Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phẫu thuật ung thư biểu mô thân đuôi tụy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.22 KB, 56 trang )

1
B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI
NGUYN TH SNG
NGHIÊN CứU ĐặC ĐIểM LÂM SàNG, CậN LÂM
SàNG
Và KếT QUả CủA PHẫU THUậT UNG THƯ biểu

THÂN ĐUÔI TụY
Chuyờn ngnh: Ngoi khoa
Mú s:
CNG LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
1. PGS.TS. TRNH HNG SN
2

H NI 2011
B GIO DC V O TO B Y T
2
TRNG I HC Y H NI
NGUYN TH SNG
NGHIÊN CứU ĐặC ĐIểM LÂM SàNG, CậN LÂM
SàNG
Và KếT QUả CủA PHẫU THUậT UNG THƯ biểu

THÂN ĐUÔI TụY
CHUYấN NGHNH: NGOI KHOA
Mó s: 60.72.07
CNG LUN VN THC S Y HC
NGI HNG DN KHOA HC:
PGS.TS. TRNH HNG SN


H NI - 2011
3
CÁC TỪ VIẾT TẮT
- Siêu âm: SA
- Cắt lớp vi tính: CT
- Ống mật chủ: OMC
- Distal pancreatectomy: DP
- Distal pancreatectomy - celiac: DP- CAR
- Tĩnh mạch: TM
- Carbonhydrate Antigen 19-9: CA19-9
- Điện hóa trị liệu: ECT
- Tĩnh mạch mạc treo tràng trên: TMMTTT
- Sống thêm sau mổ: STSM
- Union Internationale Contre le Cancerr: UICC
- Điều trị hóa chất (Chemoradiation) : CRT
4
ĐẶT VẤN ĐỀ
U thư tụy là tập hợp các u ác tính có nguồn gốc từ cấu trúc của tụy. Có
hai loại: Ung thư tụy ngoại tiết và ung thư tụy nội tiết. Hầu hết (95%) ung thư
tụy xuất phát từ phần ngoại tiết của tụy, 80% ung thư tụy là adenocarcinoma.
Ngoài ra còn các bệnh lý ác tính khác bao gồm: ung thư nang tuyến (acinar
cell carcinomas), ung thư mô liên kết tụy (sarcomas), ung thư mô bạch huyết
tụy (lymphomas) và ung thư tế bào đảo tụy [13], [11].
Tần suất mắc bệnh của ung thư tụy thay đổi theo từng vùng, từng nước
khác nhau. Nhưng nhìn chung tỷ lệ mới mắc hàng năm có chiều hướng tăng
nhanh ở tất cả các nước, đặc biệt là những nước công nghiệp phát triển. Ung thư
tuỵ là một bệnh nặng có tiên lượng xấu. Tại Mỹ, ung thư tuỵ đứng hàng thứ 2
trong số các nguyên nhân chết của ung thư đường tiêu hoá và đứng hàng thứ 5
trong số các nguyên nhân chết do ung thư nói chung. Tỷ lệ sống sau 5 năm của
ung thư tuỵ chỉ đạt từ 1-2%. [1],[13],[20], Tỷ lệ này có tăng lên trong những

năm gần đây nhưng nói chung cũng không vượt quá mức 7% [1], [20].
Nguyên nhân gây bệnh hiện nay chưa được làm sáng tỏ, chỉ có thể đưa ra
một số yếu tố nguy cơ của ung thư tụy như thói quen uống rượu, hút
thuốc,chế độ ăn nhiều mỡ, nghề nghiệp có tiếp xúc với một số hóa chất và
nam gặp nhiều hơn nữ [13], [11].
Vị trí thân đuôi tụy chiếm 30%, đầu tụy chiếm 70% [20], [11], [1],
[23].Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong các phương tiện chẩn đoán như siêu âm,
chụp cắt lớp, chụp ống tuỵ và ống mật chủ ngược dòng (ERCP) [64] [41]
[58], chọc sinh thiết tuỵ dới hớng dẫn của siêu âm [53] và gần đây nhất là khả
năng sử dụng các “chất chỉ điểm khối u” (Tumor markers) [5] [8], nhưng việc
chẩn đoán sớm ung thư tụy còn gặp nhiều khó khăn vì các triệu chứng nghèo
nàn, không điển hình, nhất là các khối u vùng thân đuôi tụy nên tỷ lệ phẫu
5
thuật cắt bỏ được khối u không cao và tiên lượng sau mổ còn hạn chế [], [13],
[1].
Trên thế giới, phẫu thuật cắt tuỵ lần đầu tiên được thực hiện vào năm
1683 bởi Johann Conrad Brunner. Tác giả này đã tiến hành cắt tuỵ trên chó
không làm gây mê [30] Ngày 4 tháng 7 năm 1882, Trendelenburg [39] là
người đầu tiên cắt khối u của tuỵ trên người, (u sacom tế bào hình thoi). Năm
1890 Briggs [24] mô tả việc cắt một khối u lớn vùng thân tuỵ
Ở Việt Nam việc nghiên cứu ung thư tuỵ chưa được chú ý đúng mức.
Tuy nhiên trong vòng mấy năm trở lại đây, nhờ việc phát triển rộng rãi các
phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, đặc biệt là chụp cắt lớp vi tính,
số trường hợp ung thư tuỵ được chẩn đoán và mổ có chiều hướng tăng đặc
biệt là ung thư thân đuôi tụy.Tại Bệnh viện Việt Đức có một số nghiên cứu về
u tụy, như năm 2004 Đỗ Trường Sơn có nghiên cứu về chẩn đoán và điều trị
ung thư tụy ngoại tiết (Luận án tiến sỹ y học) [20]. Năm 2007 Nguyễn Thanh
Hải có nghiên cứu chẩn đoán và điều trị phẫu thuật u tụy nội tiết (Luận văn
thạc sỹ y học) [10].Gần đây nhất, năm 2009 Nguyễn Văn Cường nghiên cứu
về ung thư tụy ngoại tiết vùng đầu tụy(luận văn thạc sỹ y học) [4]. Nhưng

