện, bảo tồn mà một kho tàng văn học dân gian đồ
sộ đến nay vẫn chưa được khám phá hết.
Trên cơ sở những tiềm năng đó đã tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế đối
ngoại tỉnh Lào Cai phát triển. Bởi lẽ vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, sinh vật và
các nguồn tài nguyên đều tạo nên các cơ sở vững chắc để kinh tế hoạt động
kinh tế đối ngoại của tỉnh có điều kiện phát triển. Ví như đặc thù về vị trí địa
lý giúp tỉnh Lào Cai có cơ sở để giao thương thuận lợi với nước bạn Trung
Quốc hay nói cách khác là việc phát triển hoạt động của các cửa khẩu được đề
cao. Bên cạnh đó sự đa dạng về sinh học cũng như sự giàu có về tài nguyên
thiên nhiên giúp cung cấp đầy đủ nguồn nguyên liệu cho hoạt động xuất khẩu
hay sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra cơ sở về địa hình và khí hậu cũng góp
phần nào vào công cuộc phát triển kinh tế đối ngoại của tỉnh nhà.
1.1.2.Điều kiện kinh tế - xã hội


Về kinh tế

Lào Cai là mảnh đất đầy tiềm năng với nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển về kinh tế. Nơi đây có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi,
bên cạnh đó là sự đa dạng về sinh học cũng như sự giàu có về tài nguyên
thiên nhiên. Cùng với đó Lào Cai còn được thiên nhiên ưu đãi cho khí hậu
chan hòa phục vụ tốt cho cả nông nghiệp lẫn du lịch.
Trước khi tái lập tỉnh,từ 1986 đến 1991, mặc dù kinh tế có những biến
chuyển bước đầu, nhưng Lào Cai vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử

12



thách: cơ sở hạ tầng thấp kém (giao thông đến tỉnh và từ tỉnh đến huyện, xã
rất khó khăn, 7/10 huyện chưa có điện lưới quốc gia...), 138/180 xã thuộc diện
đặc biệt khó khăn, 26 xã giáp biên giới, 55% hộ dân thuộc diện đói nghèo;
nền kinh tế Lào Cai có xuất phát điểm thấp, kinh tế tự cung tự cấp là chủ yếu,
sản xuất hàng hóa hầu như không đáng kể, sản lượng lương thực bình quân
đầu người 184kg/năm, GDP bình quân đầu người 680.000 đồng, thu ngân
sách trên địa bàn chỉ đạt 19 tỉ đồng [14, tr.8].
Còn từ khi tái lập tỉnh đến năm 2005, nhân dân Lào Cai với tinh thần nỗ
lực, quyết tâm khôi phục và xây dựng tỉnh đã làm cho bộ mặt kinh tế, xã hội
Lào Cai có những thay đổi đáng kể. Lào Cai đã thực hiện được 3 kế hoạch 5
năm: kế hoạch 1991- 1995: khôi phục Lào Cai; kế hoạch 1996- 2000 và kế
hoạch 2001- 2005: tập trung triển khai các chương trình trọng tâm đẩy mạnh
quá trình phát triển, xây dựng một Lào Cai mới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân giai đoạn 2001- 2005 đạt 11,9%/năm, cao hơn mức 6,2%/năm của
giai đoạn 1996- 2000, riêng năm 2006 đạt 13,6%. Thu ngân sách nhà nước trên
địa bàn năm 2004 là 600 tỷ đồng, năm 2005 là 647,2 tỷ đồng. Tính đến năm
2006, Lào Cai đạt 799 tỷ đồng, tăng 3 lần so với năm 2000. GDP đầu người
tăng từ 2,3 triệu đồng năm 2000 lên 5 triệu đồng năm 2005, tăng hơn 2 lần so
với năm 2001 và tăng 7,3 lần so với năm 1991. Năm 2006, GDP bình quân đầu
người đạt 6,1 triệu đồng/năm, tăng 22,5% so với năm 2005 [14, tr.11].
Để tiến hành tìm hiểu cụ thể hơn tình hình kinh tế của tỉnh Lào Cai ta
có thể khái quát hoạt động của từng hạng mục nhỏ trong hoạt động kinh tế
của tỉnh như sau:
 Nông – Lâm nghiệp
Sản xuất nông lâm nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng giá trị
trên 1 đơn vị diện tích canh tác. Từng bước hình thành vùng sản xuất hàng
hóa tập chung, đồng thời xóa đói giảm nghèo đạt được nhiều thành tựu lớn.


