Lời nói đầu
Trong các môn học xã hội nói chung và môn khoa học kinh tế chính
trị nói riêng ta thấy đợc sự đa dạng về phơng pháp nghiên cứu của môn
học này. Chúng nghiên về nguồn gốc của các nền kinh tế, vạch ra những
quy luật phát triển, dấu hiệu cơ bản, những chức năng riêng lẻ của từng
thành phần kinh tế, từng bộ phận cấu thành, những đơn vị riêng lẻ chúng
gắn bó hữu cơ với nhau để xác lập nên nền kinh tế. Từ nền kinh tế cổ
điển, kinh tế t bản và sang kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa chúng ta
thấy đợc những bớc chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế này (kém, lạc
hậu) sang nền kinh tế kia (có nhiều u điểm, hiện đại hơn). Trải qua từng
giai đoạn lịch sử những bớc thăng trầm hay thịnh vợng của xã hội (hay
còn gọi là chế độ xã hội đơng thời) đều do chức năng của bộ máy Nhà n-
ớc đó quyết định. Nhà nớc vạch ra đờng lối, đa ra chỉ tiêu đúng đắn cho
sự phát triển xã hội đó hay không còn tuỳ thuộc vào nhiều vấn đề. Nhng
đối với những nhà hoạch định chính sách tầm quốc gia thì phải có một
cách nhìn sâu rộng và phải đi từ thực tế khách quan, phải gắn liền với nền
văn hoá, địa lý của nớc đó và phải liên đới với quốc tế để đa ra chính sách
đúng đắn. Cho nên trong đợt làm nghiên cứu khoa học này tôi chọn đề tài
về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc là vì: trong thời kỳ này Đảng và
Nhà nớc ta đang thực hiện chơng trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nớc tiến lên XHCN, sau 10 năm đổi mới ta đã gặt hái đợc nhiều thành
công nhng bên cạnh những thành công đó chúng ta đã mắc phải một số
sai lầm trong cơ cấu nền kinh tế và định hớng nền kinh tế đó. Để thay thế
nền kinh tế cũ chúng ta phát triển nền kinh tế thị trờng hàng hoá nhiều
thành phần thì việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc thành công ty cổ
phần là vấn đề rất quan trọng và cấp bách (nóng bỏng nhất trong giai
đoạn hiện nay). Vì thế, tôi thấy đây là một đề tài mang ý nghĩa thực tế
hiện hành mà không chỉ mình tôi mà đối với cả sinh viên thuộc ngành
kinh tế và đối với bất kỳ ai quan tâm đến nền kinh tế Việt Nam.
Qua đây cho tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ngời mà đã hớng dẫn cho
tôi hết lòng từ khi cha hiểu biết về đề tài này và cho đến khi hoàn thành.
Dù nội dung chỉ đạt đến một chừng mực nào đó thì là do trình độ nhận
thức của mình. Nhng qua lần nghiên cứu này nó giúp cho tôi dần làm
1
quen với nghiên cứu bậc đại học và tôi tin rằng nó sẽ giúp tôi ngày càng
hoàn thiện hơn về lý luận của mình.
2
Chơng 1:
cơ sở lý thuyết của quá trình cổ phần hoá
I- Khái niệm về Công ty cổ phần
1. Định nghĩa : là loại công ty đợc thành lập do nhiều ngời bỏ vốn ra (cổ
đông). Tiền vốn đợc chia thành các cổ phần bằng nhau, ngời hùn vốn với t cách
là các cổ đông sẽ mua một số cổ phần đó.
Theo luật công ty ở nớc ta, công ty cổ phần là công ty trong đó :
- Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian
hoạt động ít nhất là bảy.
- Vốn điều lệ của công ty đợc chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua
một hoặc nhiều cổ phiếu.
- Cổ phiếu đợc phát hành có thể có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu
của sáng lập viên, của thành viên hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có
ghi tên.
- Cổ phiếu không ghi tên đợc tự do chuyển nhợng. Cổ phiếu có ghi tên
chỉ đợc chuyển nhợng nếu đợc sự đồng ý của hội đồng quản trị.
Công ty cổ phần đợc tự do đặt tên. Trên bảng hiệu, hoá đơn, quảng cáo,
báo cáo, tài liệu, giấy tờ giao dịch khác của công ty đều phải ghi tên công ty
kèm theo các chữ "công ty cổ phần" và vốn điều lệ.