chưa có nghiên cứu nào đánh giá riêng đối với ung thư biểu mô thân đuôi tụy.
Vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phẫu thuật ung thư biểu mô thân
đuôi tụy” với các mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư biểu mô thân
đuôi tụy.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư biểu mô thân đuôi tụy tại bệnh
viện Việt Đức năm 2003-2012.
6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu, sinh lý tuyến tụy.
1.1.1.Vị trí và hình thể ngoài của tuyến tụy [14]
Đầu tuỵ
Nằm ở ngang mức đốt sống lưng thứ 2, chỗ đường chính giữa hoặc hơi
lệch sang phải một chút so với đốt sống này. Quãng 5% số bệnh nhân có đầu
tuỵ nằm ở bên trái cột sống. Đầu tuỵ cùng với tá tràng được treo đính vào gan
bởi dây chằng gan tá tràng. Đầu tuỵ được cố định chặt vào phần giữa đoạn II
và đoạn III tá tràng. Chỗ nối giữa đầu và cổ tuỵ được nhận biết ở phía trước
bởi một đường lõm trong đó có động mạch tá tuỵ chạy qua và ở phía sau bởi
một đường tưởng tượng nối tĩnh mạch cửa ở trên và tĩnh mạch mạc treo tràng
trên ở dưới.
Đầu tuỵ hơi dẹt gồm mặt trước và mặt sau. Mặt trước liên quan với môn
vị và đại tràng ngang. Cung mạch tá-tuỵ trước chạy song song với vòng cong
tá tràng. Mặt sau tuỵ tiếp cận với rốn gan và thận phải, cuống mạch thận phải,
tĩnh mạch chủ dưới cùng chỗ đổ của tĩnh mạch thận trái, cung mạch tá tuỵ
sau. Phần ngoại vi của ống mật chủ chạy trong một rãnh lõm nằm ở mặt sau
đầu tuỵ. Cũng có khi nó nằm hẳn trong lòng nhu mô đầu tuỵ. Có thể có một
động mạch gan bất thường hoặc một động mạch đại tràng giữa bất thường
nằm trong lòng hoặc phía sau đầu tuỵ. Đôi khi thấy một “lưỡi” nhu mô tuỵ
xuất phát từ mặt sau đầu tuỵ ôm vòng một phần tĩnh mạch chủ dưới. Đó là

hiện tượng phát triển bất thường của phần thấp bên trái mặt sau đầu tuỵ, nó
vòng phía sau tĩnh mạch cửa, bó mạch mạc treo tràng trên, trước động mạch
chủ và tĩnh mạch chủ bụng.
7
Hình 1.1. Vị trí và hình thể tụy
Cổ tụy
Cổ tuỵ dài độ 1,5-2cm. Chỗ cổ tiếp nối với đầu tuỵ đã được mô tả. Phía
bên trái giới hạn của cổ tuỵ chỉ là qui ước. Cổ tuỵ thường nằm tương ứng với
đốt sống lưng thứ nhất.
Ở phía trước, cổ tuỵ thường được che phủ một phần bởi môn vị. Ở phía
phải, động mạch vị-tá tràng chia nhánh động mạch tá-tuỵ trước trên. Toàn bộ
đường đi của động mạch này liên quan đến đầu tuỵ, nhưng chỗ bắt nguồn của
nó lại ở phần trên của cổ tuỵ gần chỗ nối với đầu tuỵ.
Ở phía sau, tĩnh mạch cửa được tạo nên bởi sự hợp lưu của tĩnh mạch
mạc treo tràng trên và tĩnh mạch lách (Hình 1.3). Từ đây có nhiều nhánh nhỏ
đi vào mặt sau và mặt trước tuỵ. Các động mạch vị tá tràng và động mạch tá-
tuỵ trước trên thường nằm ở phía phải của cổ tuỵ. Khi cắt ngang qua cổ tuỵ
(Trong mổ cắt khối tá-đầu tuỵ) cần chú ý tĩnh mạch cửa và các nhánh bên
nằm ở ngay dưới.
8
Hình 1.2: Sơ đồ cấu tạo TM cửa ở sau vùng cổ tuỵ
Thân tụy
Có hình lăng trụ với 2 mặt trước và sau dưới; các bờ trên, trước và dưới.
Không có các mốc rõ ràng phân định ranh giới phải, trái của thân tuỵ.
Thân tuỵ nằm ở khoảng ngang mức đốt sống lưng thứ nhất và được che
phủ ở phía trước bởi 2 lá kép của phúc mạc thành sau hậu cung mạc nối, phân
cách tuỵ với mặt sau dạ dày. Thân tuỵ cũng liên quan với mạc treo đại tràng
ngang: Lá phúc mạc này chẽ làm 2, một lá che phủ mặt trước và một lá che
phủ mặt dưới tuỵ. Động mạch đại tràng phụ giữa (Colica media accessoria)
chui ra từ bờ dưới tuỵ và chạy dọc xuống dưới giữa 2 lá của mạc treo đại

tràng ngang (Hình 1.1).
Mặt sau thân tuỵ không có phúc mạc che phủ liên quan với động mạch
chủ, với chỗ xuất phát của động mạch mạc treo tràng trên , với chỗ bám sau
của cơ hoành, tuyến thượng thận trái và thận trái (Hình 1.4). Tĩnh mạch lách
tiếp nhận nhiều nhánh tĩnh mạch nhỏ đến từ tuỵ. Trong khi mổ cần chú ý nhẹ
nhàng khi cặp cắt các nhánh này nếu muốn bảo tồn lách.
9
Hình 1.3: Liên quan giải phẫu vùng thân tuỵ
Mặt dưới thân tuỵ được che phủ bởi lá sau của mạc treo đại tràng ngang.
Thân tuỵ liên quan với đoạn IV tá tràng, dây chằng Treitz, và góc trái đại tràng.
Bờ trên thân tuỵ liên quan với thân tạng, động mạch gan ở phía bên phải
và động mạch, tĩnh mạch lách ở phía bên trái. Bờ trước thân tuỵ liên quan với
chỗ bám của mạc treo đại tràng ngang. Bó mạch mạc treo tràng trên nằm ngay
dưới bờ dưới thân tuỵ.
Đuôi tuỵ
Nằm ngang mức đốt sống ngực thứ 12. Đó là phần di động nhất của tuỵ.
Phần mút (đầu tận cùng) tiếp giáp với rốn lách. 1/3 số trường hợp đuôi tuỵ và
rốn lách dính sát kề nhau. Cùng với động mạch lách và phần đầu của tĩnh
mạch lách, đuôi tuỵ được bọc quanh bởi 2 lá của dây chằng lách-thận. Dây
chằng này chính là phần sau mạc treo nguyên thuỷ của dạ dày. Lớp ngoài tạo
thành lớp sau của dây chằng vị-tì. Khi phẫu tích đến lớp này có thể làm tổn
thương tới các mạch ngắn dạ dày. Bản thân dây chằng này hầu như không có
mạch máu.
10
Đứng về phương diện phẫu thuật, có thể chia khoang tuỵ làm 2 phần:
Phần bên phải động mạch chủ là phần nguy hiểm, phần thận trọng. Phần bên trái
động mạch chủ, ít phải chú ý hay là phần an toàn. Sự phân chia này dựa trên sự
hiện diện của các mạch lớn ở phía bên phải và phía bên trái thì không có.
1.1.2. Cấu tạo của tụy [14]
Tụy là một tuyến vừa nội tiết, vừa ngoại tiết nên được cấu tạo bởi hai phần:

