Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng phẫu thuật tại bệnh viện k

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.51 KB, 38 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư gan nguyờn phỏt (UTGNP) là ung thư xuất phát từ thành phần
cấu tạo gan, bao gồm ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG), ung thư biểu
mô tế bào ống mật, ung thư tổ chức liên kết, ung thư cơ trơn, ung thư trung
biểu mô, ung thư thần kinh nội tiết gan, trong đó, UTBMTBG hay gặp nhất và
chiếm đa số *.
Gọi là nguyờn phỏt để phân biệt với ung thư gan (UTG) thứ phát di căn
của các ung thư ( UT ) đường tiờu húa khỏc tới gan.
UTG là bệnh rất ác tính, hay gặp trên thế giới *. Bệnh nhân (Bn) không
điều trị thường tử vong từ 3 đến 6 tháng kể từ khi xuất hiện triệu chứng đầu
tiên *.
Theo thống kê của WHO năm 2000 thì UTGNP đứng hàng thứ 5 ở nam
giới và đứng hàng thứ 9 ở nữ giới * số lượng bệnh nhân UTGNP mới mắc trên
thế giới ước tính là 564.000 người. Trong đó, đại đa số là UTBMTBG. Tuy
nhiên tỷ lệ UTGNP khác nhau thùy theo khu vực địa lý, khu vực có tỷ mắc
bệnh cao nhất là châu Á và châu Phi chiếm 12%, trong khi đó, ở châu Âu chỉ
chiếm 9% và Bắc Mỹ chiếm 2%. Riêng ở nước ta, UTG đứng hàng thứ 4
chiếm 5-6% tổng số các UT. Tỷ lệ mắc UTG cũng có chiều hướng tăng lên *.
Theo Phạm Hoàng Anh và cộng sự thì UTGNP đứng hàng thứ 3 ở nam giới và
đứng hàng thứ 6 ở nữ giới *.
Yếu tố nguy cơ cao được công nhận gây nên xơ gan và UTG là virus
viêm gan B và gần đây là virus viêm gan C *. Ngoài ra, nấm mốc, chất độc
màu da cam, thuốc diệt côn trùng cũng có khả năng gây UTG mạnh trên
thực nghiệm *.
Về mặt lâm sàng, giai đoạn đầu của ung thư gan là rất kín đáo, các dấu
hiệu lâm sàng đều không đặc hiệu như : mệt mỏi, chán ăn, đau tức nhẹ vùng
dưới sườn phải khiến người bệnh ít để ý. Nhưng nếu chẩn đoán được bệnh ở
giai đoạn này là rất quý vì bệnh còn ở giai đoạn sớm, khả năng cứu chữa cao.
Trên thực tế người bệnh thường đi khám khi đã tự sờ thấy u, lúc này các dấu
hiệu lâm sàng đã rõ rệt, ở giai đoạn này, bệnh đã muộn, khả năng cứu chữa là


2
rất hạn chế. Một số bệnh nhân được chẩn đoán bệnh qua việc khám bệnh định
kỳ hoặc nhân việc đi khám một bệnh khác mà phát hiện ra.
Đến nay có nhiều phương pháp để điều trị cho loại ung thư này như :
phẫu thuật, điều trị hóa chất, tia xạ, tiêm cồn vào khối u, nút mạch và nút hóa
chất (TACE: Transcatheter Arterial Chemo-embolization), đốt sóng cao
tần Phẫu thuật là phương pháp được lựa chọn hàng đầu, điều trị hóa chất và
tia xạ đã được áp dụng song kết quả còn hạn chế, phương pháp nút mạch hiện
nay được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới cũng như ở Viểt Nam nhưng kết
quả còn nhiều bàn cãi vì sự tân tạo cỏc vũng nối mạch trong ung thư là rất
nhanh, phương pháp tiêm cồn vào khối u được áp dụng nhiều tại một số nước
như Nhật Bản*, Ý*, Đài Loan, Trung Quốc, Pháp, Đức Ở Việt Nam, phương
phỏp tiêm cồn vào khối u lần đầu tiên được áp dụng tại bệnh viện Trung ương
Quân đội 108 (1992) đã thu được kết quả rất khả quan. Về sau phương pháp
này được áp dụng rộng rãi ở Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Bưu Điện, Bệnh
viện Quân y 103 và nhiều bệnh viện khác trong cả nước đã triển khai phương
pháp này *. Tại Bệnh viện K trung ương, việc điều trị ung thư gan nguyờn
phỏt chủ yếu là phương pháp phẫu thuật và tiêm cồn. Phẫu thuật cắt gan là can
thiệp nặng, đòi hỏi chọn lựa Bn, kíp mổ và kíp gây mê hồi sức có kinh
nghiệm. Phẫu thuật triệt căn có diện cắt sạch u, khả năng khỏi bệnh và sống
thêm lâu dài đối với Bn *. Năm1996 lần đầu tiên triển khai Pt cắt gan trong
UT gan*, trong suốt thời gian từ 1996 – 2003 số lượng rất hạn chế.Từ năm
2004 trở lại đây, cùng với sự gia tăng tỷ lệ Bn UTG thì việc điều trị UTG tại
Bệnh viện K cũng được tiến hành nhiều hơn bằng phương pháp Pt. Hiện chưa có
nghiên cứu nào tại bệnh viện K về Pt cắt gan. Vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài
này nhằm các mục tiêu sau:
1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của UTBMTBG.
2. Đánh giá hiệu quả điều trị UTBMTBG bằng phẫu thuật cắt gan
tại bệnh viện K từ 2004- 2009.


3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược về giải phẫu gan.
1.1.1. Vị trí :
Gan là một tuyến lớn nhất cơ thể, chiếm khoảng 2,5% trọng lượng cơ
thể ở ngừoi lớn và khoảng 5% trọng lượng cơ thể ở trẻ mới sinh.
Gan là một tạng mềm nằm trên mạc treo đại tràng ngang, ngay sát dưới
cơ hoành, ở vùng dưới hoành phải và phần lớn thượng vị.
Gan có hình quả dưa hấu bổ đụi, cú hai mặt là mặt trên (mặt hoành) và
mặt dưới (mặt tạng). Gan có một bờ là bờ dưới phõn cách giữa các mặt hoành
và mặt tạng.
1.1.2. Sự phân chia phõn thùy của gan.
* Dựa theo hình thể ngoài của gan.
Phân chia gan theo giải phẫu cổ điển : Gan gồm 4 phõn thựy
- Thùy phải và thựy trỏi ngăn cách nhau bởi dây chằng liềm (mặt
hoành). Dây chằng liềm là dây chằng được tạo nên bởi nếp phúc mạc treo mặt
hoành của gan, mặt dưới cơ hoành vào thành bụng trước, kéo dài từ dây chằng
vành tới rốn.
- Mặt tạng: có hai rãnh đọc và một rãnh ngang chia gan thành 4 phõn thựy:
+ Rãnh dọc phải nối từ hố túi mật phía trước tới rãnh tĩnh mạch chủ
dưới ở phía sau.
+ Rãnh dọc trái nối từ khuyết dây chằng tròn (là di tích của tĩnh mạch
rốn) ở trước tới dây chằng tĩnh mạch rốn (là di tích của ống Arantius nối giữa
tĩnh mạch chủ trong thời kì bào thai) ở sau.
+ Rãnh ngang : là cửa gan, có động mạch gan, tĩnh mạch cửa và ống
mật đi qua.
4
Cỏc rãnh này chia gan thành 4 thùy:
+ Thùy phải : nằm bên phải rãnh dọc phải.