I- Khái niệm về Công ty cổ phần
1. Định nghĩa : là loại công ty đợc thành lập do nhiều ngời bỏ vốn ra (cổ
đông). Tiền vốn đợc chia thành các cổ phần bằng nhau, ngời hùn vốn với t cách
là các cổ đông sẽ mua một số cổ phần đó.
Trong trờng hợp công ty bị phá sản thì họ cũng chỉ mất số tiền đã đầu t
vào công ty mà thôi, không chịu trách nhiệm vô hạn nh hình thức kinh doanh
một chủ hoặc chung vốn. Nhờ đặc điểm này, các công ty cổ phần dám mạo
hiểm đầu t vào các dự án kinh doanh lớn hơn các loại hình công cộng khác Bằng
cách bán các cổ phiếu, trái phiếu cho những ngời có vốn muốn đầu t để gia tăng
3
thu nhập, nó đã làm những ngời này không phải e ngại những hậu quả tài chính
có thể xảy ra đối với toàn bộ tài sản của họ.
Nh vậy, nhờ đặc điểm của hình thái công ty cổ phần - mọi cổ đông bây giờ
chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty là một hình thức pháp lý đầy đủ,
thuận lợi để kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, - đã cho phép khắc phục đợc phần
lớn các trở ngại đặt ra của hình thái kinh doanh chung vốn. Nó bổ sung cho
doanh nghiệp một hình thái pháp lý gần nh hoàn hảo để huy động những lực l-
ợng vốn lớn trong xã hội. Mệnh giá cổ phiếu của các công ty thờng định giá rất
thấp để có khả năng khai thác đợc ngay cả những số tiền tiết kiệm nhỏ nhất
trong công chúng.
+ Xét về mặt huy động vốn, Công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành
công. Bởi vì những số tiền nhỏ dành dụm của nhiều gia đình nều để riêng không
đủ để lập doanh nghiệp nhỏ, và do đó không thể đem ra kinh doanh đợc. Sự có
mặt của các công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho họ có cơ hội để đầu t một cách
có lợi và an toàn trong khoản vốn nhỏ nhng gộp lại sẽ trở thành rất lớn. Các
khoản tiền nhỏ trên có thể đợc gửi ở ngân hàng hay mua trái phiếu... Song hình
thức cổ phần có sức hấp dẫn riêng mà các hình thức khác không thể thay thế đ-
ợc. Thứ nhất, việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức cổ
phần (bằng hoặc cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng) mà còn hứa hẹn mang đến
cho cổ đông một khoản thu nhập"ngầm"nhờ việc gia tăng giá trị giá cổ phiếu
khi công ty làm ăn có hiệu quả. Thứ hai, các cổ đông có quyền đợc tham gia
quản lý theo điều lệ của công ty và đợc pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho
quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn. Thứ ba, cổ đông
có quyền đợc u đãi trong việc mua những cổ phiếu mới phát hành của công ty tr-
ớc khi đợc đem bán rộng rãi cho công chúng.
+ Hình thái công ty cổ phần đã thực hiện đợc việc tách quan hệ sở hữu
khỏi quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng, tạo
nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của đông đảo công chúng ở một bên, còn
bên kia là tầng lớp các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng t bản xã
hội cho các công cuộc kinh doanh quy mô lớn.
Những ngời đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phần không trực tiếp
đứng ra kinh doanh mà uỷ thác chức năng đó cho bộ máy quản lý của công ty.
4
Bản thân công ty đợc pháp luật thừa nhận nh một pháp nhân độc lập tách rời với
các cá nhân góp vốn và kiểm soát nó. Nhờ đó, công ty cổ phần tiến hành tất cả
các hoạt động kinh doanh dới danh nghĩa của chính mình và nhận trách nhiệm
đến cùng với các cam kết tài chính của công ty.
Luật công ty của nhiều nớc đều nêu ra hai tổ chức chính đại diện cho
quyền sở hữu của các cổ đông trong công ty. Đại hội cổ đông và Hội đồng quản
trị. Quyền sở hữu tối cao đối với công ty thuộc Đại hội cổ đông. Đại hội cổ đông
thờng đợc tổ chức mỗi năm một lần để lựa chọn và bãi miễn Hội đồng quản trị,
quyết định sửa đổi điều lệ công ty, phân chia lợi nhuận cổ phần, phát hành thêm
cổ phiếu hoặc hợp nhất vào các công ty khác... Hội đồng quản trị đợc bầu ra có
trách nhiệm bảo toàn và phát triển giá trị các khoản vốn đầu t của cổ đông. Chức
năng chủ yếu của nó là đa ra những chỉ dẫn mang tính chiến lợc bao gồm những
kế hoạch tài chính và những quyết định đầu t lớn. Toàn bộ hoạt động quản lý
kinh doanh thuộc về Ban giám đốc điều hành. Bên cạnh đó, Đại hội cổ đông
cũng bầu ra Ban kiểm soát thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của công
ty để bảo vệ lợi ích cho những ngời góp vốn.
