LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn "Nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý
thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam (lấy ví dụ ở tỉnh Hải Dương)" là do
tự bản thân tôi nghiên cứu, sưu tầm tài liệu và xây dựng. Các số liệu trong
luận văn có nguồn gốc rõ ràng, trích dẫn nguồn cung cấp.
Tôi xin cam đoan và chịu toàn bộ trách nhiệm về tính trung thực cũng
như sự hợp pháp của vấn đề nghiên cứu.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Bùi Thanh Hồng
LỜI CẢM ƠN
Thuế đối với doanh nghiệp là vấn đề phức tạp trong lĩnh vực quản lý
Nhà nước, luận văn đòi hỏi phải có sự nghiên cứu phân tích kỹ lưỡng với số
liệu đầy đủ về thực trạng quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam nói
chung và tỉnh Hải Dương nói riêng. Đồng thời, cần có cơ sở lý luận vững chắc
làm nền tảng cho những nghiên cứu, ứng dụng thực tế. Vì vậy, luận văn không
thể hoàn thành nếu không có giúp đỡ tận tình của cô giáo PGS, TS. Đào Phương
Liên và các giảng viên Khoa lý luận chính trị - Đại học Kinh tế Quốc dân. Tác
giả xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn và các thầy cô giáo.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các cấp Lãnh đạo và các
đồng nghiệp làm việc tại Cục thuế tỉnh Hải Dương đã tạo điều kiện để tác giả
được tập trung nghiên cứu và xây dựng luận văn, góp một phần nhỏ cho công
cuộc xây dựng và phát triển Cục thuế tỉnh Hải Dương cũng như ngành Thuế
Việt Nam.
Cuối cùng, tác giả xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm, chia sẻ và
động viên tác giả hoàn thành bản luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
HỌC VIÊN
Bùi Thanh Hồng
Khóa: CH19 (2010-2012)
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QH : Quốc hội
NSNN : Ngân sách Nhà nước
TNDN : Thu nhập doanh nghiệp
GTGT : Giá trị gia tăng
XLDL : Xử lý dữ liệu
HĐND : Hội đồng Nhân dân
UBND : Uỷ ban nhân dân
MTTQ : Mặt trận tổ quốc
NNT : Người nộp thuế
DN : Doanh nghiệp
ĐTNT : Đối tượng nộp thuế
KK&KTT : Kê khai và kế toán thuế
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
CNTT : Công nghệ thông tin
TNCN : Thu nhập cá nhân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
TP : Thành phố
BTC : Bộ tài chính
WCO : Tổ chức Hải quan thế giới (World Customs Organisize)
WTO : Tổ chức Thương mại quốc tế (World Trade Organisize)
ASEAN : Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of
Southeast Asian Nations)
AFTA : Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area)
APEC : Hợp tác kinh tế Chấu Á – Thái bình Dương (Asia-
Pacific Economic Cooperation)
GATT : Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại
(General Agreement on Tariffs and Trade)
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Sơ đồ 2.1: Mô hình phân công, phân cấp quản lý thuế tổng quát.Error:
Reference source not found
Sơ đồ 2.2: Mô hình phân cấp quản lý thuế tại Cục thuế tỉnh Hải Dương
Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.1: Số lượng DN đăng ký kinh doanh trên địa bàn tỉnh của các
năm từ 2006-2011 Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2. Số thu nộp ngân sách nội địa trên địa bàn tỉnh của các năm
từ năm 2006-201 Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.3: Số nộp NSNN của các DN trên địa bàn tỉnh qua các năm từ
năm 2006-201 Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.1 - Mô hình phân công, phân cấp quản lý thuế tổng quát 43
Hình 1: Minh hoạ các cải cách chủ yếu của cơ quan thuế Error:
Reference source not found
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Trước yêu cầu hiện đại công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách
động viên của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển,
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần bình
đẳng công bằng xã hội, phù hợp với nền kinh tế thị trường và chủ động hội
nhập quốc tế, tại Kỳ họp thứ 10 (Khó XI), Quốc hội đã thông qua Luật quản
lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ
01/7/2007. Bước chuyển quan trọng được đề cập trong Luật Quản lý thuế là
đề cao tính tự chủ của người nộp thuế trong quá trình khai thuế, nộp thuế vào
NSNN, đó là cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp.
