Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Thực trạng và giải pháp đối với vấn đề huy động vốn dân cư tại ngân hàng vietcombank chi nhánh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.75 KB, 34 trang )

1
2
LỜI MỞ ĐẦU
Nguồn vốn có vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng, bởi nguồn vốn chính là cơ sở để ngân hàng thực hiện các chính sách và hoạt
động kinh doanh của mình. Nhìn vào nguồn vốn của một ngân hàng, ta có thể đánh
giá được phần nào uy tín cũng như năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó.
Hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam có hàng trăm ngân hàng lớn bé khác
nhau, họ đang không ngừng cạnh tranh quyết liệt để giữ chân cũng như thu hút
nguồn vốn về phía mình. Cũng lãi suất như vậy, cũng dịch vụ như thế, các cá nhân
và tổ chức rất khó có thể ra quyết định. Đấy vừa là cơ hội, vừa là thách thức không
hề nhỏ đối với các ngân hàng. Câu hỏi được đặt ra ở đây là:
Làm thế nào để khách hàng lựa chọn mình để gửi tiền ?
Tại sao khách hàng lại rời bỏ mình để lựa chọn một ngân hàng khác?
Việc tìm kiếm nguồn vốn mới đã khó, làm thế nào để giữ chân được các nguồn
vốn cũ lại càng khó hơn. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng: chỉ mất 1 đồng để giữ chân
một khách hàng, nhưng nếu ta mất khách hàng đó thì sẽ phải bỏ ra đến 6 đồng để
tìm kiếm một khách hàng mới. Điều đó cho thấy việc duy trì khách hàng hiện tại
của ngân hàng là một việc vô cùng quan trọng. Vậy làm thế nào để giữ chân được
khách hàng trước những lời mời chào vô cùng hấp dẫn từ các đối thủ cạnh tranh?
Trên cơ sở lý luận thu được ở khi học ở trường và kinh nghiệm thu được khi
thực tập tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Thanh Hóa, em đã quyết
định lựa chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp đối với vấn đề huy động vốn dân
cư tại ngân hàng Vietcombank Chi Nhánh Thanh Hóa”. Chuyên đề đi sâu vào
phân tích thực trạng huy động vốn dân cư của ngân hàng, chỉ ra những đạt được và
hạn chế từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm cải thiện vấn đề huy động vốn từ dân
cư tại Chi nhánh Thanh Hóa.
Kết cấu của đề tài bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về huy động vốn từ dân cư của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn dân cư tại Vietcombank Thanh Hóa.
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn dân cư tại Chi nhánh.


3
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về huy động vốn từ dân cư của ngân hàng
thương mại:
1.1.Nguồn vốn và huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về nguồn vốn cuả ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với các chức năng
cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền. Để thực
hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả và có lợi
nhuận thì đòi hỏi ngân hàng thương mại phải cần một yếu tố hết sức quan trọng đó
là vốn. Vốn chính là cơ sở hình thành, tổ chức hoạt động của ngân hàng cũng như
quyết định quy mô và năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Có thể nói vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân
ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc
thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Về thực chất vốn của ngân hàng thương mại là bao gồm các nguồn tiền tệ
của chính bản thân ngân hàng và của những người có vốn tạm thời nhàn rỗi. Họ
chuyển tiền vào ngân hàng với các mục đích khác nhau: hoặc lấy lãi, hoặc nhờ thu,
nhờ chi hay là dùng các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng. Việc này có thể
hiểu đó là họ chuyển quyền sử dụng vốn cho ngân hàng và số tiền mà ngân hàng
phải trả hay làm dịch vụ chính là cái giá của quyền sử dụng các giá trị tiền tệ đó.
Nhờ việc có được nguồn vốn các ngân hàng mới có thể tiến hành kinh doanh: cho
vay, bảo lãnh, cho thuê … Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và
phân phối lại vốn dưới hình thức thực tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn,
kích thích hoạt động kinh doanh phát triển. Các hoạt động này quyết định đến sự
tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vì mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất đặc biệt nên nhu cầu về vốn của
Ngân hàng thương mại là rất lớn, do vậy nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao
gồm :
* Nguồn vốn tự có :
Nguồn vốn này được hình thành từ hai bộ phần là :

+ Vốn điều lệ: Đây là số vốn ban đầu của một Ngân hàng thương mại, là tiêu
chuẩn được thành lập và đi vào hoạt động của NHTM. Về mặt quy mô thì vốn điều
lệ lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định.
4
Vốn điều lệ có thể do ngân sách Nhà nước cấp (đối với vốn NHTM quốc
doanh), có thể do các thành viên đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu (đối với
NHTM cổ phần) hoặc vốn điều lệ có thể do cá nhân tự bỏ vốn ra (đối với Ngân
hàng tư nhân).
Loại vốn này nói lên quy mô hoạt động và khat năng cạnh tranh ban đầu của
Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn
này (đối với NHTM quốc doanh).
+ Vốn tích lũy: Vốn này được hình thành trong quá trình hoạt động của Ngân
hàng thông qua việc trích nộp các quỹ. Cứ mỗi Ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt
động của mình mà trích một phần lợi nhuận nhằm bổ xung vào vồn tự có của Ngân
hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại tuỳ thuộc vào quy định của từng nước.
* Vốn dự trữ :
Theo quy định chung của các NHTM đều phải mở tài khoản tại các Ngân
hàng trung ương và nộp vào đó các khoản dự trữ bao gồm :
- Dự trữ tối thiểu pháp định.
- Dự trữ để đảm bảo các hoạt động của Ngân hàng.
- Các khoản dự trữ đặc biệt được pháp luật qui định.
* Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống.
Vì các NHTM hoạt động trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn xuất hiện
tình trạng ở Ngân hàng này có hiện tượng thừa vốn do huy động nhiều nhưng không
sử dụng hết, trong khi đó Ngân hàng kia lại thiếu vốn. Sở dĩ có tình trạng này là do :
Về phía Ngân hàng thừa vốn có thể do sự biến động lớn ở thị trường đầu ra dẫn đến
việc không mở rộng được hoạt động trong khi vẫn phải duy trì việc huy động vốn vì
mục đích giữ khách hàng. Còn về phía bên Ngân hàng thiếu vốn do thị trường đầu
ra mở rộng trong khi thị trường đầu vào không thể mở rộng được hơn nữa, dẫn đến
tình trạng thiếu vốn. Chính lúc này Ngân hàng trung ương hoặc các hội sở chính sẽ