13


Thành tựu vượt trội về nông nghiệp là tăng mạnh về năng suất và sản
lượng cây lương thực. Công tác khuyến nông, khuyến lâm, ứng dụng tiến bộ
khoa học – kỹ thuật được đẩy mạnh. Chăn nuôi phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa, nhất là chăn nuôi đại gia súc. Thủy sản khá phát triển. Công tác bảo
vệ và phát triển rừng được quan tâm. Hợp tác xã được chuyển đổi, củng cố,
đã và đang thích ứng với cơ chế mới, sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn.
Chính những điều đó đã làm bộ mặt nông thôn Lào Cai có nhiều đổi mới. Đời
sống vật chất và tinh thần của nông dân được cải thiện đáng kể; tỷ lệ hộ nghèo
giảm nhanh, từ 29,96% năm 2000 xuống còn 7% năm 2005 [1,tr.3].
 Công nghiệp
Sản suất công nghiệp của địa phương có nhiều chuyển biến tích cực, đã
triển khai thực hiện các dự án phát triển đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng quy
mô sản xuất và ngành nghề, đã tạo lên nhiều sản phẩm mới. Song bên cạnh đó
công nghiệp Trung ương lại gặp phải không ít khó khăn do thị trường tiêu thụ
sản phẩm không ổn định, sản phẩm khai thác và chế biến phân bón tồn kho
nhiều, ảnh hưởng đến sản xuất.
Tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn mới đang dần dần được khơi dậy,
phục hồi và phát triển một số ngành nghề thủ công, mỹ nghệ: đan lát, dệt thổ
cẩm, chế biến nông lâm sản… Tuy nhiên còn ở mức thấp, công nghệ sản xuất
lạc hậu, manh mún, chưa thu hút được nhiều lao động nên chưa tạo nên nhiều
sản phẩm hàng hoá…
Cụ thể giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Lào Cai năm 2002
đạt 350 tỷ đồng. Trong đó: công nghiệp Trung ương đạt 165,4 tỷ đồng; công
nghiệp địa phương đạt 184,6 tỷ đồng. Một số sản phẩm của công nghiệp địa
phương tiêu thụ tương đối ổn định là: Quặng sắt, Fenspat, gạch xây, tinh
quặng đồng (Cu 18%), xi măng, giấy vàng kim xuất khẩu. Một số doanh
nghiệp địa phương đã năng động sản xuất một số sản phẩm mới như: gạch