Nhằm nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh
nghiệp, góp phần làm cho chính sách thuế được thực hiện đúng hơn, đầy đủ
hơn, đạt được kết quả cao hơn. Việc tổ chức thực hiện được cải cách theo
hướng rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện tối đa cho người nộp thuế, nhưng
đồng thời cũng có biện pháp chế tài và trao quyền cho cơ quan thuế để giám
sát, kiểm tra, xử lý nghiêm minh những đối tượng cố tình vi phạm pháp luật,
tạo môi trường lành mạnh, công bằng, góp phần ổn định hơn cả về số thu cho
ngân sách nhà nước, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
phát triển Chính vì lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao vai trò
Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam (lấy ví dụ
ở tỉnh Hải Dương) là cần thiết, qua đó góp phần đề xuất giải pháp quản lý
thuế tốt hơn đối với doanh nghiệp ở Việt Nam.
Công trình góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản vai trò
Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp, trên cơ sở đó, công trình
phân tích thực trạng quản lý thuế đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải
Dương, từ đó đề xuất các phương hướng giải pháp nhằm nâng cao vai trò Nhà
nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp trong thời gian tới.
i
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lê nin. Sử dụng phương pháp khảo sát, thu thập dữ liệu kết
hợp với các phương pháp chuyên gia, phân tích, so sánh, để rút ra các kết luận
có căn cứ khoa học.
Trên cơ sở nghiên cứu khoa học và hệ thống hoá những vấn đề lý luận
và thực tiễn, luận văn có những đóng góp sau:
Thứ nhất, luận văn đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về vai trò nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp:
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản
pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả
trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên
mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với
phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của
nó không chỉ phụ thuộc vào ý chí con người mà còn phụ thuộc vào các điều
kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Sự xuất hiện Nhà nước đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi
cho hoạt động thường xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà
nước tồn tại, duy trì quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã hội của
mình. Trong điều kiện có các giai cấp, tồn tại chế độ tư hữu cùng với phạm vi
hoạt động của Nhà nước ngày càng mở rộng thì chế độ đóng góp theo phương
thức tự nguyện của dân cư trong chế độ cộng sản nguyên thủy không còn phù
hợp nữa. Ðể có được lượng của cải cần thiết, Nhà nước đã sử dụng quyền lực
của mình ban hành pháp luật, ấn định bắt buộc các thể nhân và pháp nhân
phải đóng góp cho Nhà nước một phần của cải mà họ làm ra và hình thành
qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước. Ban đầu những của cải vật chất này được
ii
thu nộp dưới hình thức hiện vật, dần dần thuế được chuyển sang hình thức
tiền tệ. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa vụ thu nộp của cải vật chất đối với
dân cư, Nhà nước đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ đó bằng bộ máy cuỡng
chế của Nhà nước.
Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế
tồn tại và phát triển. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất
yếu khách quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà
nước và sự tồn tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, luận văn đã nêu nên sự cần thiết và những nhân tố ảnh hưởng đến
nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam:
Một là, nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh
nghiệp nhằm từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về thuế
Có thể nói thuế không chỉ là nguồn thu của ngân sách nhà nước mà còn
là công cụ quan trọng điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo hướng khuyến khích
đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển sản xuất, tạo ra môi trường bình đẳng về pháp luật cho sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm vừa qua,
nhằm hướng tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành các cuộc cải cách thuế, không ngừng hoàn
thiện và kiện toàn hệ thống quản lý thuế nhằm đảm bảo tính hiệu lực của các
Luật thuế trong cả nước và tính hiệu quả của công tác quản lý thu thuế. Nhờ
vậy, công tác thuế đã góp phần tích cực vào nguồn thu Ngân sách nhà nước
và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu
đặt ra của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, cơ chế quản lý hiện nay đã bộc lộ
những hạn chế. Như vậy để tạo bộ khung pháp lý về quản lý thuế hoàn chỉnh,
iii
phù hợp với những thay đổi của sự phát triển kinh tế quốc tế thì vai trò hoạch
định, cải cách chính sách về quản lý thuế nhằm nâng cao vai trò của nhà
nước về quản lý thuế là rất cần thiết.
