Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý của lợn mắc tiêu chảy do virus (porcine epidemic diarrhea ped) trên địa bàn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ðẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI





NGUYỄN THỊ SEN



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ðẶC ðIỂM BỆNH LÝ CỦA LỢN
MẮC TIÊU CHẢY DO VIRUS (PORCINE EPIDEMIC
DIARRHEA - PED) TRÊN ðỊA BÀN TỈNH BẮC NINH



CHUYÊN NGÀNH : THÚ Y
MÃ SỐ : 60.64.01.01



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN HỮU NAM




HÀ NỘI - 2013
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
i



LỜI CAM ðOAN

Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn
này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ bất kỳ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Sen











Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
ii

LỜI CẢM ƠN



Để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của nhiều cá nhân và tập thể, nhân dịp hoàn thành
luận văn tốt nghiệp cho phép tôi được tỏ lòng biết ơn và cảm ơn chân thành tới:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, ban Chủ nhiệm khoa
Thú y, các thầy giáo, cô giáo đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi học tập, tiếp
thu kiến thức của chương trình học.
Hoàn thành luận văn này tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các
thầy giáo, cô giáo trong Bộ môn Bệnh lý. Đặc biệt là Thầy hướng dẫn khoa học
PGS. TS. Nguyễn Hữu Nam đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu,
xây dựng luận văn và hoàn thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Nông nghiệp và PTNT, Trạm Thú y các
huyện Tiên Du, Quế Võ, Lương Tài tỉnh Bắc Ninh, cùng toàn thể đồng nghiệp
cùng bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi thực hiện đề tài.
Nhân dịp hoàn thành luận văn tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
gia đình, người thân cùng toàn thể bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi
trong suốt thời gian qua.

Hà Nội, ngày tháng năm 2013

Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Sen


Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
iii


MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng v
Danh mục hình vi
Danh mục ảnh vii
Danh mục viết tắt viii
MỞ ðẦU 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY 3
1.1.1. Đặc điểm sinh lý tiêu hóa của lợn 4
1.1.2. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn 6
1.1.3. Cơ chế sinh bệnh của hội chứng tiêu chảy 11
1.1.4. Bệnh lý lâm sàng của hội chứng tiêu chảy 11
1.1.5. Hậu quả của viêm ruột tiêu chảy 12
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH TIÊU CHẢY DO VIRUS
(PORCINE EPIDEMIC DIARRHEA - PED) GÂY RA TRÊN LỢN 13
1.2.1. Lịch sử bệnh 13
1.2.2. Một số đặc điểm của virus PEDV 14
1.2.3. Dịch tễ học 15
1.2.4. Triệu chứng của lợn mắc tiêu chảy do virus (PED) 16
1.2.5. Bệnh tích của lợn mắc tiêu chảy do virus (PED) 17
1.2.6. Chẩn đoán 18
1.2.7. Phòng và kiểm soát bệnh 21
1.2.8. Điều trị bệnh 22
1.3. MỘT SỐ HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ HUYẾT HỌC 24
Chương 2. ðỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
2.1. Đối tượng, địa điểm, nguyên liệu nghiên cứu. 29
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu: 29

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu: 29
2.1.3. Nguyên liệu nghiên cứu: 29
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
iv

2.2. Nội dung nghiên cứu 29
2.3. Phương pháp nghiên cứu 30
2.3.1. Phương pháp xác định triệu chứng lâm sàng và bệnh tích 30
2.3.2. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi 30
2.3.3. Phương pháp điều tra lấy mẫu 30
2.3.4. Phương pháp xác định các chỉ tiêu huyết học. 31
2.3.5. Phương pháp làm tiêu bản vi thể: 32
2.3.6. Phương pháp xử lý số liệu 34
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 35
3.1. Kết quả xác định tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn do virus (PED) 35
3.1.1. Kết quả xác định tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn do virus(PED) của 3
huyện điều tra. 35
3.1.2. Kết quả xác định tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn do virus (PED) theo lứa
tuổi 37
3.1.3. Kết quả xác định tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn do virus (PED) theo
điều kiện vệ sinh thú y 40
3.2. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu huyết học của lợn mắc tiêu chảy
do virus (PED). 42
3.2.1. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu hồng cầu của lợn mắc tiêu chảy do
virus (PED) 43
3.2.2. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu bạch cầu của lợn mắc tiêu chảy
do virus (PED) 45
3.3. Kết quả nghiên cứu triệu chứng chủ yếu của lợn mắc tiêu chảy do
virus (PED) 47
3.4 . Kết quả nghiên cứu bệnh tích đại thể của lợn mắc tiêu chảy do

virus (PED) 49
3.5. Kết quả nghiên cứu bệnh tích vi thể của lợn mắc tiêu chảy do
virus (PED) 52
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 61
KẾT LUẬN 61
KIẾN NGHỊ 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết, tỷ lệ tử vong ở lợn do virus (PED) của 3
huyện điều tra 35
Bảng 3.2. Tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết, tỷ lệ tử vong ở lợn do virus (PED) theo lứa
tuổi 37
Bảng 3.3. Tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết, tỷ lệ tử vong ở lợn do virus (PED) theo điều
kiện vệ sinh thú y 40
Bảng 3.4. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu hồng cầu của lợn mắc tiêu chảy
do virus (PED) 43
Bảng 3.5. Kết quả khảo sát chỉ tiêu bạch cầu của lợn mắc tiêu chảy do virus (PED) 46
Bảng 3.6. Triệu chứng của lợn mắc tiêu chảy do virus (PED) 48
Bảng 3.7. Bệnh tích đại thể của lợn mắc tiêu chảy do virus (PED) 50
Bảng 3.8. Kết quả nghiên cứu bệnh tích vi thể ở ruột của lợn mắc tiêu chảy
do virus (PED) 53
Bảng 3.9. Bệnh tích vi thể ở một số cơ quan của lợn con mắc tiêu chảy do
virus (PED) 56
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
vi


DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1: So sánh tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn do virus (PED) của 3 huyện điều tra 37
Hình 3.2: So sánh tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn do virus (PED) theo lứa tuổi 40
Hình 3.3: So sánh tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn do virus PED theo điều kiện vệ sinh
thú y 42


Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
vii

DANH MỤC CÁC ẢNH

Ảnh 1: Lợn gầy yếu mất nước nghiêm trọng
51
Ảnh 2: Lợn suy yếu, lông dựng 51
Ảnh 3: Tiêu chảy phân vàng
51
Ảnh 4: Ruột sung huyết nghiêm trọng 51
Ảnh 5: Hạch ruột sung huyết, xuất huyết 51
Ảnh 6: Ruột căng phồng chứa đầy hơi 51
Ảnh 7: Sung huyết hạ niêm mạc ruột HE 10x 59
Ảnh 8: Ruột lợn mắc PED lông nhung tù đầu nhuộm HE 10x 59
Ảnh 9: Ruột thấm nước phù ở hạ niêm mạc ruột nhuộm HE 10x
59
Ảnh 10: Ruột thâm nhiễm tế bào viêm ở hạ niêm mạc nhuộm HE 10x 59
Ảnh 11: Lông nhung ruột bong tróc nhuộm HE 10x 59
Ảnh 12: Lông nhung ruột tù đầu, thâm nhiễm tế bào viêm ở hạ niêm mạc
ruột nhuộm HE 10x 59
Ảnh 13: Thâm nhiễm tế bào viêm ở kẽ tuyến ruột

60
Ảnh 14: Hoại tử tế bào biểu mô ruột nhuộm HE 20x 60
Ảnh 15: Ruột lợn thâm nhiễm tế bào viêm ở hạ niêm mạc nhuộm HE 20x 60
Ảnh 16: Gan sung huyết, hồng cầu tràn ngập vi quản xuyên tâm HE 20x 60
Ảnh 17: Tế bào gan thoái hóa mỡ nhuộm HE 20x
60
Ảnh 18: Sung huyết phổi nghiêm trọng nhuộm HE 10x 60


Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
viii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

C.perfringens Clostridium perfringens
EDV: Epidemic Viral Diarhea
E.coli Escherichia coli
HGB: Hàm lượng huyết sắc tố
Lượng HSTBQ: Lượng huyết sắc tố bình quân
PED: Porcine Epidemic Diarrhea
PEDV: Porcine Epidemic Diarrhea Virus
TGE: Transmissible Gastro Enteritis
TGEV: Transmissible Gastroenteritis Enteritis Virus
Vbq: Thể tích bình quân
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
1

MỞ ðẦU
Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta đã có những bước
phát triển đáng kể. Với những tiến bộ vượt bậc trong công tác giống, thức ăn,

thuốc phòng và trị bệnh từng bước đáp ứng một lượng thực phẩm lớn cho nhu
cầu thực phẩm trong nước và tiến tới xuất khẩu, trong đó có chăn nuôi lợn. Cùng
với sự phát triển chung của cả nước, ngành chăn nuôi của tỉnh Bắc Ninh cũng đã
có những bước phát triển khá cả về chất lượng, số lượng, nhiều tiến bộ khoa học
kỹ thuật mới đã được áp dụng vào sản xuất. Phương thức chăn nuôi đã có sự
chuyển dịch tích cực, từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi gia trại và trang trại tập
trung công nghiệp, sản xuất theo hướng hàng hoá. Sản phẩm chăn nuôi không
những đáp ứng được nhu cầu về thực phẩm cho người dân trong tỉnh mà còn
cung cấp một phần cho thủ đô Hà Nội và các tỉnh, thành phố khác, góp phần tích
cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh, tạo công ăn việc
làm cho nhiều lao động, nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Tuy nhiên, sản xuất chăn nuôi của tỉnh về cơ bản vẫn là sản xuất nhỏ,
phân tán trong khu dân cư; năng suất, sản lượng chăn nuôi còn thấp; tình hình
dịch bệnh trong những năm vừa qua diễn biến rất phức tạp, ngoài những bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm thường gặp như Lở mồm long móng, Dịch tả, Tụ huyết
trùng, Phó thương hàn còn phải kể đến hội chứng tiêu chảy ở lợn.
Hội chứng tiêu chảy ở lợn với đặc điểm dịch tễ hết sức phức tạp đang gây
nên những thiệt hại to lớn, làm giảm năng suất, chất lượng đàn vật nuôi nói
chung và chăn nuôi lợn nói riêng. Hội chứng tiêu chảy xảy ra ở các giống lợn và
ở mọi lứa tuổi: lợn nái sinh sản, lợn con theo mẹ và lợn sau cai sữa. Bệnh thường
xuyên xảy ra khi xuất hiện các yếu tố bất lợi với sức đề kháng của cơ thể như:
lợn con sinh ra không được bú sữa kịp thời hoặc do sữa đầu của lợn mẹ thiếu,
không đảm bảo chất dinh dưỡng; thời điểm cai sữa, các yếu tố stress tạo điều
kiện cho bệnh bùng phát sau khi cai sữa lợn con, có thể do vận chuyển mua bán
lợn con; sắp xếp lại đàn; thay đổi thức ăn đột ngột; lợn con bị lạnh…trong đó có
nguyên nhân tiêu chảy do virus (porcine epidemic diarrhea - PED). Lợn mắc tiêu
chảy do virus PED chủ yếu xảy ra ở giai đoạn lợn con từ sơ sinh đến cai sữa, ở
giai đoạn này lợn con còn yếu, khả năng chống chịu bệnh tật kém. Bệnh tiêu
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
2


chảy do virus (PED) đang là một trong những vấn đề rất được quan tâm do
thiệt hại nghiêm trọng trên đàn lợn con không có kháng thể với bệnh này. Trên
đàn lợn con nhỏ hơn 1 tuần tuổi có những triệu chứng tiêu chảy, gây chết nhanh
và rất khó hồi phục, thiệt hại có thể đến 100% toàn đàn, làm giảm năng suất và
hiệu quả chăn nuôi. Mặt khác, phần lớn người chăn nuôi vẫn chưa quan tâm thỏa
đáng đến việc phòng bệnh, đặc biệt đối với các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ lẻ nên
thiệt hại do virus gây ra càng lớn.
Xuất phát từ thực tiễn sản xuất, nhằm mục đích hiểu rõ về bệnh chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số ñặc ñiểm bệnh lý của lợn
mắc tiêu chảy do virus (porcine epidemic diarrhea - PED) trên ñịa bàn tỉnh
Bắc Ninh”.
Mục tiêu của ñề tài.
Làm rõ được các đặc điểm bệnh lý của lợn mắc tiêu chảy do virus
(porcine epidemic diarrhea - PED) làm cơ sở đưa ra các biện pháp phòng bệnh có
hiệu quả.


Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
3

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY
Tiêu chảy là một biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù ở
đường tiêu hóa. Biểu hiện lâm sàng tùy theo đặc điểm, tính chất, diễn biến, độ
tuổi mắc bệnh. Tùy theo yếu tố nào được xem là nguyên nhân chính mà nó được
gọi với nhiều tên khác nhau: Bệnh lợn con ỉa phân trắng, bệnh tiêu chảy sau cai
sữa, chứng khó tiêu, chứng rối loạn tiêu hóa hay Colibacillosis, Salmonellosis,…
hoặc tiêu chảy là triệu chứng thường gặp ở nhiều bệnh ký sinh trùng, bệnh do

virus, bệnh do vi khuẩn.
Tiêu chảy thường gặp ở gia súc, đã và đang gây thiệt hại lớn cho ngành
chăn nuôi. Trong lịch sử nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy, nhiều tác giả đã
nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân gây ra hội chứng tiêu chảy. Tuy nhiên, tiêu
chảy là một hiện tượng bệnh lý, có liên quan đến rất nhiều các yếu tố, có yếu tố
là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Việc phân biệt
rạch ròi nguyên nhân gây tiêu chảy không đơn giản. Ngày nay, người ta thống
nhất rằng, phân loại nguyên nhân gây tiêu chảy chỉ có ý nghĩa tương đối, chỉ nêu
lên yếu tố nào là chính, xuất hiện đầu tiên, yếu tố nào là phụ xuất hiện sau, từ đó
vạch ra phác đồ phòng và điều trị bệnh có hiệu quả. Nhưng cho dù bất cứ nguyên
nhân nào dẫn đến tiêu chảy thì hậu quả của nó cũng gây ra viêm nhiễm, tổn
thương thực thể đường tiêu hóa và cuối cùng là nhiễm trùng.
Theo Fairbrother J.M. (1992) tiêu chảy là một bệnh gây thiệt hại đáng kể
cho ngành chăn nuôi lợn.
Theo Nguyễn Lương (1963), Trịnh Văn Thịnh (1985), Lê Minh Chí
(1995) lợn bị tiêu chảy thường mất nước, mất chất điện giải và kiệt sức. Những
lợn khỏi thường bị còi cọc, thiếu máu, chậm lớn hoặc hiện tượng viêm nhiễm,
tổn thương thực thể đường tiêu hóa và cuối cùng là quá trình nhiễm trùng dẫn
đến lợn chết với tỷ lệ cao, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Đó cũng là nguyên nhân
làm cho hiệu quả chăn nuôi không cao.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
4

Đoàn Thị Băng Tâm (1987), Sử An Ninh (1993), Lê Văn Tạo và cs.
(1993), Phan Thanh Phượng và cs. (1995) cho biết ở nước ta bệnh tiêu chảy xảy
ra quanh năm, đặc biệt vào vụ đông xuân, khi thời tiết thay đổi đột ngột và vào
những giai đoạn chuyển mùa trong năm.
Khi nghiên cứu về tình hình dịch tễ, các nhà khoa học đã nhận xét bệnh
tiêu chảy xảy ra ở mọi nơi, mọi lúc trên thế giới (Lecce J.G., 1976); (Griffin
J.F.T., 1989).

Kết quả nghiên cứu của Hoàng Văn Tuấn và cs. (1998) cho thấy bệnh tiêu
chảy xảy ra ở mọi lứa tuổi, từ sơ sinh cho đến độ tuổi sinh sản, nhưng trầm trọng
nhất là ở lợn sơ sinh đến cai sữa.
1.1.1. ðặc ñiểm sinh lý tiêu hóa của lợn
1.1.1.1. ðặc ñiểm tiêu hóa của lợn con
Ở gia súc non sau khi sinh ra, chức năng của các cơ quan trong cơ thể nhất
là cơ quan tiêu hóa chưa hoàn chỉnh, nồng độ HCl và các men tiêu hóa chưa đảm
nhiệm đầy đủ chức năng tiêu hóa, rất dễ gây rối loạn trao đổi chất, hậu quả dễ
nhận biết là rối loạn tiêu hóa, gây tiêu chảy, còi cọc, thiếu máu và chậm lớn.
Trong dịch vị của gia súc non chưa có đủ axit HCl tự do nên không hoạt hóa
được men pepsin vì vậy không tiêu hóa hết sữa mẹ, trong khi đó sữa mẹ lại là
môi trường phát triển tốt của nhiều loại vi khuẩn.
Ở lợn con, có giai đoạn không có HCl trong dạ dày, đây đượ
c coi
là giai đoạn thích ứng cần thiết tự nhiên. Chính nhờ sự thích ứng này, cơ thể lợn
con mới có khả năng hấp thu được kháng thể miễn dịch qua sữa đầu. Trong giai
đoạn này dịch vị lại không có hoạt tính phân giải protein mà chỉ có hoạt tính làm
vón sữa đầu và sữa. Albumin và Globulin được chuyển xuống ruột và thẩm thấu
vào máu. Nhưng trên 14 - 16 ngày tuổi, tình trạng thiếu HCl ở dạ dày không còn
là sự cần thiết sinh lý bình thường nữa. Việc tập ăn cho lợn con sớm và cai sữa
sớm đã rút ngắn được giai đoạn thiếu HCl, hoạt hóa hoạt động tiết dịch, giúp tăng
khả năng tạo các đáp ứng miễn dịch của cơ thể.

Nhưng giai đoạn sau cai sữa là một giai đoạn khó khăn đối với lợn con khi
chuyển từ sữa mẹ sang thức ăn ở dạng rắn. Điều đó có thể gây mất cân bằng hệ vi
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
5

sinh vật đường ruột tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại phát triển và cũng là
nguyên nhân gây ra bệnh, dẫn đến kết quả là lợn con chậm lớn và có thể chết.