+ Các cổ phiếu và trái phiếu thông thờng của công ty cổ phần có thể đợc
quyền chuyển nhợng dễ dàng trên thị trờng chứng khoán. Các cổ đông có thể
rút lại vốn của mình để đầu t vào một công cuộc kinh doanh khác bằng cách bán
các cổ phiếu, trái phiếu và mua các cổ phiếu, trái phiếu ở những công ty mà
mình muốn. Mặt khác, các cổ phiếu, trái phiếu của một công ty cổ phần chỉ đợc
thanh lý khi công ty phá sản, vì thế cho dù có bao nhiêu cổ đông bán cổ phiếu
và cổ phiếu đợc chuyển chủ bao nhiêu lần do bán hoặc do thừa kế, doanh nghiệp
vẫn tiếp tục hoạt động một cách bình thờng mà không bị ảnh hởng. Có thể nói,
công ty cổ phần và thị trờng chứng khoán vừa duy trì đợc sự ổn định của doanh
nghiệp, đồng thời vừa tạo nên sự di chuyền linh hoạt của các luồng vốn xã hội.
Nhờ sự phát triển và hoàn thiện của thị trờng chứng khoán, khả năng huy
động vốn đầu t đợc mở ra hết sức rộng rãi, nó cung cấp cho những cơ hội đầu t
đa dạng, đơn giản, dễ dàng và thuận tiện cho đông đảo công chúng. Mặt khác,
nó không chỉ là nơi cung cấp vốn mà còn là nơi xếp đặt và phân phối lại các cơ
hội đầu t theo các nhu cầu đầu t đa dạng của công ty và công chúng. ở đây, vai
trò của các chủ ngân hàng và những ngời buôn bán cổ phiếu hết sức quan trọng.
5
Họ góp phần chuyển đổi các khoản đầu t thông qua mua bán cổ phiếu, trái
phiếu, hối phiếu v.v... trên thị trờng cho mọi ngời và khuyến khích các công ty
mới ra đời huy động vốn và đứng vững đợc trong kinh doanh. Khi một công ty
mới thành lập, còn cha đứng vững trên thơng trờng đó là lúc nó cần có những
nhà đầu t táo bạo, dám chấp nhận mạo hiểm để có lợi nhuận cao. Khi công ty đã
ổn định vững chắc, các nhà đầu t thận trọng mới vào cuộc. Giá cổ phiếu đã tăng
lên, nhng bù lại có độ an toàn cao. Các nhà đầu t táo bạo đã có thể bán lại cổ
phiếu, thu đợc khoản lợi nhuận vốn là mục tiêu cho mạo hiểm của họ để tiếp tục
theo đuổi một cuộc đầu t táo bạo khác. Nền kinh tế cần phải có các nhà đầu t táo
bạo và có sự chuyển đổi giữa các loại nhà đầu t để thúc đẩy quá trình hình thành
các doanh nghiệp mới hay các dự án đầu t mới. Những hoạt động "đầu cơ" kiểu
nh thế có một vai trò quan trọng và đợc khuyến khích ở các nớc.
Là nơi cung cấp vốn, nơi hội tụ các cơ hội và nhu cầu đầu t, thị trờng chứng
khoán phản ứng rất nhạy bén với những thay đổi, giao động của nền kinh tế.
Chính vì vậy, sau này, Nhà nớc với t cách là một "t bản tài chính" lớn nhất đã
coi thị trờng chứng khoán nh công cụ để điều tiết các luồng tài chính và tiền tệ
nói chung bằng cách quy định các hoạt động của nó, bơm vào hay hút ra các
luồng công trái, trái phiếu chính phủ, qua đó điều chỉnh một phần khối lợng tiền
tệ trong nền kinh tế.
3. Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần
3.1 Hình thái kinh doanh một chủ
Hình thái kinh doanh một chủ là các loại hình doanh nghiệp, trong đó sở
hữu của ngời chủ t nhân đợc duy trì và phát triển bằng lao động của bản thân
hoặc thuê mớn với vốn liếng sẵn có và sự tính toán của anh ta trên cơ sở những
đòi hỏi của thị trờng. Đây là hình thái phổ biến thống trị trong nền sản xuất
hàng hoá nhỏ và trong giai đoạn đầu của CNTB cạnh tranh tự do. Trong hình
thái : kinh doanh này bao gồm hai loại hình chủ yếu : Kinh doanh theo phơng
thức sản xuất hàng hoá nhỏ và kinh doanh theo phơng thức sản xuất TBCN. Mục
đích phơng thức kinh doanh của những ngời sản xuất hàng hoá là sự duy trì và
bảo tồn mối quan hệ của họ đối với t liệu sản xuất nh là ngời sở hữu. Phơng thức
kinh doanh này có đặc điểm ngời sở hữu đồng thời là ngời lao động và ngời đó
6
chỉ có thể làm giàu bằng lao động của chính mình. Do vậy, sự phát triển sản
xuất có đợc rất chậm chạp, quy mô mở rộng từ từ tuỳ theo sự phát triển của thị
trờng địa phơng và khu vực. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nền kinh tế hàng
hoá, lu thông tiền tệ cũng ngày càng phát triển cho phép đẩy nhanh và mở rộng
quá trình trao đổi, thanh toán cũng nh tích trữ tiền tệ, và điều đó, góp phần làm
thay đổi dần dần bản chất của phơng thức kinh doanh này. Quá trình xã hội hoá
sở hữu t nhân nhờ hai tác nhân chủ yếu là trao đổi và tín dụng thì về mặt lịch sử
trong quá trình chuyển hoá ấy phải kể đến hai yếu tố hết sức quan trọng, có tác
dụng phân giải nền kinh tế của những ngời sản xuất hàng hoá nhỏ và thúc đảy
quá trình hình thành nền kinh tế thị trờng TBCN, đó là t bản thơng nghiệp và t
bản cho vay nặng lãi. Chúng ta hãy lần lợt xem xét vai trò của từng yếu tố này :
a- Đối với t bản thơng nghiệp
Sự phát triển của thơng nghiệp và t bản thơng nghiệp làm cho nền sản xuất
hớng vào giá trị trao đổi. Nó làm cho quy mô sản xuất đợc mở rộng, sản phẩm
mang nhiều hình, nhiều vẻ và đi vào lu thông một cách phổ biến; nó làm tan rã
các hình thái tổ chức sản xuất lấy giá trị sử dụng làm mục đích và thúc đẩy sự
phân công lao động xã hội trên cơ sở một thị trờng thống nhất. Cùng với sự phát
triển của t bản thơng nghiệp, hình thái tiền tệ cũng ngày càng phát triển. Đặc
biệt với chức năng của tiền làm phơng tiện thanh toán, các hoạt động mua bán đ-
ợc thực hiện dới hình thức ứng trớc và thanh toán có kỳ hạn ngày một nhiều và
trở nên phổ biến trong nền kinh tế. Đó là cơ sở sâu xa để ngày càng xác lập mối
quan hệ phụ thuộc chặt chẽ của những ngời sản xuất hàng hoá nhỏ vào thơng
nhân. Từ chỗ đóng vai trò môi giới giữa những ngời sản xuất với thị trờng, t bản
thơng nghiệp ngày càng xâm nhập sâu vào sản xuất và dần dần chi phối toàn bộ
sản xuất, bắt sản xuất phục vụ cho mục đích của t bản. Về mặt lịch sử, đó là
cách phổ biến để chuyển các ngành thủ công có tính chất phờng hội của công
nghiệp thành thị thời phong kiến và các ngành nghề phụ ở nông thôn thành các
ngành sản xuất mang tính chất TBCN.
Nh vậy, qúa trình chuyển hoá từ phơng thức kinh doanh của những
ngời sản xuất hàng hoá nhỏ lên phơng thức kinh doanh TBCN đã diễn ra
với sự tham gia đắc lực của t bản thơng nghiệp. Một nền sản xuất mà mọi
7
thứ từ nguyên liệu t liệu sản xuất đến sản phẩm tiêu dùng đều đi vào lu
thông, và do đó, phải qua tay t bản thơng nghiệp thực sự là môi trờng cho
các nhà t bản công nghiệp ra đời, phát triển và khẳng định một phơng thức
kinh doanh mới.
b- Đối với t bản cho vay nặng lãi
T bản tiền tệ hoạt động ở thời kỳ tiền sử CNTB mang hình thái t bản cho
vay nặng lãi.