+ Thựy trái: nằm bên trái rãnh dọc trái.
+ Thựy vuông : nằm giữa hai rãnh dọc và trước rãnh ngang.
+ Thựy đuôi : nằm giữa hai rãnh dọc và sau rãnh ngang.
* Phân chia gan theo Tôn Thất Tùng
Phương pháp phân chia thựy, phõn thùy gan theo Tôn Thất Tùng (1964)
là cơ sở để chẩn đoán vị trí tổn thương trên chẩn đoán hình ảnh và cũng là cơ
sở để phẫu thuật gan, mật. Cơ sở của sự phân chia này là sự phân chia theo
mạch máu, tĩnh mạch cửa và đường mật. Sự phân chia gan theo Tôn Thất
Tùng như sau:
- Nửa gan phải được phân chia thành hai thùy là phõn thựy trước và
phõn thựy sau.
- Nửa gan trái chia thành hai phõn thựy là phõn thựy cạnh giữa và phõn
thựy bờn, chỳng được ngăn cách nhau bởi khe rốn.
- Riờng thựy đuụi tạo thành thùy lưng.
Cỏc thùy này lại được phân chia thành các hạ phõn thựy được đánh số
từ I đến VIII.
- Phõn thựy bờn : Gồm hai hạ phõn thựy là hạ phõn thựy II và III.
- Phõn thùy cạnh giữa : Hạ phõn thựy IV, tương ứng với thựy vuụng
theo cách phân chia cổ điển.
- Phõn thùy lưng: Hạ phõn thựy I, tương ứng với thùy đuổi theo phõn
thựy chia cổ điển.
- Phõn thùy trước: Gồm hạ phõn thựy V và VIII.
- Phõn thùy sau: Gồm hạ phõn thựy VI và VII.
5
1.1.3. Mạch máu gan.
Gan là tạng được nuôi bởi hai hệ mạch máu là động mạch gan và tĩnh
mạch cửa.
* Động mạch gan.
Bình thường, động mạch gan chỉ cấp khoảng 25% lượng máu tới gan.
- Động mạch thân tạng: là nhánh tách ra từ động mạch chủ bụng, thường

ở vị trí khoảng 12 giờ, chỗ xuất phát ngang với đốt sống T12-L1. Thân tạng là
một động mạch dài độ 1-3cm. Động mạch thân tạng bình thường tách ra ba
nhánh đó là: động mạch vị trái, động mạch lách và động mạch gan chung.
- Động mạch gan là một nhánh to nhất trong ba nhánh của thân tạng.
Động mạch gan chung khi tới bờ trái của tĩnh mạch cửa thì chia làm hai
ngành: động mạch vị tá tràng và động mạch gan riêng.
- Động mạch gan riêng chạy ngược lên trước tĩnh mạch cửa, lách giữa
hai lá mạc nối nhỏ rồi chia hai ngành cùng là nhánh gan phải và trái.
- Nhánh phải to, chạy vào gan phải và chia cỏc nhỏnh bờn là động mạch
túi mật, động mạch thựy đuụi, động mạch phõn thựy trước, động mạch phõn
thựy sau.
- Nhỏnh trái cho cỏc nhỏnh là động mạch thựy đuụi, động mạch phõn
thựy giữa, động mạch phõn thựy bờn.
- Động mạch gan riờng tỏch một nhỏnh bờn cho dạ dày là động mạch vị
phải.
- Đó là sự phân bố thường gặp nhất.
- Động mạch túi mật là một nhánh của động mạch gan, lúc ngắn thỡ
tỏch ở ngành phải của động mạch gan, ngay trong khu rốn gan. Dài thỡ tỏch ở
động mạch gan riêng chạy ở phía trước hoặc phía sau của ống gan.
* Tĩnh mạch cửa.
Tĩnh mạch cửa bình thường chiếm khoảng 75% lượng máu đến nuôi gan.
6
- Nguyên ủy: Tĩnh mạch cửa được tạo thành do hợp lưu của tĩnh mạch
mạc treo tràng trên và tĩnh mạch lách. Tĩnh mạch lách trên đường đi của nó
còn nhận thêm một tĩnh mạch lớn là tĩnh mạch mạc treo tràng dưới. Ngoài ra,
tĩnh mạch cửa còn nhận thờm cỏc nhỏnh tĩnh mạch túi mật. Tĩnh mạch cạnh
rốn, tĩnh mạch vị hải, tĩnh mạch vị trái và tĩnh mạch trược môn vị.
- Đường đi: Tĩnh mạch cửa từ nguyên ủy chạy chếch sang phải, ra
trước, trong mạc nối nhỏ cùng động mạch gan riêng và ống mật chủ. Ba thành
phần này tạo nên cuốc gan. Tại cuống gan, tĩnh mạch cửa chạy phí sau động