Ngoài ra, lợn con còn chịu nhiều tác động của lợn mẹ, sự thay đổi ngoại
cảnh cũng góp phần làm tăng stress của lợn con.
1.1.1.2. Khả năng ñáp ứng miễn dịch của lợn con
Là khả năng của cơ thể đáp ứng lại các kích thích của mầm bệnh khi xâm
nhập vào cơ thể. Ở gia súc non, mầm bệnh có nhiều thuận lợi khi xâm nhập vào cơ
thể. Trong hệ thống tiêu hóa của lợn con lượng enzym tiêu hóa và lượng HCl tiết
ra còn ít chưa đủ để đáp ứng cho quá trình tiêu hóa, gây rối loạn trao đổi chất, tiêu
hóa và hấp thu kém. Chính vì vậy, ở giai đoạn này mầm bệnh như Salmonella,
E.Coli…dễ dàng xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa và gây bệnh.
Ngoài ra, ở gia súc non các yếu tố miễn dịch không đặc hiệu như: Bổ thể,
protein liên kết, lymsozim được tổng hợp còn ít, phản ứng của đại thực bào rất
yếu, vì thế ở gia súc non không những chưa có kháng thể đặc hiệu mà kháng thể
phi đặc hiệu cũng rất yếu. Chính vì vậy lợn con bú sữa đầu là rất cần thiết để tăng
sức bảo vệ cơ thể, chống lại mầm bệnh.
Với gia súc non mức độ đáp ứng miễn dịch được xác định không chỉ phụ
thuộc vào sự có mặt của kháng thể mà còn phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng của hệ
thống miễn dịch đối với phản ứng.
Chính do cấu tạo đặc biệt của gia súc non nên tiêu chảy thường xảy ra ở
giai đoạn lợn con tập ăn và cai sữa. Bên cạnh đó còn một yếu tố quan trọng nữa
là sự phát triển của hệ vi sinh vật trong đường ruột của gia súc non, việc cân bằng
hệ vi sinh vật có lợi trong đường ruột như thế nào để khắc phục, hạn chế sự loạn
khuẩn trong quá trình phát triển và trưởng thành của cơ thể gia súc non là rất
quan trọng.
Để nuôi dưỡng tốt và hạn chế được hội chứng tiêu chảy ở lợn con cần
tiêm phòng cho lợn mẹ và tạo cho gia súc non điều kiện sống tốt, tránh các yếu tố
bất lợi tác động vào cơ thể như: chế độ ăn uống không hợp lý, khẩu phần thức ăn
không đảm bảo dinh dưỡng, ăn không đúng giờ, thời tiết thay đổi đột ngột, chế
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
6


độ chăm sóc không thích hợp sẽ tạo điều kiện cho mầm bệnh xâm nhập vào cơ
thể gây bệnh.
1.1.2. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn
Tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý có liên quan đến nhiều yếu tố, có yếu
tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Vì vậy, việc
phân biệt rạch ròi giữa các nguyên nhân gây tiêu chảy là rất khó khăn.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân gây nên hội chứng tiêu
chảy, có thể là nguyên phát hay thứ phát. Dưới đây là một số nguyên nhân cơ bản:
1.1.2.1. Do môi trường ngoại cảnh
Môi trường ngoại cảnh là một trong 3 yếu tố cơ bản gây ra bệnh dịch, mối
quan hệ giữa cơ thể - mầm bệnh - môi trường là nguyên nhân của sự không ổn
định về sức khỏe, đưa đến phát sinh bệnh (Nguyễn Như Thanh, 2001).
Môi trường ngoại cảnh bao gồm các yếu tố: nhiệt độ, ẩm độ, các điều kiện
về chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh chuồng trại, sự di chuyển, thức ăn, nước uống…
Khi gia súc bị nhiễm lạnh kéo dài làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác
dụng thực bào, làm cho gia súc dễ bị nhiễm khuẩn và gây bệnh. Khẩu phần ăn
cho vật nuôi không thích hợp, thức ăn kém chất lượng như thối, mốc và nhiễm
các tạp chất, các vi sinh vật có hại dễ dẫn đến rối loạn tiêu hóa kèm theo viêm
ruột, ỉa chảy ở gia súc.
Khi gặp điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi, thay đổi đột ngột về thức
ăn, vitamin, protein, thời tiết, vận chuyển…làm giảm sức đề kháng của con vật
thì vi khuẩn thường trực sẽ tăng độc tố và gây bệnh (Bùi Quý Huy, 2003).
Đào Trọng Đạt và cs. (1996); Phạm Khắc Hiếu và cs. (1998) cũng cho
rằng các yếu tố stress lạnh, độ ẩm ảnh hưởng rất lớn đến lợn sơ sinh, lợn con vài
ngày tuổi. Độ ẩm thích hợp cho lợn là từ 75% đến 85%. Việc làm khô và giữ ấm
chuồng nuôi là vô cùng quan trọng.
Sử An Ninh (1981); Niconxki V.V. (1986); Phạm Khắc Hiếu và cs. (1998)
cho rằng các yếu tố khí hậu, thời tiết không thuận lợi là yếu tố tác động rất mạnh
đến quá trình loạn khuẩn ở lợn và là nguyên nhân gây ra bệnh tiêu chảy.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp

7

Như vậy, nguyên nhân môi trường ngoại cảnh gây tiêu chảy không mang
tính đặc hiệu mà mang tính tổng hợp. Lạnh và ẩm gây rối loạn hệ thống điều tiết
trao đổi nhiệt của cơ thể lợn, dẫn đến rối loạn quá trình trao đổi chất, làm giảm
sức đề kháng của cơ thể, từ đó các mầm bệnh trong đường tiêu hóa có thời cơ
tăng cường độc lực và gây bệnh.
1.1.2.2. Chế ñộ chăm sóc nuôi dưỡng không ñúng kỹ thuật
Thức ăn kém chất lượng, ôi thiu, khó tiêu,…là nguyên nhân gây ỉa chảy ở
gia súc. Thức ăn thiếu các chất khoáng, vitamin cần thiết cho cơ thể, đồng thời
phương thức chăn nuôi không phù hợp sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể gia
súc và tạo cơ hội cho các vi khuẩn đường tiêu hóa phát triển và gây bệnh (Hồ
Văn Nam và cs., 1997).
Theo Hoàng Văn Tuấn (1998); Đoàn Kim Dung (2003); cho rằng: Tỷ lệ
mắc tiêu chảy trong một số cơ sở chăn nuôi lợn phụ thuộc vào điều kiện chăm
sóc, vệ sinh thú y, còn tỷ lệ chết, mức độ trầm trọng của bệnh ở một đàn phụ
thuộc vào giai đoạn mắc bệnh.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1985) trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn,
nếu chuồng nuôi đảm bảo vệ sinh sạch sẽ, thoáng khí, khô ráo sẽ là giảm tỷ lệ
bệnh đường tiêu hóa.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1985); Đào Trọng Đạt và cs. (1995) trong quy
trình kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng lợn thì công tác chăm sóc, nuôi dưỡng lợn
con và lợn mẹ đúng kỹ thuật phù hợp với lứa tuổi là yếu tố quan trọng quyết định
đến tỷ lệ tiêu chảy cao hay thấp, trong thành phần và sự cân đối các chất dinh
dưỡng trong khẩu phần đóng vai tò quan trọng.
Theo Phan Thanh Phượng và cs. (1988) trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng,
cần cho lợn nái ăn thức ăn giàu đạm, vitamin và đủ nguyên tố vi lượng. Khi lợn con
mới sinh cần cho bú sữa đầu, sau đó tập ăn sớm cho lợn, sau cai sữa cần phải cho lợn ăn
thức ăn đủ số lượng và chất lượng phù hợp với đặc điểm sinh lý lứa tuổi.
1.1.2.3. Tiêu chảy do vi khuẩn