Sự phát triển của tiền tệ làm chức năng phơng tiện thanh toán đã trở thành
một địa bàn rộng lớn và đặc biệt của t bản cho vay nặng lãi. Một mặt, mọi đảm
phụ bằng tiền phải nộp theo kỳ hạn nhất định, dù đó là địa tô, cống nạp, thuế
má... đều phải thanh toán bằng tiền. Mặt khác, do thơng nghiệp ngày càng phát
triển, sản xuất hàng hoá ngày càng phổ biến, thời gian mua bán và thanh toán
ngày càng tách rời nhau thì càng cần thiết có một khối lợng tiền để thanh toán
cho những kỳ hạn nhất định. Đó là mảnh đất mầu mỡ để t bản cho vay nặng lãi
phát triển và nó đã tham gia đắc lực vào công việc làm cho những ngời sản xuất
hàng hoá nhỏ ngày càng mắc nợ nhiều hơn, dần dần mất hết những phơng tiện
để duy trì quá trình tái sản xuất bình thờng của họ.
ở nơi nào mà t liệu sản xuất bị phân tán thì t bản cho vay nặng lãi tập
trung hoá dần dần lại dới hình thức của cải bằng tiền bằng cách xâm nhập vào
các ngành sản xuất dới dạng cầm cố và làm chủ nợ, làm cho quá trình tái sản
xuất của họ ngày càng co hẹp lại, khánh kiệt và tan rã. Nó đóng vai trò nh là
một chất phân giải đẩy nhanh quá trình, một mặt, tích luỹ t bản dới hình thái của
cải bằng tiền và mặt khác, tách ngời lao động ra khỏi t liệu sản xuất của họ, tập
trung họ trong các ngôi nhà lao động của công trờng thủ công TBCN.
Nh vậy, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá, với sự trợ giúp của
t bản thơng nghiệp và t bản cho vay nặng lãi, dựa trên chế độ tín dụng đang
ngày càng phổ biến, hình thái kinh doanh một chủ đã có sự chuyển biến về chất
từ phơng thức kinh doanh xé lẻ ruộng đất và phân tán những t liệu sản xuất của
những ngời t hữu nhỏ sang phơng thức kinh doanh theo lối TBCN bằng quá trình
tích tụ, tập trung ruộng đất và t liệu sản xuất vào tay một số ít ngời. Chế độ t hữu
có đợc nhờ lao động của bản thân, gắn chặt ngời lao động cá thể độc lập với
8
những điều kiện lao động của ngời đó đã dần dần bị thay thế bằng chế độ t hữu
TBCN dựa trên lao động làm thuê.
Hình thái kinh doanh một chủ ngày càng phát triển theo những quy luật
kinh tế nội tại của nền sản xuất TBCN thì quy mô tích tụ và tập trung t bản ngày
càng lớn. Với mục đích kinh doanh là thu đợc lợi nhuận ngày càng cao và bị chi
phối bởi hai cực cạnh tranh và độc quyền, quá trình trên đã làm cho các t bản
nhỏ lần lợt bị t bản lớn đánh bại và bị thu hút vào tay những kẻ chiến thắng.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. thị trờng thế giới
ngày càng mở rộng, quy mô buôn bán và sản xuất đòi hỏi phải tập trung t bản
ngày càng lớn, các nhà t bản cá biệt không thể tự mình đáp ứng đợc nữa. Do đó,
để có thể đứng vững trong cạnh tranh và đáp ứng đợc nhu cầu của thị trờng, các
hình thức kinh doanh chung vốn lần lợt ra đời và phát triển. Hình thái kinh
doanh một chủ ngày càng rút khỏi những ngành chủ yếu và lùi dần về những
ngành công nghiệp có cấu tạo hữu cơ thấp, các ngành nông nghiệp, dịch vụ
buôn bán lẻ, cần ít vốn đầu t và thu hồi vốn nhanh.
3.2- Hình thái kinh doanh chung vốn :
Trong lịch sử hình thái kinh doanh chung và có hai loại hình, đó là : hợp
tác xã và công ty chung vốn.
a- Hình thái kinh doanh hợp tác xã
Đây là hình thái kinh doanh của những ngời sản xuất hàng hoá nhỏ nhằm
chống lại quá trình tan rã và phá sản của họ trớc phơng thức kinh doanh TBCN.