Hai là, nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh
nghiệp là góp phần sửa chữa những khuyết tật của cơ chế thị trường.
Kinh tế thị trường có nhiều ưu điểm nhưng cũng có nhiều khuyết tật.
Sư phát triển kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến như sự bất bình đẳng trong thu
nhập, sự phân hóa giàu nghèo, vấn đề ô nhiễm môi trường Chính vì vậy có
cần vai trò của Nhà nước trong việc quản lý thuế sẽ góp phần làm hạn chế
những khuyết tật này. Với chính sách thuế phù hợp sẽ động viên được nguồn
thu để sử dụng trong phân phối phúc lợi xã hội. Giúp đảm bảo công bằng
trong đóng góp vào ngân sách nhà nước. Dựa vào vai trò quản lý về thuế của
mình, nhà nước sử dụng nguồn thu của ngân sách để tạo lập hàng hóa công
cộng, phân phối phúc lợi xã hội một cách hợp lý
Ba là, nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh
nghiệp nhằm tạo ra “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp không phân
biệt thành phần kinh tế.
Chúng ta đang trong quá trình toàn cầu hóa, sự đầu tư liên kết không
chỉ trong khu vực mà trên toàn thế giới. Nhà nước tập trung vai trò quản lý
thuế trong tay để tạo ra “sân chơi” bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Mỗi
mức thuế suất, sự tăng giảm mức thuế ưu đãi, và việc thực thi chính sách đó
sẽ thúc đẩy, khuyến khích đầu tư hay hạn chế đầu tư vào từng lĩnh vực tùy
theo chính sách khuyến khích phát triển kinh tế vùng, miền, ngành hay hạn
chế đầu tư vào các lĩnh vực không khuyến khích tùy theo chính sách phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, và chủ trương chính sách đúng đắn của
Đảng và nhà nước có được thực hiện đúng đắn nghiêm túc không phụ thuộc
vào khâu tổ chức thực hiện đó là quản lý thuế.
iv
Bốn là, nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh
nghiệp nhằm giáo dục ý thức, trách nhiệm cộng đồng cho doanh nghiệp và
công dân. Do đặc điểm thuế là khoản thu bắt buộc mang tính cưỡng chế
người đóng thuế không phải để nhận lại của nhà nước mà là nghĩa vụ đóng
góp chung chứ không phải tự nguyện. Thuế làm tăng thu cho Nhà nước và
giảm thu nhập của người nộp thuế do đó phải có vai trò nhà nước để đảm
bảo việc thu thuế được thực hiện nghiêm chỉnh, đúng pháp luật.
Năm là, nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh
nghiệp còn xuất phát từ đòi hỏi của quá trình hội nhập của Việt Nam vào sân
chơi chung của khu vực và thế giới. Hiện nay chúng ta đã hội nhập đầy đủ
toàn diện với kinh tế quốc tế do đó để đảm bảo yêu cầu đòi hỏi về tính phù
hợp với các điều ước và thông lệ quốc tế về chính sách tài chính; đồng thời
tạo điều kiện tối đa cho cho người nộp thuế trong việc kê khai nộp thuế thì đòi
hỏi Nhà nước mà đại diện là cơ quan thuế phải nâng cao vai trò của mình
trong quản lý thuế .
Thứ ba, luận văn đã nêu nội dung, các nhân tố ảnh hưởng và sự cần
thiết phải nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp:
Quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh
nghiệp nói riêng là hoạt động có liên quan đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã
hội của một nước. Ở đâu có hoạt động kinh tế hay có thu nhập đối với một tổ
chức, cá nhân thì ở đó có hoạt động quản lý thu thuế.
Thứ tư, luận văn đã nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về nâng cao vai
trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp.