Tụy ngoại tiết: cấu tạo giống như tuyến nước bọt mang tai, đó là các
chùm tuyến. Mỗi chùm tuyến có một bao liên kết riêng được lót bởi tế bào
tuyến. Nhiều chùm tuyến họp lại thành tiểu thùy. Các tiểu thùy được ngăn bởi
các vách liên kết. Dịch tiết ra từ tuyến được đổ vào các ống tiết. Hệ thống ống
tiết này bắt đầu từ lòng các nang tuyến đi ra rồi hợp thành các ống tiết trong
tiểu thuỳ. Các ống tiết trong tiểu thuỳ hợp thành các ống tiết gian tiểu thuỳ và
cuối cùng đổ vào hai ống tiết lớn là ống tụy chính và ống tụy phụ.
Tụy nội tiết: là các tế bào nằm lẫn lộn giữa phần ngoại tiết, tạo thành
đám gọi là đảo tụy hay đảo Langerhans. Tuy vậy cũng có những tế bào đơn
độc nằm rải rác cũng có khả năng chế tiết. Số đảo tụy có tới hơn một triệu đảo
ở người bình thường, nhiều nhất là ở đuôi tụy. Các đảo tụy không có ống tiết
nhưng có mạng mao mạch rất dồi dào bao bọc, những mao mạch có cửa sổ,
và nhiều thần kinh tự chủ. Các tế bào đảo tiết ra 4 loại hormon vào thẳng hệ
thống mao mạch để điều hoà chuyển hoá đường trong cơ thể:
- Tế bào Alpha tiết ra Glucagon.
- Tế bào Beta tiết ra Insulin.
- Tế bào Delta tiết ra Somatostatin
- Tế bào PP tiết ra Polypeptide tụy, là chuỗi chứa 36 axít amin.
11
Ống tiết của tụy: dịch tụy tiết ra từ các chùm tuyến theo các ống tiết
đổ vào các ống trong tiểu thùy. Các ống trong tiểu thùy họp lại thành ống liên
tiểu thùy để sau đó đổ ra ống tụy chính và ống tụy phụ.
1.1.3. Mạch máu và thần kinh của tụy:
Động mạch: tá tụy được cung cấp máu từ 2 nguồn: động mạch thân
tạng và động mạch mạc treo tràng trên.
* Các nhánh từ động mạch thân tạng:
- Các nhánh từ động mạch vị tá tràng gồm bốn nhánh: Động mạch tá tụy
trên sau, động mạch tá tụy trên trước, các động mạch sau tá tràng, động mạch
trên tá tràng.
- Các nhánh tụy của động mạch lách gồm: Động mạch tụy lưng, động

mạch tụy lớn, động mạch đuôi tụy.
* Các nhánh từ động mạch mạc treo tràng trên: có 2 nhánh là động
mạch tá tụy dưới và động mạch tụy dưới.
*Tĩnh mạch: các tĩnh mạch của tụy đều trực tiếp hay gián tiếp đổ vào
tĩnh mạch cửa
- Tĩnh mạch tá tụy phải trên: đổ vào tĩnh mạch cửa
- Tĩnh mạch tá tụy phải dưới: khi tới trước đầu tụy thì chạy sang trái để
đổ vào tĩnh mạch mạc treo tràng trên.
- Các tĩnh mạch khác ở thân và đuôi tụy đều đổ vào tĩnh mạch lách.
* Bạch mạch: có thể phân làm 4 nhóm:
- Bạch huyết ở phần trên tá tụy đổ vào chuỗi bạch huyết nằm dọc động
mạch lách: chuỗi lách.
- Bạch huyết ở phần dưới tá tụy đổ vào các hạch nằm quanh động mạch
mạc treo tràng trên: chuỗi mạc treo tràng trên.
12
- Bạch huyết ở phần phải tá tụy đổ vào các hạch nằm dọc các cung mạch
tá tụy: chuỗi trước và sau tá tụy.
- Bạch huyết ở phần trái tá tụy đổ vào các hạch ở rốn lách.
* Thần kinh: thần kinh thực vật của tá tụy tách ra ở đám rối dương và
mạc treo tràng trên. Các sợi đều đi theo các nhánh động mạch để tới tá tụy.
1.1.4. Sinh lý tụy [8]
Tuyến tụy là một tuyến pha, có cấu trúc bên trong giống cấu trúc của
tuyến nước bọt. Các tiểu đảo Langerhans của tụy chế tiết ra insulin, glucagon,
sandostatin và hormon tụy vào máu để duy trì nồng độ đường máu hằng định.
Các nang tụy bài tiết các men tiêu hoá, các tuyến nhỏ bài tiết một lượng lớn
dung dịch bicarbonat. Sản phẩm hỗn hợp của tuyến tụy ngoại tiết chảy vào
ống Wirsung. Ống này hợp với ống mật chủ ở bóng Vater rồi đổ vào tá tràng
qua cơ thắt Oddi.
Tụy của người sản xuất hàng ngày khoảng 1500-2500 ml dịch không
mầu, không mùi, pH từ 8.0 đến 8.3. Dịch và điện giải được tiết từ trung tâm