Sự phát triển của chế độ tín dụng đã thúc đẩy những hình thức tự cấp vốn cho
nhau chuyển dần thành các hợp tác xã tín dụng, nhằm chống lại sức ép của t bản
cho vay nặng lãi. Tơng tự, các hợp tác xã cung tiêu cũng lần lợt ra đời để chống
lại sức ép của t bản thơng nghiệp. Từ chỗ thống nhất về vốn liếng, mua bán sản
phẩm, dần dần loại hình hợp tác xã xâm nhập vào trong sản xuất hình thành nên
hình thái kinh doanh hợp tác xã nh là sự thống nhất của quá trình tái sản xuất :
từ sản xuất đến lu thông và huy động vốn. Trên cơ sở góp chung t liệu sản xuất,
vốn liếng và sức lao động, các hợp tác xã tiến hành kinh doanh theo nguyên tắc
tự nguyện, bình đẳng trong việc hởng lợi và chịu rủi ro.
9
Tuy nhiên, quy mô hợp tác xã với một nhóm những ngời sản xuất hàng hoá
nhỏ cùng chung vốn làm ăn nên thờng bó hẹp trong một hoạt động kinh doanh
nhất định; hoạt động của hợp tác xã với tính chất tập thể, tự nguyện lỏng lẻo, ít
chấp nhận mạo hiểm vì trách nhiệm pháp lý vô hạn của xã viên, nên ít khi kinh
doanh quy mô lớn và đạt đợc thành công lớn; sự phát triển chủ yếu là đủ chống
đỡ sức mạnh cạnh tranh của t bản, và do đó, luôn có nguy cơ tan vỡ mỗi khi có
công việc kinh doanh gặp khó khăn. Vì vậy, hình thái kinh doanh hợp tác xã
ngày càng lùi bớc dần khỏi các ngành công nghiệp, và chỉ còn trụ đợc trong tiểu
thủ công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, đại lý bán buôn và bán lẻ.
b- Công ty chung vốn
Hình thái kinh doanh công ty chung vốn của các t bản có ba loại hình phổ
biến : công ty dân sự, công ty hợp danh và công ty hợp t đơn giản. Đặc điểm
chung của các loại hình công ty này là góp vốn thiên về thân nhân (đối nhân),
trách nhiệm pháp lý vô hạn và cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, đơn giản. Trong ba loại
trên, dạng công ty hợp danh là phổ biến hơn cả vì nó hoạt động dới hình thái
công ty thơng mại cả về pháp lý và hình thức; loại công ty dân sự thờng mang
tính chất gia đình cùng quản lý một tài sản (bất động sản hoặc động sản) hay
một nhóm những ngời cùng nghề nh nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thầy
thuốc... còn loại công ty hợp t đơn giản chủ yếu dành cho các tầng lớp có vốn
(nhng do quy chế chuyên môn không đợc phép kinh doanh nh thầy tu, quan toà,
quý tộc...) hùn lại cho một ngời hay một số ngời có chuyên môn và đủ t cách
pháp nhân đứng ra kinh doanh.
Trong thời kỳ đầu của sự phát triển phơng thức sản xuất TBCN khi mà
cạnh tranh còn đang thống trị, thì sự ra đời của các loại hình công ty này là một
bớc tiến của chế độ tín dụng để đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh,
cũng nh giảm sức ép của tín dụng ngân hàng và các hình thức vay mợn khác.
Tuy nhiên, càng về sau, những hình thức này càng ít đợc u chuộng và tha thớt
dần, nhờng chỗ cho các hình thức công ty vô danh và công ty trách nhiệm hữu
hạn. Sở dĩ các hình thức này ngày càng bị thu hẹp vì trách nhiệm pháp lý không
hạn chế trong kinh doanh chung vốn làm cho nó mang tính mạo hiểm quá cao.
Do đó, rất khó khăn trong việc huy động những số vốn lớn. Thêm nữa, sự tồn tại
10
ràng buộc của nó hết sức lỏng lẻo dễ bị giải tán bất kỳ lúc nào nếu một ngời
chung vốn muốn rút lui, trong khi đó, về mặt pháp lý gặp nhiều khó khăn để
đảm bảo duy trì nó. Tất cả những hạn chế đó làm cho những hình thức này ngày
nay có xu hớng thu về những ngành kinh doanh nhỏ trong nông nghiệp, dịch vụ,
bán lẻ, đại lý cho các hãng và thờng là các nhóm có tính chất gia đình.