Thứ năm, luận văn đã khái quát về cơ cấu tổ chức bộ máy của Cục
thuế tỉnh Hải Dương. Cục Thuế tỉnh Hải Dương được tổ chức thành 14 phòng
và 12 Chi cục thuế thành phố, thị xã, huyện trực thuộc, với tổng số 762 cán
bộ, nhân viên hoạt động theo mô hình chức năng, với 4 chức năng là tuyên
v
truyền hỗ trợ, kê khai và kế toán thuế, thu nợ và cưỡng chế thuế, thanh tra
kiểm tra thuế
Thứ sáu, luận văn đã góp phần làm sáng tỏ thực trạng vai trò Nhà nước
trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương.
Thứ nhất: Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục về thuế, tăng cường
các hoạt động dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế
Tuyên truyền thuế được thực hiện thông qua nhiều hình thức phong
phú: họp báo với các cơ quan thông tấn báo chí ở trung ương và địa phương,
tổ chức đối thoại, tọa đàm, trao đổi với các doanh nghiệp và tập huấn, hội
thảo qua đó các đối tượng nộp thuế hiểu rõ hơn chính sách thuế, biết tính
thuế, kê khai thuế, tự làm các hồ sơ xin miễn, giảm và quyết toán thuế.
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật về chính sách thuế trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Cơ quan thuế các cấp đã tổ chức mạng lưới làm nhiệm vụ
dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế để cung cấp tài liệu, tập huấn, giải đáp mọi
vướng mắc về thuế để các tổ chức, cá nhân hiểu rõ chính sách thuế, thực hiện
đúng, đủ nghĩa vụ thuế một cách tự giác.
- Về tổ chức: công tác hỗ trợ các doanh nghiệp được tập trung về một
đầu mối, không còn rải rác tại tất cả các phòng, ban như trước đây. Điều này
bước đầu đã hạn chế được tình trạng giải đáp trái ngược nhau trong cùng một
nội dung vướng mắc.
- Về nghiệp vụ: việc hướng dẫn cho doanh nghiệp thực hiện các quy
định trong chính sách thuế, các quy trình nộp thuế được thống nhất và mang
tính tổng hợp cao. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, đối thoại trực tiếp
với doanh nghiệp ; trả lời trên điện thoại, bằng văn bản; cài đặt trên máy tính,
cung cấp đĩa CD.
Các bộ phận làm nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp kết hợp với bộ phận
thanh tra để tổng hợp những vấn đề mà đối tượng nộp thuế thường sai phạm
vi
để tuyên truyền, hướng dẫn giúp cho người nộp thuế biết và thực hiện đúng,
tránh sai phạm.
Thường xuyên đối thoại, tiếp xúc với doanh nghiệp để giải quyết kịp
thời các vướng mắc của họ, qua đó tăng cường giáo dục nâng cao hiểu biết về
thuế cho đối tượng nộp thuế .
Quy chế tuyên truyền hỗ trợ được xây dựng nhằm thống nhất và chuẩn
hoá việc hỗ trợ doanh nghiệp, từng bước nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền, hỗ trợ. Thực hiện quy chế chính là hỗ trợ trực tiếp, giúp đỡ các doanh
nghiệp thực hiện việc tự tính, tự khai, tự nộp thuế một cách đầy đủ, chính xác.
Hơn nữa về phía người làm công tác thuế, quy chế này cũng đảm bảo phân
định rõ để thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ trong công tác tuyên truyền,
hỗ trợ tại cấp Tổng cục và cấp Cục thuế, tạo hiệu quả cao.
Thứ hai: Nghiên cứu hoàn thiện và tổ chức thực hiện đồng bộ các qui
trình quản lý thu thuế khoa học, hiệu quả đối với tất cả các khoản thu, sắc thuế.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện tất cả các quy trình nghiệp vụ
quản lý thu cho phù hợp với yêu cầu mới. Ban hành các sổ tay nghiệp vụ quản
lý thuế đối với từng khoản thu, sắc thuế, làm cẩm nang cho cán bộ thuế học
tập và thực hiện quản lý thuế.