thực hiện việc điều phối chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu trên cơ sở hai bên
cùng có lợi.
Chính vì thế, đây có thể coi là một nguồn vốn khá quan trọng, nó giúp Ngân
hàng có thể mở rộng được thị trường đầu ra trong điều kiện thị trường đầu vào vẫn
còn bị hạn chế và qua đó làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng.
* Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng :
+ Nguồn vốn vay Ngân hàng nhà nước:
NHTM thực hiện việc vay tiền của Ngân hàng Nhà nước thông qua hình thức
chiết khấu các giấy tờ có giá. Khi Ngân hàng có nhu cầu rút tiền mặt của khách
hàng, họ có thể mang các giấy tờ có giá như : tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà
5
nước, tiền triết khấu. Nguồn vốn này hình thành chủ yếu là để đảm bảo kảh năng
thanh toán của Ngân hàng.
+ Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng quốc tế :
Đây là loại vốn vay chiếm tỷ trọng không lớn ở nhữn nước đang phát triển,
bởi vì ở các nước này Ngân hàng muốn có được vốn ở nguồn này phải được phép
của Ngân hàng Nhà nước và thường dưới hình thức vay theo hiệp định.
* Nguồn vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất để Ngân hàng có thể hoạt
động để cho vay. Đây là số tiền Ngân hàng nhận được dưới nhiều hình thức khác
nhau.
- Nhận tiền gửi của khách hàng.
- Vốn đi vay của các tổ chức tín dụng.
- Vốn phát hành.
Ngân hàng có quyền sử dụng số tiền này để phục vụ cho các mục đích của
mình. Nếu như trong thời kỳ bao cấp, việc huy động vốn của Ngân hàng theo quy
chế tập trung toàn ngành và phụ thuộc vào chủ tiêu do trên giao thì này chuyển sang
hạch toán kinh doanh, huy động vốn đuợc thực hiện một cách linh hoạt căn cứ vào
các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước và nhu cầu vay vốn của nền kinh tế.
1.1.2. Vai trò của nguồn vốn đối với hoạt động cuả NHTM:

Nguồn vốn là một trong những cơ sở quan trọng nhất cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại đặc biệt là nguồn vốn huy động được vì nó chiếm
tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu nguồn vốn ở các ngân hàng. Các nguồn vốn huy động
được sẽ quyết định quy mô cũng như định hướng hoạt động của ngân hàng. Nếu
nguồn vốn được coi là yếu tố đầu vào trong quá trình kinh doanh của một NHTM
thì nguồn vốn huy động được coi là yếu tố đầu vào thường xuyên, chủ yếu nhất của
ngân hàng. Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào
nguồn này.
Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh của
NHTM. Cụ thể, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp
nó có thể mở rộng được tín dụng đầu tư và thu được lợi nhuận cao. Ngược lại, với
quy mô hạn chế và chi phí cao thì ngân hàng có thể gặp khó khăn trong hoạt động
kinh doanh của mình. Chi phí huy động vốn của ngân hàng liên quan chặt chẽ với
Vốn đi vay của tài chính n dụng
Tiền gửi của
khách hàng
Vốn phát hành
Nguồn vốn huy động của
Ngân hàng thương mại
Tiền ết kiệmTiền ký gửi
Phát hành trái phiếu
Phát hành kỳ phiếu
Ký gửi có
kỳ hạn
Ký gửi không kỳ hạn
Gửi rút ra phải báo trước
Gửi để dành có hạn
6
lãi suất tiền gửi các loại, lãi suất tiền gửi tiết kiệm các loại và lãi suất các công cụ
nợ do ngân hàng phát hành. Nguồn vốn huy động không những giúp cho ngân hàng

bù đắp được thiếu hụt trong thanh toán, tăng nguồn vốn trong kinh doanh mà thông
qua huy động vốn, ngân hàng nắm bắt được năng lực tài chính của khách hàng có
quan hệ tín dụng với ngân hàng. Qua đó, ngân hàng có căn cứ để xác định mức vốn
đầu tư cho vay đối với những khách hàng đó hoặc có thể phát hiện kịp thời tệ tham
ô, trốn thuế, lừa đảo của các doanh nghiệp làm ăn không chính đáng. Từ đó có biện
pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Cơ cấu nguồn vốn cũng ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu cho vay của NHTM.
Vốn tự có của ngân hàng chỉ phát sinh khi nhu cầu thanh toán tín dụng cấp bách còn
ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn huy động được. Nếu một ngân hàng huy động
được vốn trung và dài hạn thì có thể mở rộng nghiệp vụ tín dụng đầu tư dài hạn.
Nhưng hiện nay việc huy động vốn trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu cầu
đầu tư phát triển kinh tế nên một ngân hàng có thể dùng vốn hoạt động ngắn hạn để
cho vay trung và dài hạn nhưng không được vượt quá một tỷ lệ nhất định vì điều đó
sẽ dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán của ngân hàng.
Bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn ngân hàng huy
động được lại là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên công tác huy động vốn
càng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy,
công tác huy động vốn là một mảng hoạt động lớn của các NHTM và nó quyết định
rất lớn đến thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng.
1.1.3. Các hình thức huy động vốn của NHTM
Một trong những hoạt động chủ yếu nhất của Ngân hàng thương mại là huy
động vốn để cho vay, để hiểu rõ hơn về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại ta có thể phân loại ra nghiệp vụ vốn theo sơ đồ sau :
7
• Tiển gửi của khách hàng:
Tiền gửi của khách hàng bao gồm : tiền gửi tiết kiệm và tiền ký gửi.
a) Tiền ký gửi:
Tiền ký gửi gồm các khoản tiền gửi vào Ngân hàng có kỳ hạn và không kỳ
hạn. Lịch sử phát triển hoạt động Ngân hàng cho thấy để bảo quản tốt tiền vàng,
người ta đã thuê sở đúc tiền giữ hộ và sở này sẽ có một khoản thu nhập từ việc bảo

quản tiền vàng. Đây là hình thức ban đầu của nghiệp vụ ký gửi. Hiện nay có rất
nhiều loại tiền ký gửi. Đó là nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong tài khoản của các cơ
quan xí nghiệp. Để có được tuận lợi trong sản xuất kinh doanh các cơ sở kinh tế có
thể lựa chọn một hay nhiều Ngân hàng thương mại để giao dịch nhằm giải quyết
việc thu chi chuyển tiền thanh toán và các dịch vụ tài chính khác.
8
Xét về mặt nghiệp vụ Ngân hàng thì tiền ký gửi có thể phân thành hai loại
chính đó là :
Tiền gửi không kỳ hạn : Đây là số tiền nằm trong tài khoản vãng lai hoặc
tài khoản thanh toán và có thể rút ra vào kỳ lúc nào. Pháp luật một số nước không
cho phép tính lãi đối với tiền tạm thời nhãn rỗi trong tài khoản cơ quan xn. Tuy
nhiên, cũng có nước cho phép tính lãi nhưng rất thấp.
Tiền gửi không kỳ hạn trước hết được dùng để thanh toán vãng lai, vịec
thanh toán vãng lai này có thể tiến hành dưới dạng tiền mặt, séc hoặc uỷ nhiệm chi.
Sau khi mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng, chủ tài khoản phải giao cho Ngân
hàng quyền ghi chép, theo dõi các nghiệp vụ phát dinh trên tài khoản của họ ở Ngân
hàng. Chi phí hoạt động này của Ngân hàng khá lớn nhưng trên thực tế Ngân hàng
có thể bù đắp được khoản chi phí này qua việc sử dụng số dư các tài khoản này để
cho vay lại, và đây chính là nguồn mang lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
Tiền gửi không kỳ hạn có thể để ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi.
Hai loại tài khoản này khác nhau ở chỗ nếu để ở tài khoản tiền gửi thì chủ tài khoản
được sử dụng số thực của mình nghĩa là tài khoản khách hàng phải luôn luôn dư có.
Loại tài khoản này thuận lợi, an toàn, tuy có lãi suất thấp, thuận tiện trong thanh
toán (có thể chuyển đổi thành tiền mặt 100%) nên đây là loại tài khoản rất hấp dẫn
khách hàng, tạo ra một lượng vốn lớn phục vụ hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Nếu ở tài khoản vãng lai thì chủ tài khoản có thể rút tài khoản ra bất cứ lúc nào
hoặc tạm vay trong thời hạn nhất định vì tài khoản có thể dư nợ hoặc dư có. Nhưng
trên thực tế hiện này trong các tài khoản tiền gửi cũng có thể dư nợ nếu có sự thoả
thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng.
Đối với tài khoản vãng lai có hai loại lãi suất được áp dụng đồng thời: lãi