mạch gan riêng và ống mật chủ. Đến cửa gan, tĩnh mạch cửa tách thành hai
nhánh là nhanh phải và nhỏnh trỏi chạy vào hai nửa gan phải và gai trái.
- Nhánh phải của tĩnh mạch cửa chia thành cỏc nhỏnh đi vào phần thùy
trước và phõn thựy sau, sau đó chia tiếp thành cỏc nhỏnh đi vào các hạ phõn
thựy V, VIII, VI, VII.
- Nhỏnh trái của tĩnh mạch cửa tách ra cỏc nhỏnh cho các hạ phõn thựy
II, III, IV. Riờng phõn thựy I hay thựy đuụi không có nhánh của tĩnh mạch
cửa. Nhỏnh trỏi của tĩnh mạch cửa còn nhận thêm hai tĩnh mạch là tĩnh mạch
rốn (đã tạo thành dây chằng tròn) và ống tĩnh mạch. (Ống Arantius hay là dây
chằng tĩnh mạch).
- Tĩnh mạch cửa nối với tĩnh mạch chủ qua cỏc vũng nối quanh thực
quản, vòng nối quanh trự tràng, quanh rốn và quanh phúc mạc.
* Các tĩnh mạch trên gan
- Động mạch gan và tĩnh mạch cửa khi đi đến gan chúng được chia nhánh
vào cỏc phõn thựy và hạ phõn thựy và được chia nhỏ dần tới các tiểu thùy
gan, sau đó chúng được dẫn lưu bởi các tĩnh mạch gian tiểu thùy. Những tĩnh
mạch gian tiểu thùy này tập trung thành những tĩnh mạch lớn hơn và cuối
cùng tạo thành ba tĩnh mạch trên gan là tĩnh mạch trên gan trái, tĩnh mạch trên
gan phải, tĩnh mạch trên gan trữa. Ba tĩnh mạch trên gan này đổ vào tĩnh mạch
7
chủ dưới. Ngoài ra, cũn cú cỏc tĩnh mạch nhỏ chạy từ thựy đuụi đổ thẳng vào
tĩnh mạch chủ dưới.
1.2. Sinh lý
Gan là một cơ quan tuyến lớn nhất cơ thể được chia hai thùy gan (phải và
trái) bởi dây chằng liềm. Đơn vị chức năng của gan là tiểu thùy gan*.
Các chức năng chính của gan bao gồm: biến đổi axit amin dư thừa thành
urờ cân bằng nội mô, tổng hợp một vài axit amin, biến đổi tinh bột, protein
thành chất béo, dự trữ glucoza (dưới dạng glucogen) giải phóng năng lượng,
tạo và tiết mật (kiềm ) để phân hủy chất béo, lọc và khử độc, tạo prothrombin,
fibrinogen tham gia quá trình điều hòa cầm và đụng mỏu, tiờu sợi huyết

1.3. Dịch tễ học của UTGNP.
UTGNP là một bệnh lý ác tính thường gặp trên thế giới *. Đặc biệt thể
UTBMTBG chiếm đa số và mắc nhiều ở nam giới trên 30 tuụit*. Cỏc nước có
nguy cơ mắc thấp hơn là ở châu Âu và ít gặp tại Mỹ và Bắc Mỹ*. Các nước
châu Âu, tỷ lệ mắc UTG hàng năm chỉ vào khoảng 4/100.000 người*. Tại Mỹ
và Bắc Mỹ khoảng dưới 10.000 người mắc bệnh hảng năm, ước tính chiếm
gần 2% các loại UT. Hàng năm tần xuất gặp khoảng 2,9/100.000 người nam
và 1,2/100.000 người nữ. Tỷ lệ thấp tương tự cũng được thấy ở Anh, Canada,
Úc, Nam Mỹ*. Tại các khu vực nguy cơ cao (châu Á và Châu Phi),
UTBMTBG là một vấn đề xã hội nặng nề của khu vực*. Tỷ lệ mắc bệnh của
người Trung Quốc tại Singapor khoảng 34/100.000 người, 65/100.000 người
ở Zimbabwe và lên tới 100/100.000 người ở Mozambique và Đài Loan, tỷ lệ
mắc ở nam:nữ là 5:1 *. Hình như có liên quan tới môi trường và tập quán sinh
hoạt. Khi mắc UTG trên xơ gan về giới là 4 nam: 1 nữ và ở độ tuổi khoảng
trên 50 tuổi *. Trong UTGNP thì UT thể mảng xơ thường xuất hiện ở người
trẻ ( 23-26 tuổi ) chiếm đều cả 2 giới và có thời gian sống thêm sai mổ dài hơn
cả*. Các thống kê cho thấy người da đen ở Nam Phi có tỷ lệ mắc bệnh rất cao:
8
28/100.000, cao hơn người da đen Mỹ: 8/100/000 và còn cao hơn ở nhiều
người Mỹ da trắng 2,4/100.000 *.
Việt Nam nằm ở vùng có tỷ lệ mắc bệnh cao và UTGNP ngày càng phổ
biến. Theo Tôn Thất tùng (1964), trong số 5492 trường hợp UT các loại, có 159
UTG (2,9%), trung bình mỗi năm có 26 trường hợp; từ 1962 – 1968, trong số
7911 UT các loại có 791 UTG (10%), trung bình mỗi năm có 144 trường hợp; từ
năm 1972 – 1982, bệnh viện Việt Đức đã mổ 867 trường hợp UTG * .
Theo Đoàn Hữu Nghị (1996), tỷ lệ mắc bệnh UTG tại Hà Nội ở nam là
536/200.000 và khoảng 145/200.000 ngưởi ở nữ, đứng hàng thứ 2 sau UT dạ
dày. So với giai đoạn 1988 – 1992 thì mắc UTG tăng 33.1% ở nam và 12,5%
ở nữ, tuổi hay gặp ở lứa tuổi trung niên *.
1.4. Nguyên nhân gây UTGNP.

Có rất nhiều yếu tố nguy cơ liên quan tới UTGNP. Bao gồm chế độ dinh
dưỡng không tốt, có nhiều chất gây UT như: nitrosamin trong dưa muối,
Afltoxin trong thực phẩm ôi thiu, nấm mốc*, viêm gan B mạn tính, xơ gan do
rượu Mặc dự cỏ yếu tố này đều có vai trò sinh bệnh song VRVG B có vẻ
đóng vai trò lớn nhất trong sinh bệnh học của hầu hết UTGNP *. Các nghiên
cứu dịch tễ lâm sàng và thực nghiệm đã chứng minh mối liên quan đặc biệt và
chủ yếu giữa VRVG và gần đây là VRVG C với xơ gan và UTG*. Các nghiên
cứu về nguyên nhân bệnh sinh liên quan giữa VRVG và UTGNP đã có nhiều
tiến bộ, chỉ ra một dòng tế bào u ở người có axit desoxyribonucleic của
VRVG B (DNA – VRVG B) tổng hợp trong gen tế bào gan và được thể hiện
bởi kháng nguyên bề mặt viêm gan B ( HBsAg). Sự tổng hợp của DNA –
VRVG B cũng được thấy ở cả hai dòng tế bào u gan và mẫu khối u lấy được
từ bệnh nhân UTG. Tỷ lệ nhiễm VRVG B ở bệnh nhân UTGNP là 13% trong
một nghiên cứu hồi cứu ở Mỹ *. Bn nhiễm VRVG B, hậu quả gây nên viêm
9
mạn tính, hủy hoại tế bào gan gây xơ gan là có liên quan mạnh mẽ tới việc
phát triển một UTGNP đã được chứng minh *.
Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu về yếu tố nguy cơ VRVG B cũng đã
được tiến hành từ nhiều năm trước đây. Tình hình lây nhiễm VRVG B tại các
đối tượng như đường lây truyền bệnh từ mẹ sang con, diễn biến lâm sàng trầm
trọng của bệnh nhân bị nhiễm VRVG B để lại hậu quả nhiễm dai dẳng VRVG
B, viêm gan mạn tính, xơ gan.
Xơ gan thể khối u đặc biệt hay gặp trên bệnh nhân UTBMTBG ở châu Á,
ngược lại thể xơ lan tỏa lại gặp nhiều ở Bắc Mỹ *. Xơ gan làm giảm khả năng
tổng hợp lại phần gan bình thường. Xơ gan liên quan mật thiết tới UTGNP, là
yếu tố nguy cơ gây nên UTGNP thậm chí cả ở bệnh nhân không có bằng
chứng bị nhiễm VRVG B và VRVG C*. Xơ gan có mặt trong 50-89% trong
bệnh nhân UTGNP ở nhiều nghiên cứu tai các khu vực khác nhau, đặc biệt là
tại châu  và châu Mỹ, nơi có tiêu thụ nhiều rượu *, thường xuất hiện ung thư
ở bệnh nhân điều trị xơ gan trong một thời gian dài.