Thứ ba: Đẩy mạnh công tác thanh tra, xử lý kịp thời các hành vi gian
lận về thuế, chống thất thu ngân sách, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế
và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp
Một là, kiện toàn lại tổ chức bộ máy thanh tra, kiểm tra thuế
- Tăng cường cả về số lượng, chất lượng cán bộ trong lĩnh vực thanh
tra, kiểm tra và trở thành lực lượng chủ yếu của cơ quan thuế. . Cán bộ thanh
tra phải giỏi về nghiệp vụ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt, thái độ làm
việc khách quan, trung thực.
vii
- Sắp xếp phân công lại cán bộ thanh tra kiểm tra ở cơ quan thuế tại các
địa phương để bố trí vào các bộ phận: thanh tra kiểm tra đối tượng nộp thuế ;
thanh tra kiểm tra hoàn thuế; thanh tra kiểm tra nội bộ ngành thuế; kiểm tra
xác minh giải quyết đơn thư khiếu nại và tố cáo; bộ phận phúc tra Cán bộ
thuộc các bộ phận này phải được ổn định tạo điều kiện để cán bộ nghiên cứu
chuyên sâu vào công việc được phân công.
- Tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ làm công tác thanh tra thuế các
kiến thức về nghiệp vụ, pháp lý, nguyên tắc xử lý các sai phạm về thuế, về kỹ
năng thanh tra, kiểm tra. Chú trọng đào tạo những cán bộ chủ chốt làm
trưởng đoàn thanh tra, kiểm tra.
Hai là, tăng cường thanh tra đối tượng nộp thuế :
- Đối tượng chủ yếu và cần tập của thanh tra, kiểm tra là các doanh
nghiệp lớn có dấu hiệu gian lận, nợ đọng thuế lớn.
- Phối hợp với các ngành liên quan, các địa phương đẩy mạnh các biện
pháp đấu tranh chống gian lận thương mại, trốn thuế, lậu thuế. Nghiên cứu
các biện pháp chống gian lận thuế đối với tất cả các khoản thu, sắc thuế, nhất
là là lĩnh vực thu ngoài quốc doanh, thuế thu nhập, hành vi chuyển giá của các
doanh nghiệp.
Ba là, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành thuế
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, ngành thuế đã dành một phần lực
lượng cán bộ thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý thu của cơ qua
thuế các cấp, tập trung vào thành tra kiểm tra việc thực hiện các quy trình
nghiệp vụ quản lý thu thuế, quản lý đầu tư xây dựng của ngành, quản lý kinh
phí và thực hiện kỷ cương, kỷ luật của công chức ngành thuế.
Bốn là, Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý thu thuế
Việc ứng dụng công nghệ tin học đã tác động tích cực đến việc cải tiến
và thống nhất cơ chế, quy trình quản lý toàn ngành thuế, nâng cao hiệu lực và
hiệu quả quản lý thu thuế.
viii
- Nâng cấp các chương trình quản lý thuế và đăng ký thuế thống nhất, qua
đó quản lý chặt chẽ các sắc thuế và lưu giữ toàn bộ thông tin kê khai đăng ký thuế
của đối tượng nộp thuế , phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
- Xây dựng các chương trình ứng dụng phục vụ cải cách quản lý thu
thuế ; Chương trình quản lý hoá đơn, ấn chỉ thuế thống nhất trên mạng máy
tính toàn ngành, hệ thống trao đổi thông tin thu nộp thuế giữa Kho Bạc và
Thuế, Các chương trình này sẽ đáp ứng được việc hỗ trợ cung cấp thông tin
về chính sách, thủ tục thu nộp thuế kịp thời cho đối tượng nộp thuế , cung cấp
thông tin về tình trạng kê khai thuế, kịp thời phát hiện những trường hợp
ngừng kê khai hoặc kê khai chưa đúng để giúp cho công tác thanh tra, kiểm
tra của cơ quan thuế đạt hiệu quả cao hơn.
Năm là, Sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các cấp, các ngành
trong việc quản lý đối tượng nộp thuế bắt đầu có hiệu quả.
Sự phối hợp với cơ quan đăng ký kinh doanh đã tạo thuận lợi cho việc
đưa hầu hết số đối tượng kinh doanh được cấp đăng ký vào quản lý thu thuế,
được cấp mã số thuế.
Cơ quan thuế chủ động phối hợp với cơ quan chức năng trong việc quản lý
thu thuế.