suất mà đơn vị phải trả cho Ngân hàng (nếu dư nợ trên tài khoản) và lãi suất lãi
suất này do chủ tài khoản và Ngân hàng phải trả cho đơn vị (nếu tài khoản dư có),
hai lãi suất này di chủ tài khoản và Ngân hàng thoả thuận trước và lãi suất trả cho số
dư nợ luôn lớn hơn lãi suất trả cho số dư có. Chính vì vậy mà khách hàng luôn tìm
cách bỏ tiền vào tài khoản nhằm giảm mức dư nợ đến mức thấp nhất, từ đó làm tăng
nguồn vốn của Ngân hàng.
9
Trong những năm qua ý nghĩa của tiền gửi không kỳ hạn ở Ngân hàng tăng
lên rõ rệt. Nếu trước đây những tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng chủ yếu của doanh
nghiệp và của những người thu nhập cao thì ngày nay đa số công nhân viên chức
đều có tài khoản tiết kiệm bởi vì một mặt các công ty, xí nghiệp hợp lý nhất là trả
lương không bằng tiền mặt, thêm vào đó ngân hàng thương mại lại có rất nhiều dịch
vụ giúp cho chủ tài khoản thanh thanh toán kịp thời nhanh chóng các tài khoản chi
tiêu thường kỳ của họ như : tiền thuê nhà, thuê bao điện thoại, nộp thuế Do đó
tiền gửi không kỳ hạn đã trở thành một nguồn cho vay hết sức quan trọng đồng
thười cũng đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn : là loại tiền gửi không dùng để thanh toán mà chủ yếu
là để kiếm lời cao. So với tiền gửi vãng lai thì loại tiền gửi này có thời hạn gửi tiền
dài hơn thông thường ít nhất là 1 tháng. Tiền gửi có kỳ hạn đối vơi snhh là số tiền
gửi đến một ngày nhất định mới phải trả lại cho khách hàng. Điều này giúp cho
Ngân hàng nắm được vốn trong các thời kỳ đã có kế hoạhc cho vay không phải tồn
quỹ cao để đề phòng sự rút vốn bất thường. Đo đó việc sử dụng nguồn vốn này cho
vay rất hiệu quả, vì vậy lãi suất trả cho tiền gửi có kỳ hạn cao hơn tiền gửi không kỳ
hạn.
Đối với tiền có kỳ hạn đến hạn mới được lấy ra, nếu xét về nguyên tắc. Tuy
nhiên trong trường hợp ngoại lệ người gửi muốn rút tiền ra trước thời hạn, trong
trường hợp này có 2 cách giải quyết. Hoặc người gửi tiền ấy được vay của Ngân
hàng một khoản tiền mà họ cần, sau đó khi đến hạn trả tiền sẽ sử dụng tiền đó để
hoàn trả cho Ngân hàng. Hoặc thoả thuận với Ngân hàng rút trước thời hạn nhưng
hưởng lãi suất thấp. Ta thấy trong mọi trường hợp thì Ngân hàng luôn tự chủ được

về thời hạn hoàn trả tiền ký gửi cho khách hàng, vì vậy đấy là một nguồn rất quan
trọng, có độ ổn định cao của Ngân hàng.
b) Tiền gửi tiết kiệm:
Ở các nước trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp hoá phát triển tiền tiết
kiệm là loại tiền có số lượng lớn thứ hai trong số các loại tiền gửi vào Ngân hàng.
Đặc điểm của loại tiền gửi này là người gửi tiền được giao cầm sổ tiết kiệm, sổ này
được coi như là giấy chứng nhận việc gửi tiền vào Ngân hàng của khách hàng. Gửi
10
tiết kiệm là những người có được một số tiền tích luỹ bằng ngoại tệ hay nội tệ nhất
định và muốn tích luỹ số tiền này theo kiểu “tích tiểu thành đại”, Hoặc do số tiền
của họ không đủ lớn để đầu tư sản xuất kinh doanh, hoặc người chủ không có khả
năng hoặc không thích kinh doanh, khi đó họ sẽ đến Ngân hàng để gửi tiền.
Tiền gửi tiết kiệm chia làm 2 loại :
- Gửi tiền có kỳ hạn.
- Gửi tiền không kỳ hạn.
Gửi tiền có kỳ hạn : nghĩa là gửi tiền theo một thời gian nhất định đến một ngày
mới trả lại cho người gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9
tháng, 12 tháng Với loại tiền gửi này tuỳ theo pháp luật của từng nứoc mà sẽ có
những quy định cụ thể khác nhau về việc rút tiền. Đối với loại gửi tiền này thì người
gửi tiền và quỹ tiết kiệm không phải thoả thuận trước về thời hạn rút tiền mà cả hai
bên đều phải tuân thủ những quy định của pháp luật. Ví dụ như : trong một thời hạn
nhất định người gửi tiền chỉ được rút ra một số tiền nhất định, muốn rút số tiền lớn
hơn phải báo trước cho Ngân hàng trong một khoảng thời gian nhất định được quy
định.
Gửi tiền không kỳ hạn: đây là hình thức gửi tiền mà thời hạn rút do bên người gửi
và Ngân hàng tự thoả thuận. Đối với tiền gửi này các Ngân hàng thuộc cấc thành
phần như nhân dân lao động, công nhân viên chức, học sinh, các khoản tiền này chủ
yếu là để dành dụm nhằm trang trải chi tiêu cần thiết, đồng thời có một khoản tiền
lãi bù đắp co sịnh hoạt hàng ngày. Trong trường hợp đa số thời hạn báo trước là một
vài ngày kể từ sau thời hạn thoả thuận rút tiền ban đầu.