của nang và các tế bào ống tuyến khi có sự kích thích của secretin.
Dịch tụy chứa từ 1-3% protein trong đó 90% là thành phần của các men
tiêu hoá. Một số men tiêu hoá được tụy tiết ra dưới dạng hoạt động như
amylase, lipase. Một số men tiêu hoá khác được tiết ra dưới dạng chưa hoạt
động, đặc biệt là men tiêu đạm như trypsin, chymotripsin, carboxypeptidases
A và B. Các men này được kích hoạt trong lòng tá tràng nhờ enterokinase.
13
1.2. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư biểu mô thân đuôi tụy:
1.2.1. Đặc điểm lâm sàng:
Nhìn chung triệu chứng ung thư thân đuôi tụy rất nghèo nàn, các nghiên
cứu trên thế giới và tại Việt Nam đã đưa ra được một đặc điểm, triệu chứng
thường gặp nhất như sau:
- Tháng 2 năm 1966, Nhóm tác giả John R. Mani; F. Frank Zboralske và
Alexander R. Margulis đã công bố nghiên cứu về ung thư biểu mô thân đuôi
tụy. Nghiên cứu này thực hiện từ tháng 1 năm 1955 đến tháng 3 năm 1964
dựa trên hồ sơ 46 bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư biểu mô thân đuôi
tụy tại đại học y ở California và San Francisco nhận thấy tỷ lệ Nam/Nữ là
xấp xỉ 2/1, độ tuổi trung bình là 63,3 tuổi.Trong 46 bệnh nhân thì có 57% ung
thư thân tụy, 28% ung thư thân đuôi tụy và riêng đuôi tụy là 15%. Các triệu
chứng thường gặp là đau bụng thượng vị, giảm cân, suy nhược và mệt mỏi.
Thời gian trung bình của các triệu chứng trước khi nhập viện là 4,5 tháng,
thời gian từ khi khởi phát triệu chứng đến khi chết là khoảng 7-8 tháng. [77]
- Kimura, W., I. Han. (1997). Tác giả báo cáo trường hợp bệnh nhân
nam 54 tuổi được xác định ung thư biểu mô thân đuôi tụy với các triệu chứng
đau bụng và mất trọng lượng cơ thể trong vòng 6 tháng.[90]
- Năm 2006, Hai-Chao Yan; Yu-Lian Wu; Li-Rong Chen và Shun-Liang
Gao đã mô tả tám trường hợp phẫu thuật cắt u nang biểu mô tuyến tụy và thấy
rằng độ tuôi trung bình của nhóm này là 67, tỷ lệ nam và nữ là xấp xỉ bằng
nhau. Triệu chứng thường gặp nhất là đau bụng chiếm 87,5%, giảm cân là
75% và đau bụng xiên ra sau lưng gặp với tỷ lệ 62,5%.[78]

14
- Tháng 5 năm 2007, Karen J Dickinson; Dhanwant Gomez; Andrew
Lowe; Jay A Gokhale; Jon R Ausobsky; Pierre J Guillou và Sakhawat H
Rahman đã nghiên cứu trên 31 bệnh nhân ung thư biểu mô vùng thân tụy và
rút ra nhận xét độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 72, tỷ lệ nam/nữ
gần bằng nhau. Biểu hiện đau bụng xuất hiện với tỷ lệ cao (90,3%), giảm cân
thậm trí còn cao hơn đau bụng và vàng da gặp ở 19,4% (không liên quan tới
tắc ống mật chính)[7979].
- Năm 2001, Đoàn Văn Mỹ nhận xét từ kết quả nghiên cứu 29 bệnh nhân
được chẩn đoán xác định u tụy thấy độ tuổi trung bình là 50,8; tỷ lệ nam/nữ là
1,4. Trong số 29 bệnh nhân có 27,5% có tiền sử hút thuốc lá, 24,1% uống
rượu, 13,8% vừa uống rượu vừa hút thuốc và 3,4% có tiền sử viêm tụy.Đa số
bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng cách 5 tháng trước khi vào viện.
Các triệụ chứng thường gặp là gầy sút cân (79,3%), đau thượng vị hoặc
đau thượng vị và hạ sườn phải là 75,8%, sờ thấy khối u thượng vị chiếm 41%,
túi mật to 55% chủ yếu trong các trường hợp u đầu tụy, dịch cổ trướng 10,3%,
hạch to ngoại vi 10,3%. [6]
- Năm 2001, Nguyễn Việt Dũng nhận xét 55 trường hợp ung thư tụy thấy
tỷ lệ nam/nữ là 3/1, độ tuổi trung bình là 54, gặp nhiều nhất trong nhóm từ 41
đến 50 tuổi. Triệu chứng thường gặp nhất là sút cân (98,1%), đau bụng
87,2%, đau lưng 63,6%, sờ thấy u vùng thượng vị là 38,9%, dịch ổ bụng 7,7%
và không phát hiện trường hợp nào có hạch ngoại vi to. [5]
- Năm 2004, Đỗ Trường Sơn trong nghiên cứu chẩn đoán ung thư tụy
ngoại tiết qua các trường hợp đã chẩn đoán và phẫu thuật tại bệnh viện Việt
Đức qua 5 năm từ 1997 dến 2001. Trong đó nhóm ung thư vùng thân đuôi tụy
có 19 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 55, tỷ lệ nam/nữ ở đây là 2/1. Triệu
chứng đau bụng gặp ở 100% số bệnh nhân, sút cân là 94,7%, sờ thấy u ổ bụng
15
là 94,7%, đau lưng 84,2%, vàng da 5,3%, dịch ổ bụng 5,3% và túi mật to là
5,3%. Thời gian từ khi có triệu chứng đến khi nhập viện là 11 tuần.[20]

1.2.2. Đặc điểm cận lâm sàng:
* Xét nghiệm sinh hóa: Theo Karen J Dickinson; Dhanwant Gomez;
Andrew Lowe; Jay A Gokhale; Jon R Ausobsky; Pierre J Guillou và
Sakhawat H Rahman (2007) đã nghiên cứu trên 31 bệnh nhân ung thư biểu
mô vùng thân tụy thì tỷ lệ bệnh nhân đái đường là 22,6%.[79]
* Hình ảnh siêu âm ổ bụng:
- Năm 2001, Nguyễn Việt Dũng nhận xét 55 trường hợp ung thư tụy thì
siêu âm phát hiện được 83,7%. Trong đó hình ảnh ống mật chủ (OMC) giãn
chiếm 78,4%, túi mật to 74,5%, ống Wirsung giãn chiếm 72,7%, dịch ổ bụng
13,6% và khối u gan 10%.[5]
- Năm 2001, Đoàn Văn Mỹ nhận xét từ kết quả nghiên cứu 29 bệnh
nhân được chẩn đoán xác định u tụy thì siêu âm phát hiện được 62%, phát
hiện được 80% u vùng thân tụy và 25% u vùng đuôi tụy.[6]
+ Đặc điểm cấu trúc âm trong u thấy 34,5% giảm âm, 41,7% hỗn hợp
âm, 3,4% tăng âm và không nhận định được là 20,4%.
+ Ranh giới khối u thấy tỷ lệ 6,9% bờ đều, 55,7% bờ không đều, 17%
không rõ và 20,4 % là không nhận định được.
+ Kích thước u tụy đo được qua siêu âm < 3cm (3,4%), 3-4 cm
(10,3%), 4-5cm (17%), 5-6cm (10,2%) và >6cm (10,2%).
+ Các hình thái tổn thương khác như giãn đường mật 69%, túi mật to
62,1%, hạch quanh tụy 10,3%. U xâm lấn chèn ép tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh
mạch lách và tĩnh mạch mạc treo tràng trên là 13,8%.Phát hiện di căn gan
3,4%.[6]
16
- Theo Đỗ Trường Sơn (2004) nghiên cứu chẩn đoán ung thư tụy ngoại
tiết qua các trường hợp đã chẩn đoán và phẫu thuật tại bệnh viện Việt Đức
qua 5 năm từ 1997 dến 2001 thì tỷ lệ phát hiện khối u vùng thân đuôi tụy qua
hình ảnh siêu âm bụng là 71,2% (p<0,05).
+ Đặc điểm cấu trúc u chủ yếu có tính chất giảm âm (68,4%), khối u
tăng âm chiếm tỷ lệ thấp (10,5%) và khối có tính chất hỗn hợp âm 15,8%.