Trong đường tiêu hóa của gia súc có hệ vi khuẩn gọi là hệ vi khuẩn đường
ruột, được chia thành 2 loại, trong đó vi khuẩn có lợi tác dụng lên men phân giải
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
8

các chất dinh dưỡng giúp cho quá trình tiêu hóa được thuận lợi và vi khuẩn có
hại thì khi có điều kiện thuận lợi sẽ gây bệnh.
Họ vi khuẩn đường ruột là họ vi khuẩn cộng sinh thường trực trong đường
ruột. Họ vi khuẩn này muốn từ vi khuẩn cộng sinh trở thành vi khuẩn gây bệnh
thì phải có 3 điều kiện.
- Trên cơ thể vật chủ có cấu trúc giúp cho vi khuẩn thực hiện được chức
năng bám dính.
- Vi khuẩn phải có khả năng sản sinh các yếu tố gây bệnh, đặc biệt sản
sinh độc tố, trong đó quan trọng nhất là độc tố đường ruột Enterotoxin.
- Có khả năng xâm nhập vào lớp tế bào biểu mô của niêm mạc ruột và từ
đó phát triển lên.
Một số vi khuẩn thuộc họ vi khuẩn đường ruột là E.coli, Salmonella
sp.shigella, Klebsiella, Clostridium perfringens…đó là những vi khuẩn quan
trọng, gây rối loạn tiêu hóa, viêm ruột tiêu chảy ở người và nhiều loài động vật.
Đào Trọng Đạt và cs. (1996) cho biết: chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các vi
khuẩn đường ruột gây tiêu chảy là E.coli (45,6%). Cũng theo tác giả, vi khuẩn
yếm khí C. perfringens gây bệnh khi có điều kiện thuận lợi và khi nó trở thành
vai trò chính.
Cù Hữu Phú và cs. (1999) khi nghiên cứu về E.coli và Salmonella ở lợn
tiêu chảy cho biết tỷ lệ phát hiện E.coli độc trong phân là 80 -90% số mẫu xét
nghiệm.
Phan Thanh Phượng và cs. (1996) vi khuẩn yếm khí C. perfringens là một
trong những tác nhân gây bệnh quan trọng trong hội chứng tiêu chảy của lợn ở
lứa tuổi từ 1-120 ngày tuổi. Ở lợn con theo mẹ, tỷ lệ mắc bệnh do vi khuẩn này
gây ra có thể đến 100% và tỷ lệ chết là 60%.

Hồ Văn Nam và cs. (1997); Archie.H (2000) nhấn mạnh: vi khuẩn đường
ruột có vai trò không thể thiếu được trong hội chứng tiêu chảy.
Nguyễn Như Pho (2003) cho rằng, khả năng gây bệnh của các loại vi
khuẩn đối với lứa tuổi lợn khác nhau. Đối với lợn con theo mẹ, lợn sau cai sữa
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
9

hoặc giai đoạn đầu nuôi thịt thì tỷ lệ mắc tiêu chảy do Salmonella cao hơn; giai
đoạn lúc sơ sinh đến sau cai sữa thường do E. coli; lứa tuổi 6-12 tuần tuổi thì
thường do xoắn khuẩn Treponema hyodysenterriae; vi khuẩn yếm khí C.
perfringens thường gây bệnh nặng cho lợn con theo mẹ trong khoảng 1 tuần tuổi
đến cai sữa.
1.1.2.4. Tiêu chảy do virus
Virus cũng là tác nhân gây bệnh tiêu chảy ở lợn. Sự xuất hiện của virus
làm tổn thương niêm mạc ruột, làm suy giảm sức đề kháng của cơ thể và thường
gây ỉa chảy ở dạng cấp tính với tỷ lệ chết cao.
Khooteng Hoat (1995) đã thống kê có hơn 10 loại virus có tác động làm
tổn thương đường tiêu hóa, gây viêm ruột ỉa chảy như: Enterovirus, Rotavirus,
Coronavirus, virus dịch tả lợn
Rotavirus và Coronavirus là những virus gây tiêu chảy quan trọng ở gia
súc non mới sinh như nghé, dê, cừu con, lợn con, ngựa con và đặc biệt là bê do
những virus này có khả năng phá hủy màng ruột và gây tiêu chảy nặng
(Archie.H, 2000).
Lecce J.G (1976); Nilson O (1984) nghiên cứu về virus gây bệnh đường
tiêu hóa đã xác định được vai trò của Rotavirus trong hội chứng tiêu chảy ở lợn.
Các nghiên cứu trong nước của Nguyễn Như Pho (2003) cũng đã cho
rằng: Rotavirus và Coronavirus gây bệnh tiêu chảy chủ yếu cho lợn con trong
giai đoạn theo mẹ, với các triệu chứng tiêu chảy cấp tính, nôn mửa, mất nước với
tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết cao.
Theo Bergenland H.U (1992) trong số những mầm bệnh thường gặp ở lợn

trước và sau cai sữa bị bệnh tiêu chảy có rất nhiều loại vi rút, 29% phân lợn bệnh
tiêu chảy phân lập được Rotavirus, 11,2% có vi rút TGE, 2% có Enterovirus,
0,7% có Parvovirus.
1.1.2.5. Tiêu chảy do nấm mốc
Thức ăn khi chế biến hoặc bảo quản không đúng kỹ thuật dễ bị nấm mốc.
Một số loài như: Aspergillus, Penicillium, Fusarium…có khả năng sản sinh
nhiều loại độc tố Afratoxin (Afratoxin B1, B2, G1, G2, M1).
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
10