Qua một số điểm phân tích ta thấy, với loại tiền gửi có kỳ hạn thì Ngân hàng
có thể dự tính được toàn bộ các vấn đề phát sinh đối với khoản tiền này như : khi
nào phải trả tiền và sử dụng bao nhiêu và trong bao lâu theo các thời hạn khác nhau
cho Ngân hàng chủ động biết được thời hạn của người gửi tiền và do tính thời hạn
ổn định của loại tiền gửi này. Trong khi đó với loại tiền gửi không kỳ hạn, thời hạn
rút tiền không ổn định do khách hàng có thể rút tiền vào bất cứ lúc nào, nếu họ cần
vì vậy Ngân hàng không thể sự dụng toàn bộ số tiền này để cho vay mà chỉ dùng
11
một phần mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn, số còn lại thường thì Ngân hàng đầu tư
vào cầm cố bất động sản, vào mua chứng khoán, công trái nhà nước đễ dễ dàng
nhanh chóng chuyển để thanh thanh toán bằng tiền mặt. Chính vì vậy mà lãi suất
tiết kiệm có kỳ hạn luôn cao hơn lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn và Ngân hàng làm
như vậy là nhằm tăng cường khối lượng vốn ổn định cho mình.
Trên đây là các hình thức huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế
trong khuôn khổ nguồn tiền ký gửi và tiết kiệm. Hiện nay, ở các nước trên thế giới
(kể cả Việt Nam) người ta cho rằng vận động nhân dân gửi tiết kiệm là một trong
các nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng. Bởi vì nếu huy động được nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp,
góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Bên cạnh các hình thức huy động vốn như trên, Ngân hàng thương mại còn
một số hình thức huy động tiền tiết kiệm của dân cư như :
Tiết kiệm xây dựng nhà ở: đây là hình thức “đi vay để cho vay” của Ngân hàng.
Hình thức đưa ra nhằm mục đích tạo vốn cho Ngân hàng nhưng đồng thời giúp dân
cư có tiền để giải quyết vấn đề nhà ở, thông qua đó giảm bớt thời gian vốn bị ứ
đọng. Theo hình thức này thì khách hàng phải gửi đủ tiền theo hợp đồng đã ký kết
với Ngân hàng, sau một thời gian tối thiểu là 1 năm khách hàng được rút tiền gửi cả
gốc và lãi đồng thời được Ngân hàng cho vay một số vốn tối đa bằng số tiền đã gửi
và Ngân hàng phải chịu trách nhiệm về việc huy động vốn và chuẩn bị đủ vốn để
thanh thanh toán với khách hàng theo quy định.
Tài khoản séc dùng cho cá nhân: thủ tục mở tài khoản này giống như thủ tục gửi

tiền tiết kiệm nhứng thay vì được phát một quyển sổ tiết kiệm người mở tài khoản
sẽ được cấp một tập séc. Mọi khoản thanh toán của họ có thể thực hiện dưới hình
thức phát séc.
• Vốn đi vay của các tổ chức tín dụng :
Trong thực tế , các Ngân hàng thương mại luôn có sự không cân đối giữa
nguồn vốn huy động và nguồn vốn sử dụng, vì vậy khi thiếu vồn đột xuất Ngân
12
hàng thương mại có thể vay của các tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường liên
Ngân hàng.
Thị trường này giúp cho Ngân hàng thương mại bổ sung nguồn vốn cho
nhau, giải quyết nhanh nhu cầu thiếu hụt trong thanh toán vủa nền kinh tế. Hoạt
động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn có một
cách triệt để trước khi cần yêu cầu đến tiền trung ương.
Tỷ trọng của nguồn này trong tổng nguồn vốn phản ánh quan hệ của Ngân
hàng với các tổ chức tài chính khác và chất lượng công tác thanh toán của Ngân
hàng bởi nếu tỷ trọng của nguồn này lớn, chứng tỏ rằng Ngân hàng rất có uy tín
trong quan hệ thanh toán cả đối với khách hàng và đối với các tổ chức tín dụng
khác.
Ở nước ta hoạt động của thị trường liên Ngân hàng còn hạn chế về quy mô
hoạt động , do đó khó khăn chung về nguồn vốn vủa cả hệ thống và thiều các định
chế thích hợp.
• Vốn phát hành:
Vốn phát hành của Ngân hàng thuộc loại : “ chủ động thu gom” đây là hình
thức huy động thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Những hình thức huy động
vốn ở trên đựoc xếp vào loại “bị động thu gom”. Xét về bản chất thì hai loại này
không khác nhau nhiều, tuy nhiên nó khác nhau ở chỗ :
1* Lãi suất “vốn chủ động đi vay” cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
2* “vốn chủ động đi vay” được huy động theo sáng kiến của từng Ngân
hàng, đây là khoản tiền nhận gửi có bảo đảm ché không phải tiền gửi đơn thuần.
Vốn này cũng thuộc loại tín dụng dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.

Với loại “vốn chủ động đi vay” Ngân hàng hoàn thanh toánàn tự chủ về mặt
thời hạn hoàn trả do đó có thể sử dụng cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn là tuỳ
thuộc vào thời hạn của vốn vay và mặc dù lãi suất xao hơn thông thường Ngân hàng
vẫn được lợi nhiều từ hình thức huy động này.
13
Tóm lại, với những hình thức huy động vốn như trên của Ngân hàng thương
mại, các Ngân hàng có thể thực hiện được việc kết hợp giữâ huy động vốn và cho
vay một cách nhịp nhành. Do đó, nếu thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của mỗi hình
thức huy động vốn nói trên, Ngân hàng có thể vừa mở rộng đuợc thị trường đầy vào
đồng thời mở rộng được luôn thị trường đầu ra cho mình, bảo đảm cho Ngân hàng
luôn luôn nắm được thế chủ động trong kinh doanh kinh doanh.
Tuy nhiên, tuỳ theo đặc điểm của nền kinh tế, đặc điểm của từng khu vực
hoạt động và đặc điểm của từng Ngân hàng mà các hình thức huy động này đuợc
biến đổi và thực hiện cho phù hợp.
1.2. Khái quát về huy động vốn từ dân cư:
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của vốn dân cư:
Huy động vốn từ dân cư chiếm tỷ trọng không lớn trong nguồn vốn của
NHTM nhưng lại là mục tiêu tăng trưởng hằng năm của các NHTM nên các NHTM
thường tìm mọi cách để duy trì và thu hút vốn huy động từ các dân cư.
Huy động vốn từ dân cư có một số đặc điểm đáng chú ý như sau:
Quy mô tiền gửi của dân cư lớn: đặc điểm này là do bản chất của những
khoản huy động từ dân cư chính là những khoản nhàn rồi tạm thời trong xã hội và
được người dân tích trữ lại như một khoản tiết kiệm để phục vụ cho nhu cầu sử
dụng trong tương lai. Vì dân cư là đối tượng đông nhất trong nền kinh tế nên về
tổng thể thì tập trung nguồn vốn này sẽ tạo ra một nguồn vốn có quy mô lớn cho
NHTM, đối với NH thì đó là những nguồn mà NH tổ chức huy động từ dân cư để
được tái đầu tư sinh lời thông qua NH cho nên chi phí của vốn của huy động từ dân
cư sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí huy động chung của tổng nguồn huy động và
là một trong những chỉ tiêu quan trọng để NHTM xác địch lãi suất cho vay.
Tiền gửi dân cư lại là nguồn ổn định nhất: là cơ sở để các NHTM quy định tỷ