+ Hình ảnh thấy rõ bờ khối u 73,7% và hình ảnh bờ không rõ là 26,3%.
+ Không phát hiện khối u nào có kích thức < 2cm, khối u từ 2-5cm thì
tỷ lệ phát hiện được là 42,1% và >5cm thì tỷ lệ là 57,9%.
+ Trong u thân đuôi tụy thì có 4,8% giãn đường mật trong gan và
OMC, 5,3% giãn ống Wirsung, 11,5% phát hiện có xâm lấn mạch máu.[20]
*Hình ảnh cắt lớp vi tính (hình ảnh CT):
-Năm 1983, Ellen M. Ward; David H. Stephens và Patrick F. Sheedy
nghiên cứu hình ảnh cắt lớp vi tính của 100 bệnh nhân ung thư biểu mô tụy tỷ
lệ chẩn đoán chính xác 95% các trường hợp. U vùng đầu tụy chiếm 56%,
thân tụy 24%, đuôi tụy 10%, đa số các khối u giảm tỷ trọng chiếm 75%, kích
thước khối u phát hiện được trên CT từ 4-6cm chiếm 60%.
Các dấu hiệu khác như thâm nhiễm động mạch thân tạng 60%, giãn
ống tụy 50%, giãn ống mật 38%, di căn gan 30%, cổ trướng 10%, hạch vùng
15%.[80]
- Kimura, W., I. Han. (1997). Tác giả báo cáo trường hợp bệnh nhân
nam 54 tuổi được xác định ung thư biểu mô thân đuôi tụy với hình ảnh CT
thấy kích thước u khoảng 3 cm, khối u đã xâm lấn động mạch gan và lách.
[90]
17
- Năm 2007, Karen J Dickinson; Dhanwant Gomez; Andrew Lowe; Jay
A Gokhale; Jon R Ausobsky; Pierre J Guillou và Sakhawat H Rahman đã
nghiên cứu trên 31 bệnh nhân ung thư biểu mô vùng thân tụy thu được hình
ảnh CT của u tụy chủ yếu ở giai đoạn IIb đến giai đoạn IV theo AJCC (giai
đoạn TNM), sự tương quan giữa giai đoạn bệnh và kích thước u: giai đoạn III
thì kích thước u tương ứng khoảng 4,8cm (2,8-5,7 cm); giai đoạn IV có kích
thước tương ứng là 5,3 cm (3,7-10,8cm) độ tin cậy p=0,201.[80]
- Năm 2001, Đoàn Văn Mỹ nhận xét từ kết quả nghiên cứu 29 bệnh
nhân thì tỷ lệ chẩn đoán chính xác u tụy là 72,7%.[6]
- Theo Đỗ Trường Sơn (2004) nghiên cứu chẩn đoán ung thư tụy ngoại
tiết qua các trường hợp đã chẩn đoán và phẫu thuật tại bệnh viện Việt Đức thì

khả năng phát hiện u tụy đạt > 90%, nếu kích thước u > 2cm thì tỷ lệ này tăng
lên 95%.
+ Quan sát rõ bờ khối u qua hình ảnh cắt lớp vi tính đạt 87,5%. Cấu trúc
u tăng tỷ trọng 12,5%, giảm tỷ trọng 62,5%, cấu trúc u không đồng đều 25%.
+ Kết quả chụp cắt lớp phát hiện u vùng thân đuôi tụy từ 2-5cm chiếm
37,5%, > 5cm chiếm 62,5%.
+ Không phát hiện giãn đường mật trong gan ở các trường hợp u thân đuôi
tụy, tỷ lệ giãn ống mật chủ là 12,5% và hình ảnh ống Wirsung giãn là 12,5%.
+ Dự đoán xâm lấn mạch máu của u là 62,0% [20]
*Giá trị của chất chỉ điểm khối u tụy (CA 19-9):
- Năm 2007, Karen J Dickinson; Dhanwant Gomez; Andrew Lowe; Jay
A Gokhale; Jon R Ausobsky; Pierre J Guillou và Sakhawat H Rahman đã
nghiên cứu trên 31 bệnh nhân ung thư biểu mô vùng thân tụy, có 15 bệnh nhân
làm xét nghiệm CA19-9 và chỉ số này tăng ở 100% số mẫu xét nghiệm. Giá trị
18
trung bình thu được 1,308 kU/L (54-6,1264), giá trị giới hạn là < 33 kU/L. [80]
- Theo Nguyễn Việt Dũng(2001), CA19-9 ở mức 37 U/ml thì kết quả
nghiên cứu này có độ nhạy 81%, nhưng độ đặc hiệu chỉ đạt 45%. Khả năng có
u khi xét nghiệm dương tính là 67,3% và khả năng không có ung thư khi xét
nghiệm âm tính là 67,9%.Ở mức 75 U/ml thì nghiên cứu này sẽ có độ nhậy
72,7% và độ đặc hiệu 55%. Khi ở ngưỡng 2020 U/ml thì tác giả thu được độ
đặc hiệu 100%, độ nhạy giảm xuống còn 34,5% [5]
- Theo Đỗ Trường Sơn (2004), Tỷ lệ dương tính ở mức >37U/ml là
76,3%, Nếu ngưỡng >75U/ml thì tỷ lệ dương tính 69,7%, nếu ở ngưỡng >
500U/ml thì chẩn đoán xác định u gần như chắc chắn.[20]
*Ngoài ra có thể chẩn đoán u thân đuôi tụy bằng nội soi siêu âm, chụp
cộng hưởng từ, chụp PED- CT. Đây là các phương pháp có độ nhậy và độ đặc
hiệu cao nhất, phát hiện u tụy lên đến 99-100%.[6][43]
1.3.Kết quả phẫu thuật ung thư biểu mô thân đuôi tụy
Cho đến nay đối với ung thư biểu mô tuyến tụy cũng như ung thư tụy nói