Độc tố Afratoxin gây độc cho người và gia súc gây bệnh nguy hiểm nhất
cho con người là ung thư gan, hủy hoại gan, độc cho thận, sinh dục và thần kinh.
Afratoxin gây độc cho nhiều loài gia súc, gia cầm, mẫn cảm nhất là vịt, gà, lợn
và các gia súc khác. Lợn khi nhiễm độc thường bỏ ăn, thiếu máu, vàng da, ỉa
chảy, ỉa chảy ra máu. Nếu trong khẩu phần có 500 - 700µg Afratoxin/kg thức ăn
sẽ làm cho lợn con chậm lớn, còi cọc, giảm sức đề kháng với các bệnh truyền
nhiễm khác (Lê Thị Tài, 1997).
1.1.2.6. Tiêu chảy do ký sinh trùng
Có nhiều loại ký sinh trùng gây bệnh tiêu chảy ở lợn như: Cầu trùng
Eimeria, Isospora suis, Crystosporidium, Ascaris suum, Trichuris suis…hoặc
một số loài giun tròn lớp Nematoda (Ascaris suum, Trichuris suis, Strongloides,
Haemonchus, mecistocirrus…).
Bệnh do Isospora suis, Crytosporidium thường tập trung vào giai đoạn
lợn con từ 5 - 25 ngày tuổi, còn ở lợn trên 2 tháng tuổi do cơ thể đã tạo được
miễn dịch đối với bệnh cầu trùng, nên lợn chỉ mang mầm bệnh mà ít khi xuất
hiện triệu chứng tiêu chảy (Nguyễn Như Pho, 2003).
Cầu trùng và một số loại giun tròn (giun đũa, giun tóc, giun lươn) là một
trong những nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn sau cai sữa nuôi trong các hộ gia
đình tại Thái Nguyên (Nguyễn Thị Kim Lan và cs., 2006a). Đặc điểm chủ yếu
của tiêu chảy do ký sinh trùng là con vật mắc bệnh tiêu chảy nhưng không liên

tục, có sự xen kẽ giữa tiêu chảy và bình thường, cơ thể thiếu máu, da nhợt nhạt,
gia súc kém ăn, thể trạng sa sút.
Tác giả Nguyễn Kim Thành (1999) cho biết trong đường ruột của lợn tiêu
chảy đã tìm thấy giun đũa ký sinh với lượng không nhỏ.
Theo Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng (1995) giun đũa ký sinh trong ruột
non của lợn là loài Ascarissuum. Giun đũa lợn phát triển và gây bệnh không cần
vật chủ trung gian, lợn trực tiếp nuốt phải trứng (ấu trùng gây nhiễm), khi vào cơ
thể lợn trứng sẽ thực hiện quá trình di hành và phát triển thành giun trưởng thành
ký sinh ở đường tiêu hóa.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
11

Theo Phạm Văn Khuê và Phạm Lục (1996) sán lá ruột lợn và giun đũa lợn
trong đường tiêu hóa, chúng làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa gây viêm
ruột ỉa chảy.
Theo Phan Địch Lân (1995) lợn nhiễm giun đũa với biểu hiện lâm sàng là
tiêu chảy vì giun đũa tác động bằng cơ giới gây viêm ruột, tiết độc tố để đầu độc và
chiếm đoạt thức ăn của cơ thể lợn, làm cho lợn con gầy yếu, chậm lớn, suy dinh
dưỡng, sinh trưởng phát dục chậm và không đầy đủ, sản phẩm thịt giảm đến 30%.
Như vậy, có thể thấy có rất nhiều nguyên nhân gây tiêu chảy, nhưng theo
chuyên gia chuyên nghiên cứu về bệnh tiêu chảy ở lợn như Lê Văn Tạo (1993)
thì dù nguyên nhân nào gây tiêu chảy cho lợn thì cuối cùng cũng là quá trình
nhiễm khuẩn, vi khuẩn kế phát làm viêm ruột, tiêu chảy nặng thêm, có thể dẫn
đến chết hoặc tiêu chảy viêm ruột mạn tính.
1.1.3. Cơ chế sinh bệnh của hội chứng tiêu chảy
Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh, đã tạo nên một áp lực lớn ở ống
tiêu hóa. Kết quả làm tăng nhu động ruột dẫn đến tiêu chảy. Đầu tiên tiêu chảy là
một phản xạ có lợi nhằm bảo vệ cơ thể, đẩy các tác nhân gây bệnh ra ngoài.
Nhưng do nguyên nhân gây bệnh không ngừng phát triển và kích thích tổn
thương niêm mạc, tiêu chảy kéo dài về sau tất yếu sẽ có hại cho cơ thể.

Theo Đào Trọng Đạt và cs. (1979) khi lợn con đi ngoài nhiều lần sẽ dẫn
tới tình trạng mất nước, gây rối loạn chức năng sinh lý tiêu hóa, hấp thu của ống
tiêu hóa.
Hồ Văn Năm và cs. (1997) cho biết, quá trình rối loạn càng trầm trọng
hơn khi hệ vi sinh vật trong ống tiêu hóa ở trạng thái mất cân bằng. Những vi
khuẩn có hại phát triển mạnh, vi khuẩn lên men gây thối phát triển nhanh chóng.
Cùng với sự phát triển về số lượng của vi khuẩn thì lượng độc tố do vi khuẩn tiết
ra cũng tăng nhiều hơn. Độc tố vào máu quá nhiều sẽ là rối loạn cơ năng giải độc
của gan và quá trình lọc thải của thận.
1.1.4. Bệnh lý lâm sàng của hội chứng tiêu chảy
Bệnh lý lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở gia súc là sự biến đổi về tổ
chức tình trạng mất nước và điện giải, trạng thái trúng độc của cơ thể bệnh.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
12

Về giải phẫu bệnh, nhiều tài liệu cho thấy viêm ruột ở gia súc thường là
thể cata - viêm chủ yếu ở niêm mạc ruột. Những trường hợp viêm dạ dày - ruột ở
tầng sâu là rất ít gặp.
Khi nghiên cứu về tiêu chảy ở lợn do vi khuẩn E.coli, Nguyễn Như Pho
(2003) cho rằng, ruột chỉ sung huyết, không thấy xuất huyết, không có vết loét
hoặc hoại tử như trong bệnh phó thương hàn.
Sự mất nước kéo theo mất các chất điện giải trong đó đặc biệt là các ion:
HCO
3
-
, K
+
, Na
+
, Cl