Phối hợp với các ngành liên quan, các địa phương đẩy mạnh các biện
pháp đấu tranh chống gian lận thương mại, trốn thuế, lậu thuế
Thứ bảy, từ kết quả phân tích thực trạng về vai trò Nhà nước trong
quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương, luận văn cũng đã đánh
giá chung và chỉ ra những thành tựu đạt được; những hạn chế và nguyên nhân
của những hạn chế.
Thứ tám, luận văn nêu ra những khó khăn và thuận lợi vai trò Nhà
nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương
Thứ chín, luận văn nêu phương hướng nâng cao vai trò Nhà nước
trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương
Thứ mười, luận văn góp phần đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng
cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương
ix
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước yêu cầu hiện đại công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách
động viên của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển,
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần bình
đẳng công bằng xã hội, phù hợp với nền kinh tế thị trường và chủ động hội
nhập quốc tế, tại Kỳ họp thứ 10 (Khó XI), Quốc hội đã thông qua Luật quản
lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ
01/7/2007. Bước chuyển quan trọng được đề cập trong Luật Quản lý thuế là
đề cao tính tự chủ của người nộp thuế trong quá trình khai thuế, nộp thuế vào
NSNN, đó là cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp.
Vì vậy, đề tài đi sâu nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò Nhà nước trong
quản lý thuế đối với doanh nghiệp, góp phần làm cho chính sách thuế được
thực hiện đúng hơn, đầy đủ hơn, đạt được kết quả cao hơn. Việc tổ chức thực
hiện được cải cách theo hướng rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện tối đa cho
người nộp thuế, nhưng đồng thời cũng có biện pháp chế tài và trao quyền cho cơ
quan thuế để giám sát, kiểm tra, xử lý nghiêm minh những đối tượng cố tình vi
phạm pháp luật, tạo môi trường lành mạnh, công bằng, góp phần ổn định hơn cả
về số thu cho ngân sách nhà nước, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp phát triển Chính vì lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao
vai trị Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam (lấy ví
dụ ở tỉnh Hải Dương) là cần thiết, qua đó góp phần đề xuất giải pháp quản lý
thuế tốt hơn đối với doanh nghiệp ở Việt Nam.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về thuế
- công tác quản lý thu thuế. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối
tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau.
1
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trước đây khi Luật quản lý thuế
chưa ra đời, chưa có nhiều thực trạng khi đi vào thực tiễn, hầu hết các công
trình nghiên cứu chưa chỉ rõ vai trò quản lý của Nhà nước trong quản lý thuế
đối với doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Hải Dương
nói riêng. Vì vậy tác giả thấy đề tài này mang tính thời sự và cấp thiết đặc biệt
là dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích nghiên cứu
Công trình góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản vai trò
Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp, trên cơ sở đó, công trình
phân tích thực trạng quản lý thuế đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải
Dương, từ đó đề xuất các phương hướng giải pháp nhằm nâng cao vai trò Nhà
nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp.
- Về lý luận: Những vấn đề lý luận chung về vai trò Nhà nước trong
quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ở Việt nam.
- Về thực tiễn: Luận văn khảo sát thực tiễn và lấy số liệu để minh hoạ
qua số liệu của Tổng cục Thuế và các cơ quan hữu quan trên địa bàn tỉnh Hải
Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lê nin. Sử dụng phương pháp khảo sát, thu thập dữ liệu kết
hợp với các phương pháp chuyên gia, phân tích, so sánh, để rút ra các kết luận
có căn cứ khoa học.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu khoa học và hệ thống hoá những vấn đề lý luận
và thực tiễn, luận văn có những đóng góp sau:
2
- Trên cơ sở chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước
về thuế qua các thời kỳ từ năm 2007 đến nay, luận văn nêu bật vai trò quan
trọng của thuế và quản lý thuế đối với phát triển kinh tế xã hội.
- Luận văn làm rõ những vấn đề cơ bản vai trò Nhà nước trong quản lý
thuế, nội dung và những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao vai trò Nhà nước trong
quản lý thuế.