chung thì phẫu thuật vẫn là phương pháp duy nhất hy vọng kéo dài thời gian
sống cho người bệnh. Điều trị hóa chất, xạ trị chỉ cho các trường hợp hỗ trợ
phẫu thuật, các trường hợp chống chỉ định mổ do bệnh lý kèm theo…Năm 2005,
Gauri R Varadhachry và Jame L Abbruzzese đã nghiên cứu hiệu quả điều trị của
5-FU và Gemcitabine cho các bệnh nhân ung thư tụy.
- Năm 1992, Nordback, H. I. R. H. Hruban nghiên cứu được thực hiện
qua các hồ sơ của tất cả 113 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến của thân hoặc
đuôi tụy được điều trị tại bệnh viện Johns Hopkins giữa năm 1972 và 1989.
Các bệnh nhân được chia thành hai nhóm: những người được chẩn đoán từ
năm 1972 và 1982 (41 bệnh nhân) và từ năm 1983 và 1989 (72 bệnh nhân).
Không có sự khác biệt đáng kể về giai đoạn khối u đã được quan sát giữa hai
19
nhóm. Tỷ lệ bệnh nhân trải qua phẫu thuật giảm từ 68% đến 47% (p = 0,02).
Tỷ lệ bệnh nhân trải qua thăm dò bụng với sinh thiết chỉ giảm từ 49% đến 21
% (p = 0,002). Các tỷ lệ tử vong 30 ngày sau phẫu thuật (7% so với 3%), Tai
biến sau phẫu thuật (18% so với 21%), thời gian sống sau mổ (4 tháng so với
3 tháng), và sự sống còn 1 năm (8% so với 9%) không có sự khác biệt đáng
kể giữa hai nhóm. Một bệnh nhân sống sót trong 6 năm sau khi cắt bỏ, và
bệnh nhân khác vẫn còn sống 3 năm sau khi cắt bỏ. Vì vậy, không giống như
ung thư tuyến của đầu tụy, kết quả điều trị cho bệnh nhân với ung thư tuyến
thân hoặc đuôi của tụy tạng không được cải thiện trong những năm gần
đây[74].
- Dalton, R. R., M. G. Sarr, et al. (1992). Nghiên cứu ung thư biểu mô
của thân đuôi tụy của 44 bệnh nhân trải qua cắt thân đuôi tụy. Kết quả sau
phẫu thuật tỷ lệ tai biến 9%, trong đó tử vong 2% bệnh nhân. Các bệnh nhân
chủ yếu ở giai đoạn II hoặc III. Thời gian sống thêm sau mổ trung bình là 10
tháng. 15% bệnh nhân sống sót sau 2 năm và 8% bệnh nhân sống sót 5 năm.
Trong đó tỷ lệ sống sau 5 năm của cystadenocarcinomas là 100%. Như vậy
bệnh nhân ung thư biểu mô thân đuôi tụy sau khi được phẫu thuật có thể kéo
dài cuộc sống đáng kể. Tác giả khuyên nên phẫu thuật DP khi bệnh giới hạn

trong tuyến và cũng đề xuất tất cả các bệnh nhân sau DP cần được hóa trị và
xạ trị hỗ trợ.[75]
-Năm 1996, Ozaki, H., T. Kinoshita nghiên cứu trên 3 nhóm bệnh nhân
được chẩn đoán ung thư biểu mô thân đuôi tụy.Nhóm 1 gồm 10 bệnh nhân
được phẫu thuật cắt thân đuôi tụy đơn thuần, nhóm 2 gồm 22 bệnh nhân được
cắt thân đuôi kèm theo nạo vét hạch, nhóm 3 gồm 7 bệnh nhân được phẫu
thuật và kết hợp hóa -xạ trị. Kết quả 10 bệnh nhân đầu tiên chết trong vòng 20
tháng sau mổ, trong số 22 bệnh nhân được nạo vét hạch trong mổ thì tỷ lệ
sống thêm 5 năm của 15 bệnh nhân không có di căn là 29% và còn 7 bệnh
20
nhân có di căn xa chết trong vòng 10 tháng. Trong 7 bệnh nhân điều trị kết
hợp xạ trị cộng hóa trị thì có 4 bệnh nhân sống sót lâu dài ngoài 5 năm [73].
- Mayumi,T, Y. Nimura (1997) nghiên cứu ung thư biểu mô thân đuôi
tụy đã tiến hành so sánh 6 trường hợp cắt thân đuôi tụy kèm thân celiac và 19
trường hợp cắt DP tiêu chuẩn và 22 trường hợp không thể cắt bỏ. Thời gian
nằm viện không khác biệt giữa nhóm DP và nhóm DP-CAR. Tỷ lệ sống sau 1
năm tương ứng cho nhóm DP, DP-CAR và không thể cắt bỏ là 40%, 33,3%
và 5,4%. Tỷ lệ sống sau 3 năm tương ứng là 20%, 16,6% và 0%. Sự khác biệt
giữa nhóm DP- CAR và nhóm không thể cắt bỏ có ý nghĩa thống kê (p<0,01).
[85]
- Kimura, W., I. Han. (1997) cho rằng một trong những lý do chính
không thể cắt bỏ u là ung thư xâm lấn các tạng lớn như gan, động mạch lách,
cắt bỏ các động mạch có liên quan có thể tăng tỷ lệ cắt bỏ và do đó tăng sống
sót sau phẫu thuật. Tác giả đề cập mục đích của nghiên cứu là làm rõ tầm
quan trọng của phẫu thuật áp dụng cho ung thư biểu mô thân đuôi tụy. Tác
giả báo cáo trường hợp bệnh nhân nam 54 tuổi được xác định ung thư biểu
mô thân tụy, kích thước 3cm có xâm lấn động mạch gan, động mạch lách.
Bệnh nhân được phẫu thuật cắt thân đuôi tụy kèm theo cắt động mạch gan,
quá trình hậu phẫu diễn ra thuận lợi, bệnh nhân thèm ăn và tăng cân về mức
bình thường, bệnh nhân hết đau bụng và trở lại làm việc sau 18 tháng mặc dù