Tại Việt Nam, xơ gan thường thấy trên một UTG khoảng từ 52,4 đến
80%*.Chất độc màu da cam mà Mỹ sử dụng trong chiến tranh đã và đang
được tiếp tục nghiên cứu hâu quả của nó dẫn tới UTG cho người dân Việt
Nam và là nguyên nhân gây UTG mạnh trên thực nghiệm*.
1.5. Chẩn đoán ung thư gan
1.5.1. Đặc điểm lâm sàng:
Trên một người có tiền sử khỏe mạnh hay nhiễm VRVG B, VRVG C
mạn tính, xơ gan hay liên quan với một số yếu tố nguy khác như tiếp xúc
thuốc diệt côn trùng, hóa chất, chất độc màu da cam thấy xuất hiện các dấu
hiệu mệt mỏi, chán ăn, gầy sút, đau tức nặng vùng dưới sườn phải, càng về
sau càng đau nhiều hay đau rất mơ hồ là các triệu chứng gợi ý của một UTG.
Diến biến UT giai đoạn sớm thường rất thầm lặng. Nếu có các triệu chứng
10
lâm sàng của UTGNP tiến triển, tiên lượng bệnh nhân chỉ sống vài tháng. Một
dấu hiệu cần lưu ý là yếu tố giới, các nghiên cứu đã chỉ ra là UTG thường gặp
ở nam giới*. Một số BN có biểu hiện sốt từng đợt hay liên tục không rõ
nguyên nhân hoặc có cơn hạ đường huyết*. Cũng có thể gặp một BN bị xơ
gan teo, bụng có dịch cổ chướng, chảy máu do vỡ tĩnh mạch thực quản, vàng
da hoặc biểu hiện bệnh não. Phát hiện một u gan to và tuần hoàn bàng hệ, kết
hợp với vỡ gan đó chắc chắn là UTG giai đoạn tiến triển*.
UTG giai đoạn sớm có thể chỉ có gan to hay không phát hiện được đặc
biệt gỡ trờn cỏc bệnh nhõn cú nguy cơ cao mắc bệnh UTG. Sử dụng siêu âm
và xét nghiệm AFP có thể chẩn đoán được UTG giai đoạn sớm nhất là ở BN
có tiền sử nhiễm VRVG B mạn tính hay có xơ gan *.
Di căn thường thấy trong UTGNP giai đoạn muộn *. Di căn phổi, di
căn xương hoặc các vị trí không thường gặp cũng có thể gợi ý đế chẩn đoán
bệnh UTG*. Hơn ẵ Bn có lan tràn di căn ngoài gan. Một số khỏc cú cơn đau
bụng cấp tính vì vỡ u (thường gặp tại châu Á) hoặc khối u chèn ép thâm
nhiễm tĩnh mạch cửa gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa hoặc xâm lấn tĩnh mạch
trên gan, tĩnh mạch chủ dưới gây ra hội chứng Buđ Chiari cấp tính hay bán

cấp tính *. Di căn UTGNP thường xâm lấn cơ hoành và các cơ quan lân cận
như dạ dày, liên quan tới tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch cửa, không thường
xuyên xâm lấn tĩnh mạch trên gan Hiếm có ghi nhận về biến chứng nội tiết
và hội chứng cận ung thư*.
Trước đây, tại Việt Nam, đa số BN UTGNP đến khám bệnh vì đau
bụng vùng dưới sườn phải, có khi cả bên trái, kèm phát hiện thấy có khối u ở
vùng gan *.
1.5.2. Đặc điểm cận lâm sàng
* Một số xét nghiệm về chức năng gan như men gan (SGOT, SGPT),
điện đi Protein máu (đánh giá tỷ lệ A/G), chức năng đụng máu (Prothrombin),
11
Bilirubin máu là những xét nghiệm không đặc hiệu để chẩn đoán ung thư tế
bào gan. *
* AFP (Alpha foeto Protein) **
Là một protein trong huyết thanh, xuất hiện ở thời kỳ bào thai. Nó chỉ
tồn tại sau khi trẻ ra đời khoảng 3 đến 4 tuần. Đối với người lớn, bình thường
nồng độ của AFP trong máu thấp hoặc không có (chỉ số bình thường của nó là
từ 0 đến 20ng/ml). Khi bệnh nhân bị mắc ung thư biểu mô tế bào gan, lượng AFP
có thể tăng cao, Vì sự tăng nồng độ của loại Protein này, nó có thể giúp chẩn đoán
ung thư biểu mô tế bào gan. Tuy nhiên, sự tăng nồng độ AFP trong máu đạt đến
mức có ý nghĩa là trên 500ng/ml thường chỉ đạt 60 đến 75%. Đối với những khối
u nhỏ thì AFP tăng đến mức có ý nghĩa chỉ đạt được khoảng 25%.
Có mối tương quan giữa nồng độ AFP với số lượng, kích thước khối u
và thời gian sống của bệnh nhân: Tỷ lệ AFP dương tính mạnh (> 500ng/ml) ở
những trường hợp có từ 2 khối u trở lên là 84,00%, cao hơn những trường hợp
chỉ có một khối u. Tỉ lệ AFP dương tính mạnh ở những trường hợp khôi u lớn
(đường kính > 3cm) là 83,33%, cao hơn rõ rệt so vơi những trường hợp có
khối u nhỏ (33,33%). Tỉ lệ AFP dương tính mạnh cũng chiếm phần đông các
bệnh nhân có thời gian sống thêm ngắn*.
Khi nồng động AFP thấp hơn, nú cú độ đặc hiệu không cao vì có thể