- Từ những nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm của các địa phương trong
nước và nước ngoài về nâng cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế, tác giả
rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao vai trò Nhà nước trong quản
lý thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Luận văn đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp, nhằm nâng
cao vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở Việt nam
trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về nâng cao vai trò
Nhà nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng vai trò Nhà nước trong quản lý thuế đối với
doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò Nhà
nước trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp ở Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
VỀ NÂNG CAO VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ
THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẪN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG
QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1.1. Thuế và vai trò của thuế đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản
pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả
trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên
mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với
phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Sự ra đời và tồn tại của thuế gắn liền với sự phân chia xã hội thành
các giai cấp đối kháng và sự xuất hiện của Nhà nước - pháp luật.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhưng sự ra đời và tồn tại của
nó không chỉ phụ thuộc vào ý chí con người mà còn phụ thuộc vào các điều
kiện kinh tế - xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Sự xuất hiện Nhà nước đòi hỏi cần phải có của cải vật chất cần thiết chi
cho hoạt động thường xuyên của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho Nhà
nước tồn tại, duy trì quyền lực và thực hiện chức năng quản lý xã hội của
mình. Trong điều kiện có các giai cấp, tồn tại chế độ tư hữu cùng với phạm vi
hoạt động của Nhà nước ngày càng mở rộng thì chế độ đóng góp theo phương
thức tự nguyện của dân cư trong chế độ cộng sản nguyên thủy không còn phù
hợp nữa. Ðể có được lượng của cải cần thiết, Nhà nước đã sử dụng quyền lực
của mình ban hành pháp luật, ấn định bắt buộc các thể nhân và pháp nhân
phải đóng góp cho Nhà nước một phần của cải mà họ làm ra và hình thành
4
qũy tiền tệ tập trung của Nhà nước. Ban đầu những của cải vật chất này được
thu nộp dưới hình thức hiện vật, dần dần thuế được chuyển sang hình thức
tiền tệ. Ðồng thời với việc ấn định nghĩa vụ thu nộp của cải vật chất đối với
dân cư, Nhà nước đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ đó bằng bộ máy cuỡng
chế của Nhà nước.
Sự xuất hiện sản phẩm thặng dư trong xã hội là cơ sở chủ yếu để thuế
tồn tại và phát triển. Như vậy, thuế là phạm trù có tính lịch sử và là một tất
yếu khách quan, thuế ra đời xuất phát từ nhu cầu đáp ứng chức năng của Nhà
nước và sự tồn tại của thuế không tách rời quyền lực Nhà nước.
Thuế do cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành.
ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành
qũy ngân sách Nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế
- xã hội nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ
quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của các
nước. Chẳng hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định:
cấm mọi sự thu thuế để dựng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không được
Quốc hội chấp thuận. ở Pháp, Quốc hội Pháp quy định: bất cứ một khoản thuế
nào nếu không được Quốc hội chấp thuận thì không được áp dụng. Hiến pháp
của nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định Quốc hội Pháp có quyền biểu
quyết và định đoạt các Luật thuế.
Hiến pháp nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc
hội có nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế.
Tuy vậy, do yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có
thể giao cho Uớy ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một
số loại thuế thông qua hình thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế.
Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và
thể nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp.
5
Thuế là nghĩa vụ thanh toán mà các thể nhân và pháp nhân khi có các dấu
hiệu và điều kiện được quy định cụ thể trong Luật thuế thì phải thực hiện đối với
Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới
hình thức giá trị giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Nhà nước thu thuế làm phát sinh quan hệ phân phối giữa Nhà nước với
các thể nhân và pháp nhân trong xã hội. Ðối tượng của quan hệ phân phối này
là của cải vật chất được biểu hiện dưới hình thức giá trị.
Sự tồn tại và phát triển của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử, đặc
điểm của phương thức sản xuất, kết cấu giai cấp là những nhân tố chủ yếu ảnh
hưởng đến vai trò, nội dung, đặc điểm của thuế. Do đó, cơ cấu và nội dung
của cả hệ thống pháp luật thuế và từng Luật thuế phải được nghiên cứu, sửa
đổi bổ sung, cải tiến và đổi mới kịp thời nhằm thích hợp với tình hình, nhiệm
vụ của từng giai đoạn. Ðồng thời phải tổ chức bộ máy phù hợp, đủ sức đảm
bảo thực hiện các quy định pháp luật về thuế đã được Nhà nước ban hành
trong từng thời kỳ.