u tái phát tại chỗ sau 8 tháng. Ngoài ra một nghiên cứu khác của tác giả có 11
trường hợp ung thư biểu mô thân đuôi tụy thấy rằng : Thời gian sống thêm
sau mổ trung bình là 6,6 tháng, 1 bệnh nhân sống sót sau 13 năm phẫu thuật.
Mặc dù tiên lượng sau phẫu thuật không được như mong muốn nhưng nó
cũng mang lại chất lượng cuộc sống tốt hơn cho người bệnh.[9090]
21
- Năm 1999, Benoist, S., L. Dugue, đã nghiên cứu vai trò của bảo tồn
lách trong phẫu thuật cắt thân đuôi tụy và thu được kết quả cho thấy bảo tồn
lách đã được thực hiện thành công trong tất cả 15 trường hợp nghiên cứu.
Không có tử vong sau phẫu thuật. Tỷ lệ rò tụy là 23%, so với nhóm cắt lách
(12%, p <0,05). Thời gian trung bình của thời gian nằm viện sau phẫu thuật là
19 ngày (từ 6 đến 46 ngày) trong nhóm bảo tồn và 12,5 ngày (từ 7 đến 45
ngày) trong nhóm cắt lách (p <0,05) [67].
- Konishi, M., T. Kinoshita. (2000) tiến hành tạo hình lại động mạch
gan sau khi cắt trục celiac trong ung thư biểu mô thân đuôi tụy. Nghiên cứu
này thực hiện trên bốn bệnh nhân, hai bệnh nhân xây dựng lại động mạch gan
bằng cách sử dụng động mạch lách thay thế từ đoạn mạch lách bị cắt bổ trong
khối thân đuôi tụy.Thời gian hậu phẫu l0 ngày, không có biến chứng như
thiếu máu cục bộ gan.[84]
- Năm 2005, Christein, J. D., M. L. Kendrick đã nghiên cứu phân tích
kết quả sau khi cắt thân đuôi tụy cho ba loại ung thư biểu mô tuyến để xác
định vai trò của phẫu thuật cắt toàn bộ khối (thân đuôi tụy + lách). Đối tượng
nghiên cứu là những bệnh nhân ung thư biểu mô thân đuôi tụy trải qua phẫu
thuật cắt thân đuôi tụy từ năm 1987 – 2003. Trong đó 93 bệnh nhân ung thư
biểu mô tuyến (66,71%), ung thư biể mô tuyến nhầy chiếm 18,19%, ung thư
biểu mô tuyến nhú 9,10%. Tỷ lệ cắt bỏ toàn bộ khối là 35%, không có tử
vong. Thời gian sống trung bình sau mổ của ung thư biểu mô tuyến là 15,5
tháng, của ung thư biểu mô tuyến nhày là 30,2 tháng và của ung thư biểu mô
tuyến nhú là 50,7 tháng. Nhìn chung các bệnh nhân phẫu thuật cắt toàn bộ
khối có tỷ lệ biến chứng cao hơn, yêu cầu truyền máu nhiều hơn, yêu cầu hồi

sức tích cực hơn, tuy nhiên không có tử vong. Với các trường hợp ung thư
biểu mô tuyến thì thấy kích thước khối u lớn hơn 3,5 cm, độ tuổi trung bình
22
trên 60, có 4 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến đã sống 5năm sau phẫu thuật.
[82]
- Năm 2007, Jurg Kleeff; Markus K. Diener và cộng sự nghiên cứu cắt
thân đuôi tụy trên 320 bệnh nhân thu được 76,5% trường hợp cắt thân đuôi
tụy kèm lách.Cắt thân đuôi tụy kèm theo các tạng lân cận (như dạ dày, đại
tràng, thận, gan…) thực hiện trong 36,1%. Thời gian phẫu thuật trung bình là
245 phút, lượng máu mất trung bình là 700ml. Thời gian nằm viện trung bình
là 12 ngày. Tỷ lệ các biến chứng chung là 35,4%, do phẫu thuật là 27,2%.
Trong đó rò tụy 11,6%, áp xe tồn dư 5%, Chậm làm rỗng dạ dầy 4,6%, chảy
máu 3% và nhiễm trùng vết mổ 2,7%, tỷ lệ tử vong 2%.
Trong nghiên cứu này tác giả thấy có sự khác biệt khá lớn giữa các kỹ
thuật đóng mỏm tụy còn lại: Không thấy rò tụy trong thóm nối ruột với mỏm
tụy còn lại, tỷ lệ rò trong nhóm khâu mỏm tụy 9,3%, trong nhóm đóng mỏm
stapler 15,9%, rò trong nhóm bảo tồn lách 5,1%, nhóm cắt lách 11,2%, nhóm
cắt đa tạng là 15,6% [44]
- Năm 2007, Hirano, S., S. Kondo đã nghiên cứu phân tích kết quả
phẫu thuật cắt thân đuôi tụy với trục celiac (DP- CAR) ở 23 bệnh nhân ung
thư thân tụy thì tỷ lệ tử vong sau mổ là 0%, tỷ lệ biến chứng 48%. Các biến
chứng phổ biến ở đây là rò tụy và thiếu máu cục bộ dạ dày. Phẫu thuật lấy bỏ
hết mô ung thư trong 21 bệnh nhân (91%), thời gian sống thêm trung bình 21
tháng, tái phát tại chỗ là trường hợp và 6 trường hợp di căn gan. Nghiên cứu
này cho thấy phẫu thuật DP-CAR có thể lấy hết u về mặt vi thể cao (phẫu
thuật R0).[83]
- Mayumi, T Sperti, C., M. Berselli thực hiện nghiên cứu về ung thư
biểu mô thân đuôi tụy từ 1989 đến 2007 và nhận thấy ung thư biểu mô thân
đuôi tụy là một bệnh ác tính với tỷ lệ cắt bỏ thấp và tiên lượng nghèo nàn, khi
có xâm lấn trục celiac thường là chống chỉ định cắt bỏ. Trong nghiên cứu này