lệ dự trữ và tỷ lệ cho vay ,vốn huy động từ các tổ chức tín dụng khác và của các tổ
chức kinh tế xã hội thường không ổn định do sự di chuyển liên tục của dòng tiền
trong nền kinh tế, còn vốn chủ sở hữu có chi phí sở hữu rất lớn nên không cho hiệu
quả cao khi cho vay. Trong khi đó, vốn huy động từ dân cư có được tính chất ổn
định cho người dân khi gửi tiền vào NHTM thường do mục địch tích lũy để tiêu
14
dùng những việc lớn hơn trong tương lại, nên NH có kế hoạch và có thể dự báo
được thời điểm tăng giảm của nó.
Vốn huy động từ dân cư là nguồn vốn có thời hạn tương đối dài, là tiền đề để
NHTM cho vay trung và dài hạn, điều nay được quy định bởi hành vi tích lũy của
người dân khi gửi tiền hay cho NHTM vay, các nguồn khác như vay từ NHNN và
các tổ chức kinh tế xã hội thì thời hạn là rất ngắn hoặc không có kỳ hạn do việc sử
dụng thường xuyên vốn của các tổ chức này.
1.2.1. Vai trò của huy động vốn từ dân cư:
 Vai trò đối với Xã Hội: huy động tiền gửi dân cư tăng cường tiết kiệm và
giảm chi tiêu, tạo công ăn việc làm cho người lao động , tăng cường sản xuất
kinh doanh, tiết kiệm chi phí phát hành và lưu thông tiền mặt cho xã hội.
 Vai trò đối với người dân: Tăng thêm thu nhập cho người dân thông qua
khoản thu nhập từ lãi, chênh lệch mua bán các loại chứng từ có giá, thu nhập
từ quà tặng của hình thức tiết kiệm dự thưởng
 Vai trò đối với NHTM: giúp tăng cường nguồn vốn của NHTM, là tấm đệm
cho hoạt động kinh doanh của NH, dân cư không chỉ là đối tượng hoạt động
của NHTM mà còn là khách hàng của NHTM từ đó giúp cho hoạt động kinh
doanh của NH trở nên có hiệu quả.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn dân cư của NHTM:
• Huy động vốn dưới hình thức chứng chỉ tiền gửi
• Huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu và trái phiếu
Kỳ phiếu: đây là hình thức huy động nợ ngắn hạn với khối lượng lớn của NH,
lãi suất thông thường của kỳ phiếu cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, trả lãi trước
và sau kỳ phiếu có thời gian ngăn hơn, tính lỏng cao hơn trái phiếu nên được thị

trường ưa thích hơn.
Trái phiếu: đây là hình thức huy động nợ dài hạn của NH để chuẩn bị cho những
dự án cụ thể có vốn đầu tư lớn nên lãi suất cao hơn lãi suất của kỳ phiếu.
• Huy động vốn dưới hình thức mở tài khoản cá nhân
NHTM có thể huy động tiền gửi dân cư dưới hình thức mở tài khoản cá nhân
cho khách hàng để thanh toán. Tài khoản thanh toán của cá nhân là loại tài khoản
mà người chi có toàn quyền sử dụng trong phạm vi số dư như: khách hàng có thể
15
rút tiền tại quầy giao dịch hoặc máy rút tiền tự động, có thể thực hiện thanh toán
qua NH. Khách hàng phải tuân thủ các quy định và hướng dẫn của NH trong quá
trình thực hiện thanh toán, còn NH phải thực hiện tính thanh khoản theo yêu cầu
của khách hàng, và chỉ được từ chối khi số tiền thanh khoản vượt quá số dư tiết
kiệm hoặc giấy tờ thanh khoản không đúng yêu cầu. Ở nhiều nước trên thế giới có
nền kinh tế phát triển thì việc sử dụng tiết kiệm này chỉ được hưởng các dịch vụ NH
chứ không được hưởng lãi, còn ở việt nam để khuyến khích hình thức này phát
triển, NH để người gửi tiền được hưởng một mức lãi suất thấp và không phải trả lệ
phí
• Huy động vốn dưới hình thức khác
Huy động dưới các hình thức khác chiếm một tỷ lệ không đáng kể trong tổng nguồn
vốn huy động được
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn dân cư của
NHTM:
1.3.1 Nhân tố khách quan.
 Môi trường kinh tế xã hội
Khi nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển, người dân có thu nhập cao hơn,
từ đó tạo điều kiện tích lũy nhiều hơn, tức là huy động vốn từ tiền gửi dân cư sẽ
tăng. Đồng thời tạo môi trường kinh doanh cho NH có hiệu quả, và từ đó làm tăng
vốn tự có của NH
Khi nền kinh tế không tăng trưởng, sản xuất bị kìm hãm nền kinh tế suy thoái,
lạm phát tăng cao, khả năng tiết kiệm của dân cư giảm, huy động vốn từ dân cư tại

ngân hàng sẽ giảm.
 Cơ chế chính sách của Nhà Nước
Hoạt động huy động tiền gửi từ dân cư chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cơ chế của
Nhà nước, trước hết là hành lang pháp lý có ảnh hưởng đến tất cả mọi hoạt động
của NH trong đó có hoạt động huy động vốn tiền gửi từ dân cư như luật tổ chức tín
dụng, luật NHNN…
16
VD các luật đó quy định hệ số an toàn vốn tối thiểu của một NHTM bé hơn bằng
8%, hoặc đối với tiền gửi thì các NHTM phải thành lập dự trữ. Ngoài ra hoạt động
huy động vốn từ dân cư còn chịu ảnh hưởng của chính sách tiền tệ qua hai công cụ
chủ yếu là lãi suất chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Chính sách tiền tệ gián tiếp
điều chỉnh lãi suất huy động vốn từ dân cư của NHTM, nếu chính sách tiền tệ nhằm
chống lại lạm phát thì NHNN cung ứng tiền ra lưu thông với lãi suất tái chiết khấu
làm hạn chế việc đi vay của NHTM, dẫn đến các NHTM tích cực hơn trong việc
huy động vốn từ dân cư, do đó có thể làm lãi suất huy động vốn từ dân cư tăng và
ngược lại. Khi NHNN điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm thắt chặt hoặc nới
lỏng khả năng tạo tiền của các NHTM do đó ảnh hưởng đến lãi suất huy động vốn
từ dân cư. Hơn nữa mục tiêu của các chính sách tiền tệ là kiểm soát lạm phát bình
ổn giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm , chính sách tiền tệ làm tăng
thêm thu nhập cho người dân, từ đó dân cư có thêm khoản tiền nhàn rỗi để gửi vào
NH nhằm mục đích sinh lời.
 Thói quen tập quán và thu nhập của dân cư
Ngân hàng là nơi mà khách hàng rất tin tưởng nên khách hàng giao túi tiền của
mình cho NH nhằm thực hiện các mục đích khác nhau như, đảm bảo an toàn chi
tiền bạc của mình hoặc nhằm sinh lãi, hoặc hưởng các dịch vụ của NH … Cho nên
ta thường ví NH như người nắm túi tiền của nền kinh tế. Nếu NH không được người
dân tin tưởng thì NH không thể thực hiện được vai trò là trung gian tài chính và
chắc chắn là sẽ không phát triển
Thói quen tiêu dùng của người dân ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy đông
vốn của các NH, đặc biệt là tập quán sử dụng tiền tệ. Nếu người dân có thói quên sử