-
đồng thời khi gia súc bị rối loạn tiêu hóa cũng làm cản trở
đến khả năng tái hấp thu nước. Ở gia súc ỉa chảy nếu lượng dịch mất đi trong
đường ruột vượt quá lượng dịch đưa vào khi ăn, uống, thận sẽ cố gắng bù lại
bằng cách cô đặc nước tiểu để giảm lượng nước thải ra. Nếu thận không bù được,
mức dịch thể trong tổ chức bị giảm và máu bị đặc lại. Hiện tượng này gọi là mất
nước và triệu chứng lâm sàng là con vật yếu, bỏ ăn, thân nhiệt hạ thấp và có thể
trụy tim, mắt bị hõm sâu, nhìn lờ đờ, da khô, khi véo da lên nếp da chậm trở lại
vị trí cũ (Archie.H, 2000). Lợn bị tiêu chảy gầy sút nhanh, da nhăn, tính đàn hồi
kém; nếu tiêu chảy lâu ngày, lợn gầy nhô xương sống, da khô, lông dựng ngược.
Hiện tượng trúng độc xảy ra do thức ăn lên men phân giải, sinh độc tố, hệ
vi khuẩn đường ruột sinh sôi, sản sinh ra nhiều độc tố. Các độc tố đó cùng với
các sản phẩm của viêm, tổ chức bị phân hủy, ngấm vào máu, trước hết tác động
vào gan, làm cho chức năng gan bị rối loạn. Đồng thời, khi bị viêm ruột, cơ thể
không nhưng không hấp thu được nước do thức ăn đem vào mà còn bị mất nước
và điện giải do niêm mạc tăng tiết cùng dịch rỉ viêm, dịch tiết có thể tăng 80 lần
bình thường. Mặt khác, do ruột bị viêm, tính mẫn cảm tăng, nhu động ruột cũng
tăng lên nhiều lần. Gia súc bị tiêu chảy, đồng thời cũng kéo theo hàng loạt các
biến đổi bệnh lý khác nhau.
1.1.5. Hậu quả của viêm ruột tiêu chảy
Khi tác động vào cơ thể, từng nguyên nhân gây bệnh có quá trình sinh
bệnh và gây ra hậu quả cụ thể: Tuy nhiên, khi hiện tượng ỉa chảy xảy ra cơ thể
chịu một quá trình sinh bệnh và hậu quả có những nét đặc trưng chung, đó là sự
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
13

mất nước, mất các chất điện giải, rối loạn cân bằng axit - bazơ (Lê Minh Chí,
1995). Hiện tượng mất nước rất nghiêm trọng và có thể gây chết nếu như không
được điều chỉnh. Gia súc non dự trữ dịch thể tương đối thấp nên đặc biệt mẫn
cảm với sự mất nước. Chính vì vậy, biện pháp phòng chống và bù nước, điện giải

trong điều trị tiêu chảy luôn phải đặt lên hàng đầu (Archie.H, 2000).
Ở lợn bị tiêu chảy, khả năng tiêu hóa, khả năng chuyển hóa và hấp thu các
chất dinh dưỡng điều giảm nên lợn gầy còm, chậm tăng trọng, dễ dàng mắc các
bệnh khác (Phạm Sỹ Lăng và cs., 1997).
Ở lợn hiện tượng tiêu chảy thường có quá trình nhiễm khuẩn. Khi tiêu
chảy do nhiễm khuẩn, các triệu chứng trầm trọng và hậu quả để lại nặng nề hơn.
Bệnh có thể lây lan và kế phát nhiều bệnh khác, gây thiệt hại cho ngành chăn
nuôi. Như vậy, với mỗi một nguyên nhân gây bệnh khác nhau thì cũng để lại
nhưng hậu quả khác nhau.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH TIÊU CHẢY DO VIRUS
(PORCINE EPIDEMIC DIARRHEA - PED) GÂY RA TRÊN LỢN
1.2.1. Lịch sử bệnh
Năm 1971, một bệnh dịch cấp tính chưa được biết đến đã xảy ra trên đàn
lợn thịt và lợn nuôi vỗ béo ở nước Anh, với triệu chứng lâm sàng gần giống như
bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm (TGE) chỉ khác là dịch không xảy ra ở lợn
con theo mẹ. TGEV và một số tác nhân gây bệnh khác đã được loại trừ. Dịch đã
xảy ra lây lan khắp Châu Âu và được gọi với tên ”dịch tiêu chảy do virus”
(Epidemic Viral Diarrhea- EDV).
Năm 1976, nhiều vụ dịch tiêu chảy giống TGE đã xảy ra ở lợn mọi lứa tuổi
mà nguyên nhân gây bệnh không phải là TGEV và các tác nhân gây tiêu chảy đã
biết. Người ta gọi bệnh là ”EDV typ2” (gây bệnh cho cả lợn sơ sinh), để phân
biệt với dịch ”EDV typ 1” đã được biết đến năm 1971.
Năm 1978, tác nhân gây bệnh giống với Coronavirus đã phân lập được từ
dịch EDV typ 2, được coi là nguyên nhân gây bệnh và tên bệnh được đề nghị gọi
là Dịch tiêu chảy ở lợn (Porcine Epidemic Diarhea - PED). Tuy nhiên đến nay sự
khác biệt của EDV typ 1 và EDV typ 2 vẫn chưa được xác định.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
14

Từ năm 1982 đến năm 1990, kháng thể kháng virus gây dịch tiêu chảy ở

lợn (Porcine Epidemic Diarrhea Virus - PEDV) đã được phát hiện ở nhiều đàn
lợn ở Anh, Bỉ, Đức, Pháp, Hà Lan, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Bulgaria, Đài Loan.
Ngoài ra, một số nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái
Lan cũng ghi nhận đã phân lập được virus. Hiện nay, các ổ dịch do virus PED
ít được ghi nhận ở Châu Âu và ngày càng có ít nghiên cứu về bệnh. Tuy nhiên,
các nước Châu Á lại có nguy cơ cao xảy ra dịch. Năm 2008, virus gây dịch tiêu
chảy ở lợn (Porcine Epidemic Diarrhea Virus - PEDV) đã được phát hiện trong
một số đàn lợn bị tiêu chảy ở Việt Nam.
1.2.2. Một số ñặc ñiểm của virus PEDV
1.2.2.1. Phân loại
PEDV được xếp vào nhóm 1, giống coronavirus, họ coronaviridae, cùng
với TGEV, coronavirus gây bệnh cho mèo (feline coronavirus), coronavirus gây
bệnh cho chó (canine coronavirus), và coronavirus gây bệnh cho người chủng
229E (human coronavirus).
Dựa vào kết quả giải trình tự gen cho thấy PEDV có quan hệ gần gũi nhất
với coronavirus gây bệnh cho người chủng 229E và TEGV.
1.2.2.2. Hình thái, cấu trúc
PEDV có cấu trúc giống các virus khác trong họ, đường kính khoảng 95 -
190nm, có một lớp bề mặt dùi cui nhô ra dài khoảng 18 - 23 nm. Là virus có vỏ
bọc. Nhân có cấu trúc là ARN sợi đơn, kích thước từ 27 - 32 kb.
PEDV mang glycoprotein S (spike) có khối lượng phân tử 180.000 -
200.000 dalton, protein màng M (membran) có khối lượng phân tử 27.000 -
32.000 dalton và protein N có khối lượng phân tử 57.000 - 58.000 dalton. Virus
không có khả năng gây ngưng kết hồng cầu.
Hiện nay, người ta mới chỉ phát hiện được 1 serotyp PEDV duy nhất. Có 2
chủng virus PED là:
+ Chủng PED 1 (ở Châu Âu ): chỉ nhiễm trên lợn trong giai đoạn tăng trưởng.
+ Chủng PED 2 (ở Châu Á): nhiễm trên tất cả các loại lợn, kể cả lợn nái
trưởng thành.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp

15

1.2.2.3. Tính chất nuôi cấy
PEDV có thể nhân lên khi gây bệnh thực nghiệm bằng cách cho lợn con
uống virus. PEDV có khả năng thích ứng kém trong điều kiện nuôi cấy phòng thí
nghiệm. Người ta đã thử nghiệm nuôi cấy virus trên nhiều loại tế bào nhưng ít
thành công. Đến nay, tế bào vero có thể cấy chuyển được PEDV, gây bệnh tích tế
bào; tuy nhiên sự phát triển của virus phụ thuộc vào sự có mặt của trypsin trong
môi trường nuôi cấy .
Hiệu giá virus đạt tối đa sau khi nuôi cấy 15 giờ. Ngoài ra, một số loại tế
bào có thể nuôi cấy virus như tế bào túi mật lợn và tế bào thận lợn.
1.2.2.4. Sức ñề kháng
PEDV mẫn cảm với ether và chloroform. Với nhiệt độ >60
o
C, virus mất
hoạt tính sau 30 phút, nhưng lại tương đối bền ở 50
o
C. Ở nhiệt độ 4
o
C, pH dao
động từ 4 - 9 hoặc ở nhiệt độ 37
o
C, pH từ 6,5 - 7,5 virus tương đối bền.
1.2.3. Dịch tễ học
1.2.3.1. Loài vật mắc bệnh
Bệnh xảy ra ở loài lợn. Lợn có thể mắc ở mọi lứa tuổi. Trong nhiều ổ dịch
tỷ lệ lợn ốm lên đến 100%, tỷ lệ chết trung bình ở lợn con là 50% nhưng cũng có
thể rất cao đến 100%.
- Nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi 0 - 5 ngày tuổi: tỷ lệ chết 100%.
- Nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi 6 - 7 ngày tuổi: tỷ lệ chết khoảng 50%.

- Nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi > 7 ngày tuổi: tỷ lệ chết khoảng 30%.
1.2.3.2. Phương thức truyền lây
Bệnh tiêu chảy do virus (PED) xảy ra quanh năm nhưng phổ biến thường
xuất hiện vào mùa đông do virus có khả năng chịu với nhiệt độ lạnh, không bền
với nhiệt độ và ánh sáng mặt trời.
Virus xâm nhập vào cơ thể chủ yếu qua đường tiêu hóa. Lợn mang trùng
thải virus qua phân hoặc dụng cụ chăn nuôi, thức ăn, nước uống thừa nhiễm virus
hoặc do việc nhập lợn mới (lợn mang trùng hoặc lợn nhiễm bệnh PED) vào trong
trại là nguồn lây lan bệnh. Phương thức truyền lây của bệnh không khác với cách
lây lan của bệnh TGE.
Trường ðại Học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp
16

Khi đàn lợn đã mắc bệnh, virus thường tồn tại dai dẳng, là nguyên nhân
gây tiêu chảy cho đàn lợn sau khi cai sữa.
1.2.3.3. Cơ chế sinh bệnh
Để nghiên cứu cơ chế sinh bệnh của PEDV, người ta sử dụng lợn con
sinh ra không được bú sữa đầu. Cho lợn 3 ngày tuổi uống virus chủng CV777,
sau 22 - 36 giờ lợn bắt đầu có biểu bệnh. Bằng kính hiển vi điện tử, quan sát
thấy virus nhân lên đầu tiên trong tế bào chất của các tế bào biểu mô lông
nhung từ ruột non xuống hết kết tràng. Tại ruột non, tế bào nhiễm virus bị phá
hủy khiến cho lông nhung ngắn lại (tỷ lệ chiều cao và độ dày của lông nhung
thay đổi từ 7:1 xuống còn 3:1) tuy nhiên không quan sát được tế bào biểu mô
kết tràng bị phá hủy.
Cơ chế sinh bệnh ở ruột non của PEDV cũng giống như TEGV, tuy nhiên
do thời gian nhân lên của PEDV trong ruột non chậm hơn nên thời gian nung
bệnh thường dài hơn so với TEGV. Không có bằng chứng cho thấy sự nhân lên
của virus ở các tế bào bên ngoài đường tiêu hóa.
Cơ chế sinh bệnh của PEDV ở lợn lớn không được nghiên cứu chi tiết,
nhưng người ta vẫn ghi nhận có sự nhân lên của virus trong tế bào biểu mô ở cả

ruột non và kết tràng. Tuy nhiên, hiện tượng một số lợn thịt bị chết đột ngột, cơ
lưng bị hoại tử cấp tính vẫn chưa được làm sáng tỏ.
1.2.4. Triệu chứng của lợn mắc tiêu chảy do virus (PED)
Triệu chứng đặc trưng khi lợn mắc bệnh tiêu chảy do virus (PED) là hiện
tượng lợn bỏ ăn, mệt mỏi, tiêu chảy phân nhiều nước. Lợn con theo mẹ: lười bú,
ỉa chảy, phân lỏng, tanh, màu vàng, có sữa không tiêu, nôn mửa, lợn con sụt cân
nhanh do mất nước. Triệu chứng điển hình là lợn con thích nằm lên bụng mẹ,
điều trị bằng kháng sinh đặc trị tiêu chảy không có hiệu quả.
Trong thực tế triệu chứng đầu tiên là lợn trên 1 tuần tuổi có biểu hiện nôn
mửa, 5 - 6 con trong 1 đàn sau đó tăng lên nhiều đàn trong thời gian ngắn, sau đó
khoảng 4 - 5 tiếng thì lợn tiêu chảy hàng loạt. Sau 1 - 2 ngày lợn mẹ bắt đầu bỏ ăn,
kế đến là tiêu chảy, sau 4 - 5 ngày lợn mẹ trở lại bình thường hoàn toàn, sau đó lợn
con cũng trở lại bình thường, nhưng lợn con mới đẻ ra thì chết 100% kéo dài đến
10 ngày, kể từ khi cho ăn ruột lợn, khi heo mẹ đã tạo được kháng thể tốt.

×