3.3 Hình thái công ty cổ phần
Sự ra đời và phát triển loại hình công ty cổ phần đánh dấu sự chuyển hớng
nền kinh tế từ trạng thái vay mợn chủ yếu qua ngân hàng hoặc chung vốn sang
huy động vốn trên thị trờng tài chính. Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp
sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trờng này. Đổi lại, sự thịnh vợng của thị tr-
ờng tài chính tạo điều kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở. Ngay từ
thời kỳ phát triển ban đầu của sở giao dịch và thị trờng chứng khoán, Ăng-ghen
đã nhận định : "Ngày nay, sở giao dịch có một tầm quan trọng lớn hơn nhiều và
ngày càng tăng; những sự thay đổi ấy, trong sự phát triển về sau của chúng, có
xu thế tích tụ vào tay những nhà giao dịch chứng khoán toàn bộ nền sản xuất,-
công nghiệp cũng nh nông nghiệp,- và toàn bộ lu thông - cả những phơng tiện
giao thông liên lạc cũng nh chức năng trao đổi; nh vậy, sở giao dịch trở thành
ngời đại biểu nổi bật nhất của nền sản xuất t bản chủ nghĩa.
Sự mở rộng của thị trờng thế giới bằng việc chinh phục các thuộc địa làm
cho khối lợng tín dụng đợc huy động theo phơng thức truyền thống ngày càng
không đáp ứng đủ so với yêu cầu tăng nhanh về quy mô thơng mại và sản xuất.
Tình hình đó đã khiến cho các hình thức công ty cổ phần trong thơng mại và
ngân hàng lần lợt ra đời nh là kết quả của sự phát triển tín dụng thơng nghiệp và
tín dụng ngân hàng. Nhờ đó, nó đã tạo ra cơ sở tín dụng cần thiết cho sự hình
thành công ty cổ phần trong các ngành công nghiệp mà trớc hết là các ngành
cần khối lợng vốn đầu t rất lớn nh chế tạo máy, đờng sắt, hoá chất, khai khoáng.
Có thể coi, chế độ tín dụng dựa trên sự phát triển hệ thống ngân hàng cổ phần và
có sự tiếp sức của các công ty thơng mại cổ phần đã duy trì đợc sự hoạt động
hiệu quả của thị trờng tài chính và góp phần thúc đẩy các công ty cổ phần trong
các ngành công nghiệp ra đời. Hoạt động và phát triển.
11
Do những u điểm củan nó, hình thái công ty cổ phần vừa mới ra đời đã lần
lợt chiếm lĩnh hết ngày này sang ngành khác từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác.
Trải qua thời gián, hình thái công ty cổ phần ngày càng đợc hoàn thiện, phát
triển và đa dạng hoá. Có thể nói công ty cổ phần là một phát minh quan trọng
nhất trong lịch sử phát triển các hình thái tổ chức doanh nghiệp kể từ cuộc cách
mạng trong công nghiệp của TBCN, chứ không đơn thuần chỉ là sản phẩm thụ
động của sự phát triển nền kinh tế thị trờng.
12
3. Cấu trúc quản lý và kiểm soát chung CF
Đại hội cổ đông
Hội đồng quản
trị
Ban kiểm
soát
Giám đốc (hoặc Tổng
giám đốc) điều hành
Phó giám đốc (hoặc
giám đốc) điều hành
Phó giám đốc (hoặc
giám đốc) điều hành
Phó giám đốc (hoặc
giám đốc) điều
hành.
Phòng (ban)
chuyên môn
Phòng (ban)
chuyên môn
Phòng
(ban)
chuyên
môn
Phòng
(ban)
chuyên
môn
Phòng
(ban)
chuyên
môn
Phòng (ban)
chuyên môn
13
II. Sự cần thiết và phơng pháp CFHDNN
1. Sự cần thiết phải CFHDNN
Tình trạng hoạt động thiếu hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nớc. Đây là
nguyên nhân quan trọng khiến cho hầu hết các chính phủ đi đến quyết định cổ phần
hoá các doanh nghiệp nhà nớc. Do đâu mà có tình trạng này? Một điều dễ nhận thấy
nhất là ngay cả những điều kiện thuận lợi thì hiệu quả của các xí nghiệp của các xí
nghiệp quốc doanh cũng chỉ đạt mức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của khu
vực kinh tế t nhân. ở những nớc đang phát triển và Đông Âu, các xí nghiệp quốc
doanh đợc gọi là có hiểu quả cũng cần đợc cân nhắc vì thị trờng ở đây có sự sai lệch
lớn do giá cả bị điều tiết, không phản ánh đúng tính khan hiếm hay các chi phí cơ
hội thực tế. Và những doanh nghiệp này thờng có vị trí độc quyền, đợc Nhà nớc bảo
hộ và không có sự cạnh trành với hàng nhập khẩu, mặc dù về quản lý đã đợc điều
hành không có hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nớc.