dụng tiền mặt ít thì khả năng tiết kiệm của người dân tăng làm nguồn vốn huy động
từ dân cư của NH được tăng cường
Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NH. Nếu ở
những vùng dân cư người ta quen dùng tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất giữ là chính
thì việc huy động vốn của NH sẽ gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn vào thời kỳ vàng
còn có giá trị thì người ta dùng tiền nhàn rỗi để mua vàng cất trữ, còn khi người dân
có nhu cầu hưởng lãi thì hoặc bảo quản thì họ gửi tiền vào NH nhiều hơn làm cơ hội
huy động vốn của NH tăng lên…Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch thanh
17
toán qua NH rất nhiều, hầu hết những người dân có thu nhập đều mở tài khoản séc
để thanh toán qua NH, còn những nước kém phát triển, thu nhập của người dân
thấp, nhu cầu giao dịch thanh toán quan NH còn rất hạn chế nến ít người mở tài
khoản tại NH. Điều này sẽ làm giảm khả năng tạo tiền tại hệ thống NHTM, không
phát huy được tính hiệu quả của tài khoản giao dịch
Thu nhập của người dân cũng ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn của
NHTM, thu nhập của người dân càng cao thì khả năng tiết kiệm của họ cang lớn
làm lượng tiền gửi vào NH sẽ lớn và ngược lại.
1.3.2 Nhân tố chủ quan
 Các hình thức huy động vốn và chất lượng các dịch vụ do ngân hàng cung
ứng, và hệ thống màng lưới
Hình thức huy động vốn của ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng linh
hoạt và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn, xuất phát từ
sự khác nhau về nhu cầu và tâm lý trong dân cư . Chính sự đa dạng hoá các hình
thức huy động vốn của Ngân hàng đã giúp cho mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp
tìm được cho mình một hình thức đầu tư hợp lý nhất.
Khi các ngân hàng thương mại đưa ra các hình thức huy động vốn ngày càng đa
dạng và hợp lý, cùng với việc mở rộng hệ thống màng lưới hoạt động, và nâng cao
chất lượng hoạt động các dịch vụ ngân hàng, từ đó thu hút ngày càng nhiều khách
hàng đến với ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc huy động
vốn . Ngược lại khi các hình thức huy động vốn của ngân hàng chưa đa dạng,

phong phú, chất lượng hoạt động dịch vụ chưa cao, hệ thống màng lưới còn ít, chưa
thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch với ngân hàng, thì nó sẽ ảnh hưởng
không tốt tới huy động vốn của ngân hàng .
Hiện nay với sự đổi mới sâu sắc của ngành ngân hàng, các ngân hàng thương
mại không ngừng đổi mới về khoa học, công nghệ, về phong cách giao dịch, mở
rộng các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng, phát triển thêm mạng lưới hoạt
động từ chi nhánh cấp 3, cấp 4, các ngân hàng lưu động, và các ngân hàng hoạt
động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ
 Chất lượng hoạt động tín dụng
18
Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tiền
gửi vào hệ thống ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn làm nhiệm vụ khơi tăng các
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, thì nghiệp vụ sử dụng vốn thực hiện sử dụng
các nguồn vốn đó vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để đem lại khả năng sinh lời,
thu lợi nhuận về cho ngân hàng .Do vậy nếu nghiệp vụ sử dụng vốn không hiệu quả
tất yếu dẫn đến việc huy động vốn bị thu hẹp lại . Khi sử dụng vốn kém hiệu quả,
làm thất thoát vốn nhiều dẫn đến lòng tin của dân chúng vào ngân hàng bị giảm đi .
Từ đó sẽ rất khó khăn cho các hình thức huy động các nguồn vốn nhàn rỗi . Mặt
khác hoạt động tín dụng hiệu quả tạo cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
kinh doanh có hiệu quả, thu nhập xã hội ngày càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, đời
sống của dân cư ngày càng nâng cao, nguồn vốn nhàn rỗi ngày càng tăng, tạo cho
nguồn vốn ngân hàng huy động ngày càng tăng trưởng để thực hiện đầu tư cho các
chu kỳ sản xuất tiếp theo .
 Uy tín của ngân hàng.
Có thể gọi đây chính là tài sản vô hình của ngân hàng. Uy tín bao gồm uy tín của
ngân hàng trong toàn hệ thống, của các thành viên trong hội đồng quản trị, ban giám
đốc. Sự nổi tiếng của ngân hàng là tài sản quý trong công tác huy động vốn vì trong
lòng thị trường ngân hàng đã tạo một hình ảnh riêng, khi đó khách hàng sẽ tin tưởng
vào ngân hàng, giúp ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động, tiết
kiệm chi phí huy động (thực tế khi ngân hàng có tiếng tăm, họ dễ dàng thu hút vốn

hơn các ngân hàng khác ngay cả khi lãi suất tiền gửi của ngân hàng đưa ra có thấp
hơn).
 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến
lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của
mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức đồng thời
dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua
chiến lược kinh doanh ngân hàng ngân hàng sẽ có thể quyết định thu hẹp hay mở
rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng
19
hay giảm chi phí huy động. Với tác dụng to lớn như vậy, nếu chiến lược kinh doanh
được lựa chọn đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách tối đa thì công tác
huy động vốn sẽ phát huy được hiệu quả.
 Trình độ công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng bao gồm cơ sở vật chất phục vụ ngân hàng; các
loại hình dịch vụ ngân hàng cung ứng; trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên
ngân hàng. Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên
tiến mang lại lợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thuận lợi và
phục vụ cho khách hàng tốt hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng
sẽ tin tưởng yên tâm hơn khi gửi tiền ở một ngân hàng có trình độ công nghệ trình
độ công nghệ ngân hàng cao. Và khi khách hàng đã thực sự yên tâm gửi tièn thì
ngân hàng dễ dàng trong việc huy động.
 Năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng
Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, tài sản nợ, tài sản có, tức là trong quá
trình hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng dự đoán được những rủi ro xảy ra,
dự đoán được môi trường đầu tư của mình có hiệu quả hay không thì quá trình hoạt
động của ngân hàng đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, tạo điều kiện thu hút
khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền.
Mặt khác, trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng càng cao, mọi thao tác nghiệp
vụ thực hiện nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả; thái độ phục vụ, tác phong làm