23
tác giả muốn phân tích tính khả thi của phẫu thuật DP và DP- CAR cho bệnh
nhân ung thư biểu mô thân đuôi tụy. Trong nhóm DP đơn thuần thì tỷ lệ xảy
ra các tai biến trung bình là 32% và tỷ lệ tử vong là 3%. Trong nhómDP-CAR
tỷ lệ tử vong 0%, nhưng các tai bến gặp 80%. Với DP thì thời gian sống sau
mổ dao động trong khoản thời gian 4,5 tháng đến 25 tháng, với DP-CAR thì
tời gian này là 13 tháng. Tác giả đưa ra kết luận DP-CAR cải thiện khả năng
cắt bỏ mà không tăng tỷ lệ tử vong, tỷ lệ biến chứng tăng hơn so với DP.[86]
- Takada, M., S. Kondo thực hiện nghiên cứu từ 1998 đến 2007 trên 37
bệnh nhân ung thư thân tụy trai qua phẫu thuật DP-CAR mà không tạo hình
lại động mạch. Tỷ lệ phẫu thuật được coi là sạch u về mặt vi thể R0 là 35
trường hợp (95%), tỷ lệ biến chứng sau mổ là 59%. Các biến chứng chính là
rò tụy gặp ở 19 bệnh nhân(51,3%) và thiếu máu dạ dày cục bộ 5 trường hợp
(13,5%). Tỷ lệ sống sau 1 năm là 72%, sau 5 năm là 17% và trung bình là 21
tháng. Hay gặp di căn gan sớm hơn các tạng khác. Về nguyên tắc sau khi DP-
CAR trong vòng 3 tháng mà kết quả phẫu thuật khả quan thì bệnh nhân bắt
đầu được hóa trị liệu bổ trợ sau phẫu thuật.[87]
- Wu, X., R. Tao (2008) tiến hành nghiên cứu hồi cứu trên 206 bệnh
nhân ung thư biểu mô thân đuôi tụy từ 2003 dến 2008. Bệnh nhân được chia
thành 3 nhóm dựa trên mối liên quan của khối u với trục celiac (CAR) và
động mạch gan (CHA) cũng như dựa vào các chiến lược điều trị khác
nhau.Kết quả thu được 65 bệnh nhân (31,6%) được phẫu thuật DP triệt để
(Ro), trong đó 11 bệnh nhân trải qua DP kết hợp với CAR (Nhóm A) và 54
bệnh nhân được cắt bỏ theo kiểu truyền thống DP (nhóm B). Hai mươi bệnh
nhân không thể cắt bỏ vì khối u xâm lấn trục celiac và động mạch gan (Nhóm
C). Giữa nhóm A và nhóm B không thấy có sự khác biệt về thời gian mổ,
lượng máu mất trung bình, tỷ lệ lỗ rò tụy và thời gian sống sau mổ. Tuy nhiên
thời gian sống thêm sau mổ của nhóm A dài hơn nhóm C khá nhiều (tương
24
ứng 14 tháng và 5 tháng – p= 0,013) và chất lượng cuộc sống được cải thiện

đáng kể. Như vậy DP- CAR có thể được thực hiện an toàn trên một bệnh nhân
ung thư biểu mô thân đuôi tụy và cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống cho
bệnh nhân.[89]
- Takahashi, Y., Y. Kaneoka nghiên cứu phẫu thuật cho 43 bệnh nhân
ung thư biểu mô thân đuôi tụy từ năm 1993 dến 2010 trải qua phẫu thuật được
xác định ở mức R0. Tác giả chia thành hai nhóm, 16 bệnh nhân cắt thân đuôi
tụy kèm theo cắt trục celiac (DP-CAR), 27 bệnh nhân còn lại cắt thân đuôi tụy
đơn thuần (DP) thấy không có sự khác biệt về thời gian phẫu thuật trung bình,
số máu mất trong mổ, tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật và tỷ lệ biến chứng giữa
DP-CAR và DP. Tỷ lệ biến chứng và tử vong trong bệnh viện của DP-CAR là
56% và 6% tương ứng. Trong số DP-CAR thì 15 bệnh nhân không thực hiện
tạo hình động mạch gan và cũng không thấy nhồi máu gan sau mổ. Tỷ lệ sống
1năm, 3 năm của DP-CAR tương ứng là 42,6% và 25,6%. Tỷ lệ cắt bỏ R1của
DP- CAR là 44%, của DP là 22%. [76]
- Takahashi, H., H. Ogawa đã nghiên cứu 58 bệnh nhân ung thư biểu
mô tuyến tụy được DP, trong đó 28 bệnh nhân điều trị hóa chất (gemcitabine)
trước phẫu thuật và 30 bệnh nhân không sử dụng hóa chất trước phẫu
thuật.Kết quả trong nhóm dùng hóa chất trước mổ (CRT) thì 86% không phát
hiện dò tụy (PF), trong nhóm không CRT thì 33% không phát hiện dò
tụy.Như vậy có thể thấy rằng phẫu thuật có CRT làm giảm đáng kể tỷ lệ PF
sau khi DP, tạo nhiều cơ hội hơn cho việc bắt đầu điều trị bổ trợ ngay sau mổ.
[88]
- Đỗ Trường Sơn (2004) thực hiện nghiên cứu chẩn đoán ung thư tụy
ngoại tiết trên 271 bệnh nhân thì tỷ lệ U thân đuôi tụy là 7%, trong đó tỷ lệ
còn chỉ định phẫu thuật cắt thân đuôi tụy là 31,6%, mổ thăm dò là 63,1%, tỷ
lệ tử vong 5,3% do suy kiệt và viêm phổi , tỷ lệ nối tắt 5,3% [20].
25
Tác giả chỉ đề cập đến các biến chứng sau mổ cắt khối tá tụy như chảy
máu ổ bụng 2,4%, rò tụy 3,7%, rò tiêu hóa 1,2%, Áp xe tá tồn dư 1,2%,
nhiễm trùng vết mổ 3,75, viêm phổi nặng sau mổ 1,2%.

Phân loại giai đoạn bệnh theo định nhĩa của UICC thì tác giả đưa ra kết quả
ung thư giai đoạn 1chiếm 9,8%, giai đoạn 2 là 37,8%, giai đoạn 3 là 52,4%
Tác giả chỉ đưa ra thống kê thời gian mổ cắt khối tá tụy và kết quả trung
bình 1 ca mổ là 251,71 phút, nhanh nhất là 180 phút, lâu nhất là 320 phút.
Thời gian nằm viện của nhóm cắt tá tụy chủ yếu nhỏ hơn 14 ngày
(86,6%), có 12,2% nằm viện từ 14- 21 ngày và chỉ có 1,2% có thời gian nằm
viện trên 21 ngày.
Thời gian sống thêm sau mổ (STSM) thân đuôi tụy trung bình là 8,55
tháng, ít nhất là 2 tháng và lâu nhất là 15 tháng. Thời gian STSM của các
trường hợp cắt được u trung bình là 12 tháng. [20]

×