Hệ thống pháp luật thuế được coi là phù hợp không chỉ nhìn một cách
phiến diện vào số lượng các Luật thuế nhiều hay ít, vào mục tiêu đơn thuần là
động viên tài chính vào ngân sách Nhà nước mà phải được phân tích một cách
toàn diện, chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế, với đời sống xã hội, không
đối lập với quyền lợi và khả năng đóng góp của nhân dân.
Ở nước ta trước cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước, Luật thuế chỉ
áp dụng đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập
thể và cá thể. Ðể thực hiện chế độ thu ngân sách Nhà nước phù hợp với cơ
chế thị trường, phát huy vai trò của các hình thức thu ngân sách Nhà nước,
cuộc cải cách chế độ thu ngân sách Nhà nước được thực hiện trên cơ sở Nghị
quyết Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ IV năm 1989. Kết quả của cuộc cải cách
6
này đưa đến việc áp dụng thống nhất chế độ thu thuế đối với tất cả các thành
phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu, hình thức kinh doanh. Từ đây
thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước và thuế
chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách
Nhà nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế,
Nhà nước tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên
qũy ngân sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra
thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp
luật không chỉ quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế.
Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà nước.
Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của
thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong
những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động
kinh tế, thuế đóng vai trị hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh
tế - xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước nhằm huy động tập
trung một phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng
đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội.Việc các chủ thể nộp thuế -
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra
nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu
ngân sách Nhà nước.
7
Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh
quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước.
Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để
thu ngân sách Nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu
nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất
phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức
thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước
từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội
và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hiện nay nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển
thành có vay có trả. Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần
ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.
Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được
áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh được hầu
hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã
hội. Ðây là nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước.
Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế và đời sống xã hội.
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật
thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế.
Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế
quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống
pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trị là công cụ điều tiết vĩ mô của
Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước
8
thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu
nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của
Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của
pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất,
miễn giảm thuế Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền
kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chổ pháp luật thuế là
công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh
doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ
thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can
thiệp đến cung - cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh
cung - cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định
và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác
động tích cực đến cung - cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản
xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuê,ỳ Nhà nước tác
động đến các quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối
với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng,
thuế xuất nhập khẩu đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại
hàng hóa đó.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và
khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy
định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng
hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng
có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
9
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh
nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến
khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi,
miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và
phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.Thông qua pháp luật thuế, Nhà
nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở
tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu qủa các nguồn lực cuả đất nước trong
việc điều chỉnh cung - cầu và cơ cấu kinh tế.
Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các
ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự
bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân
và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động
viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có
những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của
pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước
phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất
cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng
pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều
tiết này thể hiện ở chổ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước
10
thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên
trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ
thống thuế, vế thuế suất đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập
trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm
pháp luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống
thuế và thuế suất Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt
tiêu vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong
điều kiện nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Quản lý Nhà nước về thuế đối với doanh nghiệp.
1.1.2.1. Quan niệm quản lý Nhà nước về Thuế đối với doanh nghiệp
Quản lý thuế là một lĩnh vực quản lý chuyên ngành. Vì vậy, để tiếp cận
khái niệm quản lý thuế, trước hết, cần tiếp cận khái niệm quản lý.
Theo từ điển Tiếng Việt, quản lý là "Tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định".
Theo các tác giả Giáo trình khoa học quản lý của Học viện Chính trị
Quốc gia thì "Quản lý là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối
hành động của những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn".
Theo các tác giả Giáo trình Quản lý hành chính Nhà nước thì "Quản lý
là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người để hướng đến mục đích, đúng với ý chí
và phù hợp với qui luật khách quan".
Như vậy, khi nói đến quản lý là nói đến hoạt động của con người trong
việc thực hiện các hoạt động lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, phối hợp, kiểm
soát và thúc đẩy hoạt động của những con người trong tổ chức đó nhằm thực
hiện những mục tiêu đã định.
11