việc của cán bộ ngân hàng tốt, nhiệt tình, cởi mở, tạo thuận lợi cho khách hàng sẽ
gây được ấn tượng tốt đối với khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng hơn. Thái
độ phục vụ của cán bộ ngân hàng đối với khách hàng có ảnh hưởng lớn đến việc
huy động vốn cho ngân hàng. Do đó, để thu hút khách hàng gửi tiền, đi đôi với việc
trau dồi kiến thức, nghiệp vụ, cán bộ ngân hàng phải thường xuyên chú ý đến thái
độ phục vụ của mình sao cho vừa lòng khách hàng .
 Công tác quảng cáo , khuyến mãi…
Các ngân hàng thương mại hiện nay đã từng bước học tập và ứng dụng nghệ
thuật thông tin quảng cáo, các hình thức khuyến mãi…Tuy việc đầu tư cho công tác
20
này còn hạn chế, nhưng có thể nói đây cũng là mặt mạnh của ngành ngân hàng
trong việc cạnh tranh để huy động tiền gửi. Thông tin quảng cáo, tiếp thị khuyến
mại, các dịch vụ hậu mãi rõ ràng sẽ phát triển mạnh mẽ trong cơ chế thị trường. Và
tuỳ vào chu kỳ sống của sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp để các nhà quản
trị ngân hàng chọn thời điểm, thời gian sử dụng, chiến lược quảng cáo khuyến mãi
cũng như hậu mãi phù hợp làm giảm hiệu quả hoạt động huy động vốn của ngân
hàng.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn dân cư tại ngân hàng Vietcombank
Thanh Hóa
2.1 Khái quát chung về Vietcombank Thanh Hóa
2.1.1.Quá trình phát triển và Bộ máy tổ chức hiện nay
Ngày 26/02/2010, chi nhánh Ngân hàng TMCP Ngoại thương Thanh Hóa
được thành lập theo quyết định số 88/HĐQT - TCCBĐT của Chủ tịch HĐQT Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
Cùng với những tín hiệu khởi sắc của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, hoạt động kinh doanh của VCB Thanh Hóa đã có những bước phát triển khả
quan, đã thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch về tín dụng, huy động vốn, lợi
nhuận, trích lập dự phòng rủi ro. Với 2 năm xây dựng và trưởng thành, VCB Thanh
Hóa đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đi tiên phong trong cơ chế thị trường,
phục vụ và góp phần tích cực thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và

Nhà nước; không ngừng phấn đấu vươn lên, khẳng định đựơc vị thế của mình trên
thị trường, có bước phát triển đáng kể và tăng trưởng nhanh, đạt được nhiều thành
tựu to lớn trên mọi mặt hoạt động kinh doanh - dịch vụ ngân hàng; phát triển đồng
21
đều cả kinh doanh đối nội và kinh doanh đối ngoại, công nghệ ngân hàng tiên tiến,
có uy tín với khách hàng trong nước và quốc tế.
Các hoạt động chính của Chi nhánh bao gồm:
 Huy động vốn:
Nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng Việt Nam đồng (VNĐ) và ngoại tệ
của các tổ chức kinh tế và dân cư.
Nhận tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình thức phong phú và hấp dẫn: Tiết kiệm không
kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ, Tiết kiệm dự thưởng, Tiết kiệm tích
luỹ
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
 Cho vay, đầu tư:
Cho vay ngắn hạn bằng VNĐ và ngoại tệ.
Cho vay trung, dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ.
Tài trợ xuất, nhập khẩu; chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất.
Đồng tài trợ, cho vay hợp vốn đối với những dự án lớn, thời gian hoàn vốn dài.
Thấu chi, cho vay tiêu dùng.
 Bảo lãnh:
Bảo lãnh, tái bảo lãnh (trong nước và quốc tế): Bảo lãnh dự thầu; Bảo lãnh thực
hiện hợp đồng; Bảo lãnh thanh toán.
 Thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại:
Phát hành, thanh toán thư tín dụng nhập khẩu; thông báo, xác nhận, thanh toán thư
tín dụng nhập khẩu.
Nhờ thu xuất, nhập khẩu (Collection); Nhờ thu hối phiếu trả ngay (D/P) và nhờ thu
chấp nhận hối phiếu (D/A).
Chuyển tiền trong nước và quốc tế
Nhận tiền nhanh Moneygram: nhận tiền nhanh trong vòng 10 phút.

Thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc.
Chi trả lương cho doanh nghiệp qua tài khoản, qua ATM
Chi trả Kiều hối…
 Ngân quỹ:
Mua, bán ngoại tệ (Spot, Forward, Swap…)
22
Mua, bán các chứng từ có giá (trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, thương
phiếu…)
Thu, chi hộ tiền mặt VNĐ và ngoại tệ
Cho thuê két sắt; cất giữ bảo quản vàng, bạc, đá quý, giấy tờ có giá, bằng phát minh
sáng chế.
 Thẻ và ngân hàng điện tử:
Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín dụng quốc tế (VISA, MASTER
CARD…)
Dịch vụ thẻ ATM.
Internet Banking, Phone Banking, SMS Banking.
 Hoạt động khác:
Khai thác bảo hiểm nhân thọ
Tư vấn đầu tư và tài chính
Cho thuê tài chính
Môi giới, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn, lưu ký chứng khoán
Để hoàn thiện các dịch vụ liên quan hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của khách hàng, đồng thời tạo đà cho sự phát triển và hội nhập với các nước trong
khu vực và quốc tế, VCB Thanh Hóa đã đưa ra tầm nhìn chiến lược trong đầu tư và
phát triển, tập trung ở 3 lĩnh vực:
• Phát triển nguồn nhân lực
• Phát triển công nghệ
• Phát triển kênh phân phối
Bộ máy tổ chức của Vietcombank Thanh Hóa:
• Tổng số lao động của chi nhánh là 43 lao động.

• Các phòng/ ban:
o Ban Giám đốc: 01 giám đốc.
o Phòng nghiệp vụ bao gồm 03 phòng:
o Phòng Khách hàng: có 08 CBNV
Trong đó: - 01 trưởng phòng, trình độ học vấn: Cử nhân kinh tế.
- 07 nhân viên Quan hệ khách hàng, trình độ học vấn: 07/07
Cử nhân kinh tế.
o Phòng Kế toán thanh toán và Kinh doanh dịch vụ: có 18 CBNV
23
Trong đó: - 01 trưởng phòng, trình độ học vấn: Cử nhân kinh tế.
- 17 nhân viên, trình độ học vấn: 17/17 Cử nhân kinh tế.
• Số lượng nhân viên trong các mảng công việc:
o Thanh toán quốc tế: 02 nhân viên.
o Tác nghiệp Kế toán – Thanh toán: 05 nhân viên.
o Nhóm giao dịch: 08 nhân viên.
o Nhóm công nghệ: 01 nhân viên
o Nhóm Kiểm tra – Kiểm toán: 01 nhân viên.
o Phòng hành chính nhân sự- Ngân quỹ: có 09 CBNV.
o Trong đó: - 01 trưởng phòng, trình độ học vấn: Cử nhân kinh tế.
- 08 nhân viên.
o Ngân quỹ: 05 nhân viên, trình độ chuyên môn: 03 Trung cấp, 01 Cao
đẳng, 01 Đại học.
o Văn thư, Lễ tân, Lưu trữ: 01 nhân viên, trình độ chuyên môn: Cao
đẳng.
o Lái xe: 02 nhân viên, trình độ chuyên môn: Trung cấp nghề.
o Phòng giao dịch: 01 phòng – PGD Lê Hoàn, có 07 CBNV.
o Trong đó: - 01 trưởng phòng, trình độ học vấn: Cử nhân kinh tế: 06
nhân viên.
o Số lượng nhân viên trong các mảng công việc:
o Ngân quỹ: 01 nhân viên, trình độ chuyên môn: Cao đẳng.