14


Blốc, nước đậu lạnh đóng chai, tấm lợp Phibro xi măng, cột điện ly tâm… đáp
ứng nhu cầu thị trường [14, tr.12].
 Thương mại, dịch vụ, du lịch
Thương mại, dịch vụ, du lịch có bước chuyển biến tích cực, đáp ứng tốt
hơn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân. Kinh
tế du lịch tiếp tục khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh; thế mạnh về
kinh tế cửa khẩu được khai thác tốt hơn, mang lại hiệu quả cao, thu ngân sách
trên địa bàn tăng vượt bậc [1, tr.3].
Cụ thể tổng mức bán hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội đạt ≈ 700 tỷ
đồng, tăng 9,38% so với năm trước. Trong đó bán lẻ xã hội đạt 550 tỷ đồng,
tăng 11,3% so với năm 2000 (kinh tế Nhà nước thực hiện đạt 55,4 tỷ đông,
bằng 98% so với năm trước). Các mặt hàng chính sách cung ứng đảm bảo, kịp
thời cho nhân dân, nhất là phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa; Giữ ổn định
giá cả thị trường. Tổ chức thành công Hội chợ Thương mại Quốc tế biên giới
Việt – Trung [18, tr.21].
Nền kinh tế tỉnh Lào Cai tuy chưa có sự bứt phá về tốc độ tăng trưởng
nhưng cũng thể hiện được sự nỗ lực vươn lên của toàn tỉnh. Từ bước khắc
phục khó khăn, tận dụng những điều kiện sẵn có của tỉnh, thi hành những chủ
trương đường lối của Đảng cho đến những thành quả ban đầu, đó là cả một
quá trình cố gắng không ngừng nghỉ của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Lào Cai.
Cũng chính từ sự phát trển của nền kinh tế trên toàn tỉnh đã góp phần tạo cơ
sở để hoạt động kinh tế đối ngoại của tỉnh phát triển. Nó không chỉ là nguồn
cung cấp nguyên nhiên liệu cho việc xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu mà
nó cón tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cũng như vật chất để hoạt
động kinh tế đối ngoại có cơ hội được mở rộng và phát triển hơn.
 Về xã hội

Những thành tựu về kinh tế của tỉnh Lào Cai đã có những tác động nhất
định đến đời sống xã hội, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao mức sống
15


của dân cư. Thu nhập bình quân của hộ gia đình ở nông thôn Lào Cai tăng từ
6,6 triệu đồng năm 2000 lên 15 triệu đồng năm 2005. Sự tăng trưởng về kinh
tế còn góp phần xoá đói giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo trong toàn tỉnh giảm
nhanh từ 29,69% năm 2000 xuống còn 6,94% năm 2005 (theo tiêu chí cũ),
năm 2006 giảm 7,5% (theo tiêu chí mới còn 43%). Cơ sở hạ tầng cũng có
nhiều thay đổi. Đến nay, 100% số xã đã có đường ô tô đến trung tâm xã, 82%
số xã có điện lưới quốc gia, 62% số hộ dân được sử dụng điện, 70% số dân
được sử dụng nước hợp vệ sinh. Lĩnh vực văn hóa- xã hội được quan tâm
đúng mức và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Giáo dục đào tạo được nâng cao
về chất lượng và mở rộng về quy mô. Năm 2005, Lào Cai đã đạt chuẩn phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 50% trường lớp được kiên cố hóa. Công
tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được chú trọng, toàn tỉnh có 213
cơ sở khám chữa bệnh, 100% số thôn bản có nhân viên y tế. Việc gắn kết giữa
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội đã có nhiều chuyển biến
tích cực [14, tr15].
 Dân cư
Theo số liệu thống kê năm 2004, Lào Cai có số dân trên 55,69 vạn
người, trong đó số người trong độ tuổi lao động xấp xỉ 50% và mật độ dân cư
là 88 người/km2 [2, tr.47].
Lào Cai có 25 dân tộc anh em sinh sống. Dân tộc kinh có 194.666
người, dân tộc H’mông có 122.825 người, dân tộc Tày có 82.516 người, dân
tộc Dao có 72.543 người, dân tộc Thái có 51.061 người, dân tộc Giáy có
24.360 người, dân tộc Nùng có 23.156 người, dân tộc Phù Lá có 6763 người,
dân tộc Hà Nhì có 3099 người, dân tộc Lào có 2134 ngưòi, dân tộc Kháng có
1691 người, dân tộc Laha có 1572 người, dân tộc Mường 1263 người, dân tộc

Bố Y có 1.148 người, dân tộc Hoa có 770 người, dân tộc La Chí có 446 người
và 11 dân tộc có số dân ít dưới 70 người như các dân tộc Sán Chay, Sán Dìu,