gặp trong những u loạn sản phôi ác tính, ung thư dạ dày, trong viêm gan và có
thể gặp ở những phụ nữ có thai trên 3 tháng.
Nồng độ AFP giảm nhanh ở những bệnh nhân được điều trị phẫu thuật
cắt bỏ khối hoặc các phương pháp điều trị khác. Sự tăng AFP trở lại sau điều
trị thể hiện bệnh tái phát hoặc thất bại của điều trị. Vì vậy AFP còn được dùng
để đánh giá kết quả điều trị và theo dõi tiên lượng bệnh *.
Sự tăng của AFP không cho biết số lượng, kích thước cũng như sự lan
tràn của của khối u. Do vậy,nú không có ý nghĩa về mặt tiên lượng cho bệnh
12
nhân. Tuy vậy, nó có ý nghĩa đối với sự đánh giá về kết quả điều trị như sự
giảm nồng độ của AFP sau điều trị.
* Chẩn đoán hình ảnh
Một phim chụp XQ ngực – bụng thông thường có thể cho thấy gián tiếp
hình ảnh gan phì đại hay gan teo nhỏ, hay tình cờ phát hiện canci hóa trong tổ
chức khối u gan nguyờn phỏt. Đường cong mềm mại của vòm hoành trở thành
nham nhở, gấp khúc trên phim chụp thường, thể hiện một thâm nhiễm của u gan
ở mặt trên gan*. Chụp dạ dày, tá tràng cản quang toàn thể cho thấy sự giãn rộng
của bờ cong nhỏ dạ dày thể hiện sự đè đẩy của khối u gan trái hay u vùng nửa
dưới gan. XQ phổi còn cho biết sự di căn thường thấy ở phổi của UTG *.
Siêu âm là một phương tiện chẩn đoán hình ảnh không can thiệp trên cơ
thể, khụng gõy biến chứng, hiệu quả cao và kinh tế, để chẩn đoán ung thư gan.
Siêu âm có thể phát hiện trường hợp u gan không biểu hiện triệu chứng lâm
sàng, u ở sõu khụng sờ thấy và một số tổn thương u nhỏ hơn 3cm *. Hầu hết
các tổn thương phát hiện trên siêu âm là một vùng tăng đậm âm, thỉnh thoảng
gặp giảm âm ở giữa u gan do hoại tử khối u *. Siêu âm nội soi được sử dụng
để chẩn đoán mức độ xâm lấn của u gan và hạch vùng, đặc biệt có thể chẩn
đoán phân biệt một UTGNP và một u máu gan bằng một siêu âm màu *. Hơn
nữa siêu âm còn rất hữu ích trong mổ để phát hiện thêm tổn thương bất
thường mà không phát hiện được trước mổ *, để hướng dẫn phẫu thuật viên
cắt gan điều trị UTGNP *. Đồng thời sử dụng siêu âm để hướng dẫn kim sinh

thiết gan trong chẩn đoán tế bào và mô bệnh học *, trong điều trị UTG bằng
tiêm cồn *.
Tại Việt Nam, siêu âm là phương tiện được sử dụng thông thường để
chẩn đoán UTG, với giá trị chẩn đoán cao, rất phù hợp với hoàn cảnh kinh tế
Việt Nam. Siờu õm còn được dùng để sàng lọc đối tượng có nguy cơ mắc
13
UTG. Theo Hoàng Kỷ, sử dụng siêu âm đã phát hiện được bệnh nhân UTGNP
ở giai đoạn sớm tới 4,1% *.
Chụp cắt lớp vi tính xác định được các u gan nguyờn phỏt và ổ di căn;
mô tả sự lan rộng của khối u, lập kế hoạch điều trị UTG. Tuy nhiên, hiệu quả
chẩn đoán kém hơn so với siêu âm nội soi trong phát hiện u gan, đặc biệt đối
với các tổn thương nhỏ và chưa phát hiện hoàn toàn được u lành và u ác *.
Chụp cộng hưởng từ có khả năng phát hiện được các tổn thương ung
thư giai đoạn sớm. Phương pháp này cho thấy mức độ của sự tương phản giữa
u lành và u ác tính. Tuy nhiên khi kết hợp với chụp cắt lớp vi tính thì hiệu quả
chẩn đoán càng cao, phát hiện được cả những tổn thương UTG hiếm gặp như
UTG mảng xơ *, trong việc nêu được đặc trưng của UTG mảng xơ.
Nội soi đường tiêu hóa được áp dụng để phát hiện tổn thương giãn tĩnh
mạch thực quản trong bệnh UTG có xơ gan gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa,
đồng thời tiến hành điều trị tiêm xơ tĩnh mạch thực quản trước phẫu thuật để
dự phòng suất huyết đường tiêu hóa trên sau phẫu thuật *.
Chụp nhấp nháy phóng xạ cho hiệu quả chẩn đoán UTG rất cao hơn
hẳn các phương pháp trên. Hiện nay đang phát triển kỹ thuật sử dụng kháng
thể đơn dũng cú gắn đồng vị phóng xạ như một đầu dò để phát hiện các khối u
đặc hiệu và các ổ di căn. Nhưng ngược lại, chụp cắt lớp mô tả tổn thương của
bệnh và sự thâm nhiễm ngoài gan tốt hơn *. Chụp động mạch gan đơn thuần
sử dụng trong UTG cho biết vị trí, kích thước và số lượng u, tổn thương vệ
tinh của khối u và sơ đồ mạch máu đếm gan, rất có ý nghĩa trong việc lập kế
hoạch trong điều trị UTG bằng phương pháp nút mạch *.
Chẩn đoán tế bào học cũng được áp dụng để chẩn đoán xác định

UTGNP với độ chính xác cao, theo Đào Văn Long thì độ chính xác của chẩn
đoán tới 99,6% *. Tuy nhiên cần phải có một đòi hỏi kỹ thuật để tránh chảy
14
máu từ mạng mạch tăng sinh của khối u hay của một u máu chưa được chẩn
đoán ra.
Nếu chưa có chẩn đoán rõ ràng cần tiến hành kim sinh thiết gan để
chẩn đoán, nếu u gan được xem xét cắt gan thì sinh thiết u trong mổ là điều
rất cần thiết.
1.5.3. Chẩn đoán giải phẫu bệnh
* Đại thể: Cú nhiều cách phân loại đại thể trong UTBMTBG khác nhau
đã được đề xuất, trong đó, phân loại Eggel từ 1901 đã được sửa đổi, bổ xung
và đã được áp dụng rộng rãi hơn cả cho tới hiện nay. Theo cách phân loại này
thì UTBMTBG gồm ba thể chính: thể nốt, thể khối và thể lan tỏa. Ở Việt Nam
từ trước đến nay vẫn áp dụng theo phân loại này *.
* Mô bệnh học *:
- Thể bè.
- Thể giả tuyến và tuyến nang.
- Thể đảo.
- Thể nhú.
- Thể đặc.
- Thể tế bào sáng.
- Thể xơ.
- Thể tế bào đa hình thái.
- Thể dạng sarcom.
* Phân độ mô học của u:
- Biệt húa rừ
- Biệt hóa vừa.
- Biệt húa kộm.
- Không biệt hóa.
15