o Tác nghiệp Kế toán – Thanh toán: 03 nhân viên, trình độ chuyên môn:
Đại học.
o Nhóm tác nghiệp tín dụng: 02 nhân viên, trình độ chuyên môn: Đại
học.
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh:
• Tình hình chung:
Là chi nhánh mới được thành lập, ban đầu hoạt động của Vietcombank Thanh Hóa
còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, số lượng CBNV còn ít và chưa có nhiều
kinh nghiệm. Với sự quyết tâm, nỗ lực của toàn thể cán bộ, nhân viên, hoạt động
của chi nhánh đã nhanh chóng đi vào ổn định và đạt được nhiều kết quả khả quan.
Một số chỉ tiêu đạt được tính đến ngày 31/12/2012:
Dư nợ tín dụng đạt: 671,8 tỷ VNĐ (tỷ giá quy đổi: 1 USD = 20.803 VNĐ)
Huy động vốn đạt: 245 tỷ VNĐ.
Thanh toán xuất nhập khẩu đạt: 4.377.661 USD
Trong đó: + Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu: 5.074.454 USD
+ Doanh số chuyển tiền: 403.207 USD.
24
Hoạt động thẻ:
+ Số thẻ phát hành: 4.493 thẻ.
+ Doanh số thanh toán:
Quốc tế: 22.839 USD, 1.887.959.818 VNĐ
Nội địa: 28.985.018 VNĐ.
Tổng số máy ATM: 09 máy.
Tổng thu nhập: 78.692.082.584 VNĐ
Tổng chi phí: 74.940.591.611 VNĐ
Lợi nhuận: 3.751.490.973 VNĐ.
Thông qua việc phân tích 3 chỉ tiêu: thu nhập, chi phí, lợi nhuận, ta sẽ thấy được
một cách khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của VCB Thanh Hóa từ năm
2010 đến nay.
Bảng 2: Thu nhập, chi phí, lợi nhuận của VCB Thanh Hóa năm 2010, 2011

Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011
Năm 2012
Thu nhập (triệu đồng) 9.401,71 78.692,08 104459,4
Chi phí (triệu đồng) 12.524,31 74.940,59 99230,7
Lợi nhuận (triệu
đồng)
-3.122,60 3.751,49 5228,7
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2010, 2011, 2012 )
+ Cuối tháng 02/2010, Vietcombank Thanh Hóa được thành lập và bắt đầu đi vào
hoạt động, bước đầu gặp muôn vàn khó khăn; trong khi nền kinh tế Việt Nam năm
2010 có một năm được đánh giá là đã phục hồi và tăng trưởng khả quan, GDP đạt
6,78%, các số dư hoạt động kinh doanh của ngành tài chính - ngân hàng đều tăng,
tăng trưởng khá nóng trong những tháng cuối năm… thì thu nhập của VCB Thanh
Hóa chỉ đạt 9.401,71 triệu đồng, trong khi đó, chi phí lên đến 12.524,31 triệu đồng,
điều này khiến cho chi nhánh bị lỗ, lợi nhuận năm 2010 là -3.122,6 triệu đồng. Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh cho ta thấy thu nhập chủ yếu của ngân hàng đến
từ khoản Thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự: 8.841,79 triệu đồng, chiếm
94,04% tổng thu nhập, tuy nhiên, về chi phí, ngoài Chi phí lãi và các chi phí tương
tự chiếm 41,12% thì còn khoản Chi phí hoạt động khác chiếm một tỷ trọng cũng
khá lớn là 22,74% tổng chi phí. Có thể thấy rằng, trong năm đầu hoạt động, công
tác quản lý chi phí của VCB Thanh Hóa chưa tốt, điều này đã gây ảnh hưởng không
hề nhỏ đến kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Những yếu kém này có
thể được giải thích là do Ngân hàng mới thành lập đầu năm, bộ máy tổ chức và hoạt
25
động còn chưa đi vào quy củ, chưa tạo dựng được hình ảnh, uy tín đối với khách
hàng Thanh Hóa, chưa bắt kịp được với xu hướng chung của nền kinh tế.
+ Bước sang năm 2011, nền kinh tế toàn cầu suy giảm, lạm phát tăng cao, giá cả
biến động khó lường, khủng hoảng nợ công lan rộng ở khu vực châu Âu. Chịu tác
động bất lợi của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam đối mặt với một loạt khó
khăn và thách thức như: lạm phát tăng cao, sản xuất kinh doanh của nhiều doanh

nghiệp bị đình trệ, thị trường tài chính – tiền tệ bất ổn… Năm 2011 cùng là một
năm ngành ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách lớn như: nợ xấu
tăng cao, thanh khoản căng thẳng ở một số ngân hàng, lãi suất, tỷ giá và giá vàng
biến động phức tạp. Đây cũng là năm tiền đề để cải cách hệ thống ngân hàng. Tuy
nhiên, với sự đồng tâm hiệp lực, nỗ lực hết mình của Ban lãnh đạo cũng như CBNV
Vietcombank Thanh Hóa, cùng với đó là sự hỗ trợ nhiệt tình của Vietcombank
(HSC), hoạt động của Chi nhánh đã dần đi vào ổn định, tạo được hình ảnh và sự tin
tưởng đối với không ít khách hàng.
VCB Thanh Hóa đã đạt được những kết quả kinh doanh khả quan: thu nhập của
VCB Thanh Hóa tăng lên con số 78.692,08 triệu đồng, tăng 69.290,37 triệu đồng
(tương đương 737%) so với năm 2010; trong đó Thu nhập từ lãi và các khoản thu
nhập tương tự đã là 76.986,98 triệu đồng, chiếm đến 97,83% tổng thu nhập của Chi
nhánh, phần còn lại là Thu nhập từ hoạt động dịch vụ, hoạt động kinh doanh ngoại
hối và các hoạt động khác. Tỷ trọng các khoản thu nhập này là hợp lý khi mà hoạt
động tín dụng, huy động vốn là hoạt động chủ yếu đối với một ngân hàng thương
mại như Vietcombank Thanh Hóa.
Tổng chi phí của Chi nhánh năm 2011 là 74.940,59 triệu đồng, tăng 62.416,28 triệu
đồng, tương đương với tăng 498,36% so với năm 2010, điều này là hoàn toàn hợp
lý khi mà hoạt động kinh doanh của VCB Thanh Hóa đã có nhiều chuyển biến tích
cực, doanh số huy động vốn tăng, hoạt động kinh doanh ngoại tệ và các hoạt động
khác cũng phát triển hơn. Nhìn vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của VCB
Thanh Hóa, ta có thể thấy chi phí tăng chủ yếu do sự tăng lên đáng kể của khoản
mục Chi phí lãi và các chi phí tương tự (54.799,11 triệu đồng). Nếu như năm 2010,
chi phí này chỉ là 5.149,71 triệu đồng, thì năm 2011, nó đã tăng thêm 49.649,4 triệu
đồng, đây cũng là khoản mục chiếm đến 73,12% tổng chi phí của ngân hàng trong

×