16


Khơ Me, Lô Lô, Kà Doong, Pa Cô, Ê Đê, Giẻ Triêng, Gia Rai, Chăm, Kà Tu.
Lào Cai có số dân tộc chiếm 50% tổng số dân tộc toàn quốc nên đặc điểm nổi
bật trong văn hóa các dân tộc Lào Cai là Văn hoá đa dân tộc, giàu bản sắc. Ở
vùng thấp, người Tày, Thái, Giáy, Nùng, khai khẩn các thung lũng ven sông,
ven suối , sáng tạo truyền thống văn hoá lúa nước. Ở rẻo giữa, người kháng,
La Ha, Phù Lá.... tạo nên văn hoá nương rẫy với nhiều tri thức bản địa phù
hợp với kinh tế đồi rừng. Ở vùng cao, người H’mông, Hà Nhì, Dao khai khẩn
các sườn núi thành ruộng bậc thang bắc lên trời hùng vĩ . Tính đa dạng, phong
phú của văn hoá thể hiện cả ở văn hoá vật thể và phi vật thể [14, tr.18].
Cùng với bề dày về truyền thống văn hóa cũng như tinh thần tự lực, tự
cường, ham học hỏi, sáng tạo… nhân dân các dân tộc Lào Cai đã góp phần
tạo nên một nguồn nhân lực dồi dào phục vụ cho hoạt động phát triển kinh tế
đối ngoại của tỉnh nhà. Nó đã tạo ra cho hoạt động kinh tế đối ngoại những
thuận lợi nhất định để phát triển bền vững ở hiện tại cũng như tương lai.
1.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA TỈNH LÀO CAI
TRƯỚC NĂM 2001
Từ khi tái lập tỉnh cho đến năm 2001, cũng như các ngành kinh tế khác,
kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai vẫn còn ở mức xuất phát điểm thấp, tốc độ
phát triển chậm, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn và lạc hậu. Toàn tỉnh
mới chỉ có khoảng 20 chợ lớn nhỏ, gần 1000 hộ kinh doanh thương mại (chủ
yếu ở địa bàn đô thị) và 8 doanh nghiệp thương mại nhà nước với số vốn bình
quân chỉ có trăm triệu đồng mỗi doanh nghiệp [11, tr.89]. Cũng như các tỉnh
miền núi khác, thị trường kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai buổi ban đầu vẫn
còn bị chia cắt mạnh, cả hệ thống mang nặng tính tự nhiên về tất cả các mặt.

Hoạt động xuất, nhập khẩu về cơ bản chỉ diễn ra nhỏ lẻ, chưa được nhà nước
quản lý chặt chẽ. Năm 1991, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam tại
cửa khẩu Lào Cai chỉ là nguyên liệu thô chưa qua chế biến, tính cạnh tranh