1.5.4. Chẩn đoán giai đoạn theo TNM
Hệ thống phân loại TNM của Hiệp hội Quốc tế chống ung thư ( UICC )
hay phân loại cải tiến của Hiệp hội chống UT Hoa kỳ ( AJCC ) bao gồm sự
phân loại sau:
- Giai đoạn I: T
1
N
0
M
0
- Giai đoạn II: T
2
N
0
M
0
- Giai đoạn III
a
: T
3
N
0
M
0
- Giai đoạn III
b
: T
31

N

1
M
0
- Giai đoạn IV
a
: T
4
N
10

M
0
- Giai đoạn IV
b
: T
x
N
x
M
1
(T
x
: T bất kỳ, N
x
: N bất kỳ)
* Để xem xét khả năng cắt gan cũng như tiên lượng sau mổ, sau điều trị
tiêm cồn cần tiến hành xác định mức độ xơ gan theo thang điểm Child-Pugh
(1982) *:
- Child-Pugh A: ( 5-6 điểm ) tiên lượng tốt
- Child-Pugh B: ( 7-9 điểm ) tiên lượng dè dặt.

- Child-Pugh C: ( 10-15 điểm) tiên lượng xấu.
Điểm số
Triệu chứng
1 2 3
Não – gan 0 Nhẹ Trung bình
Cổ chướng 0 Ít Nhiều
Bilirubin máu (
µ
mol/l)
< 35 35-50 >50
Albumin máu ( g/l) >35 30-35 <30
Tỉ lệ Prothrombin máu ( % ) >54 44-54 <44
Theo Nagasue (1999), có thể tiến hành cắt được gan cho UTBMTBG
thu được kết quả tốt với BN trẻ tuổi với xơ gan ở loại Child B mà không có
biểu hiện viêm gan*. Như vậy xơ gan là yếu tố cần xem xét trong việc mở
rộng chỉ định cắt gan *.
1.6. Tình hình điều trị UTGNP và kết quả.
16
1.6.1. Điều trị bằng phẫu thuật.
Tỷ lệ phẫu thuật có tính triệt để chỉ chiếm từ 10-20%, tức là khoảng
hơn 80% UTG khi được chẩn đoán thì tiên lượng rất xấu do không còn khả
năng phẫu thuật triệt để *. Chỉ định phẫu thuật cắt gan đối với u gan từ giai
đoạn T
1
đến T
3
, N
0
,N
1

,M
0
( theo phân chia TNM ), chưa có huyết khối tĩnh
mạch cửa, chưa có cổ chướng, chức năng đụng mỏu bình thường. Chống chỉ
định khi UTG ở cả hai thùy, khối u ở mức độ T
4
, huyết khối tĩnh mạch cửa,
cổ chướng, rối loạn đụng mỏu *.
 Các phương pháp phẫu thuật
• Phẫu thuật cắt gan.
- Lịch sử cắt gan*
+ Giai đoạn cắt gan không theo cấu trúc giải phẫu học của gan.
Năm 1716, Berta đã cắt bỏ một mảnh gan vỡ ra ở một nạn nhân tự đâm
vào bụng bằng dao. Năm 1870, Bruns cắt bỏ một phần gan bị tổn thương ở
một thương binh trong chiến tranh Pháp – Phổ. Năm 1886, Lius cắt bỏ khối u
ở thựy trỏi gan, bệnh tử vong sau 6h do chảy máu. Năm 1888, Langenbach cắt
bỏ một khối u có cuống gan trái, tuy hậu phẫu nặng nề nhưng bệnh nhân sống.
Năm 1890, Tiffany lần đầu báo cáo một trường hợp cắt gan trái do u, tác giả
dựng kộo và đốt điện. Năm 1892, Keen đã cắt bỏ nang gan ở rỡa thựy phải
gan; năm 1897 tác giả cắt bỏ u máu gan và năm 1898 đã cắt bỏ được một khối
ung thư gan nguyờn phỏt lớn ở gan trái. Năm 1910, Wendel cắt bỏ gần hết
thủy phải gan do ung thư nguyờn phỏt: buộc động mạch và đường mật tại
cuống gan, không buộc tĩnh mạch cửa. Người bệnh sống được 9 năm. Năm
1949, Wangensteen cắt bỏ toàn bộ thùy phải gan do ung thư dạ dày di căn.
+ Giai đoạn cắt gan theo cấu trúc giải phẫu học của gan *
Năm 1952 được xem là cột mốc của cắt gan theo cấu trúc giải phẫu
trong gan, do Lortat – Jacob và Robert khởi xướng. Các tác giả dùng đướng
17
mổ ngực – bung, kiểm soát mạch máu từ cuống gan. Năm 1953, Quattlebaum
báo cáo 3 trường hợp cắt gan lớn theo phương pháp mới. Một số tác giả khác

báo cáo cắt bỏ thùy phải gan do ung thư gan nguyờn phỏt.
Phương pháp dùng ngón tay bóp, tách nhu mô gan để tìm cuống mạch
mật được áp dụng trong suốt 30 năm sau này.
Từ năm 1953 đến năm 1958, Quattlebaum, Fineberg và Tien Y Lin * đã
ứng dụng, mô tả và phổ biến kỹ thuật tách, cắt nhu mô gan bằng cán dao,
ngón tay rồi kẹp – cắt cuống mạch mật , giữa hai mặt cắt. Năm 1963, Tôn
Thất Tùng cải tiến kỹ thuật : tìm và buộc các cuống mạch máu của phần gan
cắt bỏ trước khi tách phần gan đó ra khỏi phần gan giữ lại theo giới hạn màu
sắc trên mặt gan (vùng gan thiếu máu ). Gần đây hơn, Couinaud chứng minh
giải phẫu học từng hạ phõn thựy gan, từ đó ứng dụng trong cắt bỏ từng hạ
phõn thựy*.
- Vai trò của phẫu thuật cắt gan.
Phẫu thuật cắt gan được coi là phương pháp điều trị tốt nhất kéo dài
thời gian sống có chất lượng cho bệnh nhân UTGNP *. Cắt gan có liên quan
đến tỷe lệ tử vong phẫu thuật và tỷ lệ tử vong do bệnh cao. Do vậy trước kia
phương pháp này không được thường xuyên sử dụng. Tuy nhiên, với sự tiến
bộ của y học hiện nay, phẫu thuật cắt gan có thể được sử dụng với việc chấp
nhận tỷ lệ tử vong phẫu thuật và tỷ lệ tử vong do bệnh *.
Farid H. (1994), phân tích kết quả 100 trường hợp cắt gan ở Mỹ cho
thấy tỷ lệ máu trung bình là 900ml, thời gian phẫu thuật trung bình là 221
phút và thời gian nằm viện trung bình 6 ngày. Tỷ lệ tử vong phẫu thuật 2%; tỷ
lệ chết bệnh viện 22%*.
Miyagawa S. (1995), cũng cho thấy các yếu tố ảnh hưởng tỉ lệ chết
bệnh viện là : thời gian mổ kéo dài, cắt gan lớn, có bệnh tim mạch trước phẫu
thuật. Vì vậy khi thời gian mổ ngắn thì không làm tăng mất máu trong mổ và
tỷ lệ tử vong do bệnh đối với cắt gan lớn là vấn đề cần được thảo luận *.
18
Để điều trị UTBMTBG, cắt gan vẫn là phương pháp đưa lại hiệu quả
cao nhất và được sử dụng khi còn chỉ định mổ.
• Thắt động mạch gan