+ Hệ thống kế hoạch hoá và tài chính cứng nhắc không có tính chất thích ứng
với cơ chế thị trờng vì đợc quản lý theo hệ thống hành chính từ trên xuống với nhiều
cấp trung gian. Nguồn tài chính đợc sử dụng hoàn toàn theo kế hoạch đợc duyệt từ
đầu năm, không có sự chuyển đổi linh hoạt nhằm sử dụng hợp lý nguồn vốn và cũng
không đợc chuyển sang cho năm sau. Điều này làm cho các kế hoạch tài chính của
doanh nghiệp không có động cơ tiết kiệm, vì vậy không hợp lý hoá đợc sản xuất và
giá thành luôn luôn phải cộng nhiều chi phí so với các doanh nghiệp t nhân
+ Tính tự chủ trong quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp nhà nớc bị hạn chế vì nhiếu quy chế liên quan đến quyền sở hữu của Nhà nớc,
do đó gây ra những yếu tố làm cản trở đến hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp.
+ Tình trạng độc quyền của các DNNN trên thị trờng đợc pháp luật của Nhà nớc
củng cố đã đánh mâts những động lực nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp này, đa đến tình trạng xã hội buộc phải chấp nhận tiêu dùng các hàng hoá và
dịch vụ do chúng sản xuất ra với chất lợng ít đợc cải tiến nhng giá cả ngày càng tăng
không hợp lý và nếu không tăng giá thì Nhà nớc phải chịu những gánh nặng trợ cấp
ngày càng lớn.
14
+ Các doanh nghiệp Nhà nớc đợc thành lập nhờ nguồn vốn của Nhà nớc không
đợc phép phá sản và đực trợ cấp từ ngân sách hoặc đợc sử dụng các nguồn vốn nội bộ
với lãi suất thấp hoặc đợc u tiên tiếp cận với các nguồn tài chính nớc ngoài. Vì vậy,
các doanh nghiệp Nhà nớc không có các yếu tố kích thích phải nâng cao hiệu quả để
tồn tại trong cạnh tranh đối với các doanh nghiệp t nhân.
+ Động cơ hoạt động của các DNNN chỉ nhằm cố gắng tránh né sự thẩm xét của
các cơ quan cấp trên trớc những sản phẩm và dịch vụ đối với ngời tiêu dùng cũng nh
tránh né sự xung đột trong nội bộ, tránh né những sự cải tổ, đổi mới tổ chức quản lý
để nâng cao hiệu quả, đảm bảo cho xí nghiệp có điều kiện hoạt động dễ chịu và ổn
định. Do đó, mua sắm trang bị ngày càng d thừa, biên chế ngày càng phình to dẫn
đến chi phí quá mức so với nguồn thu.
Thâm hụt ngân sách và nợ nớc ngoài. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng
thúc đẩy các nớc phải tiến hành cổ phần hoá vì các khoản trợ cấp ngày càng lớn cho
khu vực kinh tế quốc doanh để đảm bảo Nhà nớc kiểm soát giá cả sản phẩm hoặc
trang trải các chi phí về giá vốn đợc duy trì thấp để ổn định sản xuất ở một số ngành.
Ngoài ra các khoản trợ cấp trực tiếp còn có khoản gián tiếp bị che giấu nh u tiên vốn
và ngoại tệ để nhập khẩu cho các DNNN với giá cả không phản ánh đợc tính khan
hiếm của chúng.
Kết quả tài chính nghèo nàn của các DNNN làm tăng sự phụ thuộc của chúng
vào ngân sách nhà nớc. Thực tế, các nguồn tài chính có thể đợc Chính phủ huy động
và vay nợ để trang trải thâm hụt ngân sách ngfỳ càng duy giảm đã làm bộc lộ nghiêm
trọng sự yếu kém của các doanh nghiệp nhà nớc và điều này đã làm cho việc đánh giá
lại vai trò của khu vực kinh tề này ngày càng trở nên cấp bách.
Sự thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng.
Đây là nguyên nhân nhận thức dựa trên thực tiễn đã thay đổi về tình hình phát triển
kinh tế theo hớng trì trệ và hiệu quả thập ở hầu hết các nớc. Vấn đề đa dạng hoá sở
hữu đợc đặt ra và thực hiện do sự thay đổi nhận thức từ chỗ nhấn mạnh vai trò của
khu vực kinh tế Nhà nớc đến chỗ tôn trọng nhiều hơn vào khu vực kinh tế t nhân và
vai trò điều tiết của cơ chế thị trờng. Đây cũng là một bớc phát triển mới về nhận thức
đối với nền kinh tế thị trờng hỗn hợp, trong đó vai trò Nhà nớc đợc coi nh một biến số
15