17


thấp, phải phụ thuộc nhiều và chính sách biên mậu của của Trung Quốc. Còn
hàng nhập khẩu trong thời gian này chủ yếu là hóa chất, thiết bị máy móc,
chất lượng không được đảm bảo, thiếu sự quản lý của các cơ quan chức năng
[25, tr.135]. Bên cạnh đó, hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn
chưa được Đảng bộ tỉnh quan tâm rõ ràng, chưa có nhiều chính sách ưu tiên
để thu hút vốn đần tư nước ngoài.
Cũng chính bởi lẽ đó, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong năm
1991 chỉ đạt một trăm tỷ đồng, năm 2000 cũng mới chỉ đạt 490 tỷ đồng. Thời
kỳ trước năm 1989 khi tỉnh Lào Cai chưa có chính sách ưu đãi phát triển kinh
tế cửa khẩu thì hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhật cảnh còn nhỏ lẻ, tổng
kim ngạch xuất nhập khập khẩu chỉ đạt 2,6 triệu USD – một con số quá nhỏ
bé. Đến năm 1992 kim ngạch xuất khẩu là 9,4 triệu USD, năm 2000 đạt 95
triệu USD, tuy có sự tăng trưởng rõ rệt xong vẫn còn thấp, chưa thực sự đột
phá [18, tr.30]. Hơn nữa hệ thống các cửa khẩu quốc tế vẫn còn nhỏ hẹp, điều
kiện để đảm bảo giao thương vẫn còn nhiều hạn chế. Thị trường trao đổi lưu
thông hàng hóa trong thời gian này được đánh giá là chưa sôi động và có phần
trầm lắng. Từng ấy thời gian cũng là từng ấy tháng ngày trắc trở khó khăn,
đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Lào Cai phải xây dựng được bước phát triển đột phá để
đưa ngành kinh tế đối ngoại của tỉnh lên một tầm cao mới.
Chính những số liệu cụ thể của hoạt động kinh tế đối ngoại trước năm
2001 đã cho chúng ta thấy rõ được cơ sở để Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo
hoạt động kinh tế đối ngoại của tỉnh giai đoạn 2001 – 2006. Bởi lẽ, khi dựa
trên những số liệu cụ thể này Đảng bộ tỉnh sẽ đánh giá được tỉnh hình hiện

tại, đồng thời đưa ra được nững nhận xét về thuận lợi cũng như hạn chế của
hoạt động kinh tế đối ngoại của tỉnh. Trên cơ sở đó, Đảng bộ tỉnh sẽ tiến hành
hoạch định chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế đối ngoại trong giai đoạn
sau. Hay nói cách khác, thực trạng kinh tế đối ngoại của tỉnh Lào Cai trước

18


năm 2001 sẽ là nền tảng để hoạt động kinh tế đối ngoại giai đoạn 2001 –
2006 phát triển.
1.3.CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ LÃNH ĐẠO KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Đảng và Nhà nước Việt Nam rất chú trọng quan tâm đến vấn đề phát
triển kinh tế đối ngoại. Trong suốt quá trình xây dựng đất nước, mặc dù tình
hình thế giới và khu vực có nhiều biến chuyển phức tạp nhưng thông qua các
kỳ đại hội, Đảng luôn có những nhận thức đúng đắn về tình hình chung cũng
như luôn định hướng được những chính sách để phát triển kinh tế đối ngoại
cho nước nhà.
Tại Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đưa ra
chủ trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học
kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế
trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác". Tới Đại
hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các
quốc gia, các tổ chức kinh tế". Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu
được đề cập trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc “chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa” [15, tr.18]. Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX
đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/T


“Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Tại Đại

hội X, Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/T

“ ề một số

chủ trương, chính sách lớn để nền inh tế phát triển nhanh và ền v ng hi
iệt am là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối
ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất
19


quan trọng là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập kinh tế
quốc tế” của các kỳ đại hội trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách
toàn diện là một phát triển quan trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại
hội XI [15, tr.21].
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/T

về hội nhập quốc

tế. Đây là văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất
nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Nghị quyết đã xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên
nhiều lĩnh vực, đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô
hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế.
Xuyên xuốt quá trình xây dựng đất nước đồng thời thông qua các kỳ
đại hội của Đảng ta có thể thấy những quan điểm cụ thể của Đảng về vấn đề

hội nhập kinh tế trên cơ sở giữ gìn chủ quyền dân tộc như sau:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ vững độc
lập dân tộc và chủ quyền đất nước; khẳng định mở cửa, hội nhập để khai thác
các mặt có lợi cho sự phát triển kinh tế của ta từ nền kinh tế thế giới.
Thứ ba, chúng ta chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là
chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế
mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời
thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
Thứ tư, chúng ta phải nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây
dựng đồng bộ thị trường trong nước (thị trường hàng hoá, thị trường nhân lực,
thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản), để đủ sức hội nhập với khu vực và
hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác.

20


×