Mụch đích ngăn dòng máu tới nuôi dưỡng tế bào khối u gây hủy
hoại tế bào UT. Chỉ định không cắt được khối u gan. Chỉ định khi có huyết
khối tĩnh mạch cửa *.
• Ghép gan
Starzl (1963), là người đầu tiên tiến hành ghép gan trên lâm sàng *.
Chỉ định ghép gan là dưới 65 tuổi; không mắc bệnh tim mạch, hô hấp, tiết
niệu, một khối u đường kính nhỏ hơn 5cm hoặc khai khối u đường kính dưới
3cm; không có tăng áp lực tĩnh mạch cửa; xơ gan với suy tế bào gan, không
có sự nhân đôi của VRVG B tức là không có mặt DNA của VRVG B trong
huyết thanh *.
1.6.2. Tiêm cồn vào khối u qua da ( PEI: \Perutaneous Ethanol injection) *
1.6.3. Một số phương pháp khác.
1.6.3.1. Đốt khối u bằng sóng cao tần (Radio Frequency Ablation) *
Khối u sẽ được đốt bằng nhiệt sóng cao tần đẻ gây hoại tử. Phương
pháp này đưcọ sử dụng đối với những khối u nhỏ và có thể tiến hành đồng
thời cũng với nút hóa chất động mạch gan.
1.6.3.2. Điều trị nội khoa *
Điều trị nội khoa trong ung thư gan chủ yếu là sử dụng các hóa chất
toàn thân. Tuy nhiên, những hóa chất này tỏ ra ít tác dụng đối với ung thư
biểu mô tế bào gan. Các hóa chất thường được sử dụng là : 5FU (5 Flue-
Uracin), Doxorubicin, Cysplatin, Mytomicin Ngoài việc đáp ứng kém với
19
những hóa chất này của ung thư biểu mô tế bào gan, những hóa chất trờn cũn
gõy độc đối với gan lành. Vì vậy, ngày nay chỳng ớt được sử dụng.
1.6.3.3. Điều trị bằng tia xạ ( Radiotherapy )*
Điều trị bằng tia xạ cũng kém hiệu quả đối với loại ung thư này.
Chiếu cạ từ ngoài vào: Rất ít khi được chỉ định và chỉ sử dụng đới với
những khối u còn tương đối khu trú, gây đau nhiều và kháng hóa chất. Để
tránh nguy cơ viêm gan, liều tia được giới hạn 30-35 Gy (Gray) trong 3-4
tuần. Mặc dù một số bệnh nhận giảm triệu chứng sau điều trị, nhưng phần lớn

bệnh nhân chết trước 6 tháng *
1.6.3.4. Các phương pháp điều trị qua đường động mạch gan *
 Truyền hóa chất chống ung thư qua động mạch gan (HAIC: Hepatic
Arterial Infusion Chemotherapy)
Mục địch của phương pháp này là đưa trực tiếp các hóa chất chống ung
thư với độ tập chung cao hơn cho vùng ung thư và làm giảm tác dụng phụ cảu
thuốc đối với các cơ quan khác.
Thuốc được đưa vào một hay nhiều lần, đơn độc hay phối hợp thùy
theo từng phác đồ điều trị. Do động mạch gan không phải là động mạch tận
(Có tuần hoàn bên qua đám rối động mạch quanh đường mạt trong gan) nên
hiệu quả điều trị không cao.
 Nút mạch và nút hóa chất động mạch gan *
Phương pháp nút động mạch gan và hóa trị liệu tại chỗ (Chemoembolization )
được A.Roche; Kato và cộng sự đã tiến hành từ những năm 1970. Việc điều trị
ung thư biểu nô tế bào gan được tiến hành kết hợp giữa việc chuyển hóa chất
chống ung thư và kết hợp với nút động mạch nuôi u *. Sau đó nhiều tác giả đó
dựng Lipiodol như chất chuyên chở hóa chất chống ung thư : Lipiodol được
20
pha trộn với hóa chất chống ung thư sau đó bơm vào độngmạch nuôi u. Từ
năm 1990 đến nay, kĩ thuật thông mạch chọn lọc và siêu chọn lọc đã phát triển
mạnh giúp mở rộng hơn chỉ định của nút hóa chất động mạch gan.
Ở Việt Nam từ tháng 9/1999 đến tháng 6/2000, nhúm cỏc bác sĩ khoa
chẩn đoán hình ảnh và khoa tiêu hóa bệnh viện Bạch Mai đã tiến hành những
ca nút hóa chất động mạch gan đầu tiên trên 12 bệnh nhân , kết quả tốt về mặt
lâm sàng đã được ghi nhận. Tình trạng lâm sàng của bệnh nhân được cải thiện
như: giảm đau, tăng cân, vẫn làm việc bình thường. *
1.7. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việt Nam nằm trong khu vực có nguy cơ nhiễm VRVG B cao và gia
tăng tỷ lệ UTGNP gây hậu quả xấu. Do vậy từ lâu đã có nhiều tác giả nghiên
cứu về vấn đề này.

Vấn đề UTG được đề cập đến tương đối sớm trong “ Cắt gan”, “Một
số công trình nghiên cứu khoa học” của Tôn Thức Tùng với số liệu liệu lớn
vào bậc nhất trên thế giới *. Năm 1939, Tôn Thẩt Tựng đó báo cáo nghiên
cứu thành công cắt thùy gan trái để điều trị UTGNP và bệnh nhân này sống
thêm sau mổ 5 tháng *.
Sau này cú thờm cỏc nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng UTGNP *. Về
giải phẫu bệnh *, giá trị chất chỉ điểm UTG cũng như các biện pháp chẩn
đoán UTG * hay biến đổi giải phẫu và phân bố đường mật của người Việt
Nam để áp dụng trong cắt gan và ghép gan *. Nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh
sàng lọc phát hiện bệnh ở người có nguy cơ cao mắc ung thư gan, mô tả hình
ảnh mạch máu và tuần hoàn hệ ngoài gan trong UTGNP *. Nghiên cứu theo
dõi điều trị UTG *. Nghiên cứu điều tra dịch tễ học của bệnh *, về tình hình
nguy cơ nhiễm VRVG B*. Nghiên cứu vai trò của chất diệt cỏ gây UTG mà
Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam *. Tuy nhiên, trước đây do hạn chế
21
về phương tiện và thiết bị, phần lớn BN UTG ở nước ta khi được phát hiện
bệnh thường đã ở vào giai đoạn muộn. Các kỹ thuật chẩn đoán sử dụng thời
gian trước là đơn độc, sơ sài vì thế hiệu quả điều trị còn nhiều hạn chế.
Khoảng 10 năm nay, nhờ sự tiến bộ về lĩnh vực chẩn đoán hình ảnh và các xét
nghiệm cận lâm sàng như định lượng chẩt chỉ điểm UT AFP mà nhiều bệnh
nhân UTG được chẩn đoán sớm hơn, từ khi chưa có hiện tượng triệu chứng
lâm sàng. Do đó đạt được kết quả điều trị UTGNP đáng khích lệ hơn.
22
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán là ung
thư biếu mô tế bào gan, được điều trị bằng phẫu thuật cắt gan tại khoa ngoại
Tam Hiệp Bệnh viện K từ tháng 1 năm 2004 đến tháng 9 năm 2009.
2.1.1.Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân.

+ Bao gồm các bệnh nhân được phẫu thuật cắt gan tại khoa ngoại Tam
Hiệp Bệnh viện K, có hồ sơ bệnh án đầy đủ, có đầy đủ thông tin theo dõi.
+ Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ là UTBMTBG ( kết quả được đọc bởi
khoa giải phẫu bệnh Bệnh viện K).
+ Bn chưa được điều trị bằng phương pháp khác.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ.
+ Bn là ung thư gan nhưng không có kết quả giải phẫu bệnh sau mổ
hoặc kết quả giải phẫu bệnh không phải là UTBMTBG như Sarcom, ung thư
biểu mô đường mật, di căn gan, u nguyên bào gan.
+ Bn bị mất hồ sơ, không đủ thông tin theo dõi.
+ Bn đã được điều trị bằng phương pháp khác trước đấy.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi dọc.
2.2.2. Các bước tiến hành trong nghiên cứu.
 Nghiên cứu các chỉ tiêu lâm sàng .
* Đặc điểm chung : Tuổi, giới, nghề nghiệp, yếu tố nguy cơ.
23
* Đặc điểm lâm sàng : gầy sút cân, chán ăn, mệt mỏi, đau âm ỉ dưới bờ
sườn phải hay trái hoặc đau dữ dội khắp bụng ( biến chứng vỡ u gan ), khám
sờ thấy u, hoặc tình cờ phát hiện u gan qua kiểm tra sức khỏe hoặc qua khám
bệnh vì một bệnh khác, bệnh nhân tự sờ thấy u dưới bờ sườn.
 Các chỉ tiêu cận lâm sàng.
- Huyết học.
- Sinh húa mỏu: urờ, đường, men, SGOT, SGPT, Bilirubin toàn phần,
Albumin, Protein toàn phần.
- Chức năng đụng mỏu: tỷ lệ Prothrombin, Fibrinogen, tiểu cầu.
- Kháng nguyên viêm gan B, C.
- AFP định tính ( theo phương pháp Ouchterlony), định lượng (ng/ml).
- Xột nghiệm mô bệnh học qua chọc kim sinh thiết.
- Chẩn đoán hình ảnh: Siêu âm , chụp cắt lớp vi tính .

 Phương pháp điều trị.
+ Loại phẫu thuật cắt gan: cắt gan trái, cắt hạ phõn thựy, cắt hai hạ
phõn thựy, cắt u đơn thuần.
+ Biến chứng trong mổ.
+ Biến chứng sau mổ (biến chứng sớm trong vòng 30 ngày sau phẫu
thuật) : chảy máu, dò mật, áp xe dưới hoành, suy gan.
+ Lượng máu truyền trong và sau mổ.
+ Theo dõi diễn biến các xét nghiệm sau mổ: Men gan, Albumin,
Protein toàn phần.
+ Chức năng đụng mỏu sau mổ.
+ Diễn biến AFP sau mổ.
24
+ Thời gian nằm viện sau mổ.
+ Tử vong trong mổ, tử vong sau mổ.
+ Thời gian sống thờm (tớnh bằng tháng).
 Kiểm tra bệnh nhân sau điều trị.
- Gửi thư mời bệnh nhân khám lại, nếu bệnh nhân không về được thì
trả lời theo mẫu thư thăm hỏi bệnh nhân sau điều trị.
- Gọi điện hỏi thăm bệnh nhân, nếu bệnh nhân đã chết thì điều tra
thông tin qua gia đình về hoàn cảnh tử vong của bệnh nhân.
- Các thông tin được tập theo một mẫu bệnh án chung.
2.2.3. Xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê y học theo chương trình
phần mềm SPSS 13.0. Dự đoán kết quả sống thêm sau mổ hoặc sau tiêm cồn
của bệnh nhân nghiên cứu bằng phương pháp Kaplan – Meier. Kiểm định các
kết quả bằng test T-student, Chi- Square, test Log – rank. Giá trị P < 0,05 là
có ý nghĩa thống kê.
25
Chương 3
DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIấN CỨU

3.1. Đặc điểm chung.
3.1.1. Tuổi và giới.
3.1.2. Nghề nghiệp.
3.1.3. Các yếu tố nguy cơ.
3.2. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng.
3.2.1 Đặc điểm lâm sàng.
3.2.2 Đặc điểm cận lâm sàng.
* Huyết học và đụng mỏu.
* Nhóm máu.
* Men Tranminase máu.
* Bilirubin máu.
* Mức Protein trung bình, độ lệch, , tối đa, tối thiểu.
* Kháng nguyên bề mặt viêm gan B.
* Chất chỉ điểm khối u AFP.
* Chẩn đoán hình ảnh.
* Tổn thương đại thể của UTBMTBG.
* Tổn thương vi thể giải phẫu bệnh của UTBMTBG
* Độ xơ gan.

×