Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

tăng cường quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn – chi nhánh thanh bình, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.07 KB, 91 trang )

Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
MỤC LỤC
Chương I 6
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CÁ
NHÂN CỬA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6
1.1 Tổng quan về tín dụng cá nhân của Ngân hàng thương mại 6
1.1.1 Khái niệm tín dụng cá nhân của Ngân hàng thương mại ( NHTM) 6
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng cá nhân NHTM 9
1.2 Rủi ro tín dụng cá nhân của NHTM. 13
1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng cá nhân 13
1.2.2 Phân loại và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cá nhân 16
1.2.3 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng cá nhân 20
1.3 Quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại NHTM 22
1.3.1 Khái niệm 22
1.3.2 Sự cần thiết quản lý rủi ro tín dụng cá nhân 23
1.3.3 Nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng cá nhân. 26
1.3.4 Nội dung quản lý rủi ro tín dụng cá nhân. 28
1.3.5 Nhân tố ảnh hưởng tới quản lý rủi ro tín dụng cá nhân 45
Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Thanh Bình tỉnh Hải
Dương 49
2.1 Khái quát về NHNo&PTNT chi nhánh Thanh Bình 49
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng và Phát triển nông thôn – Chi
nhánh Thanh Bình tỉnh Hải Dương 49
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn chi nhánh Thanh Bình tỉnh Hải Dương 51
2.2 Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Bình 60
2.2.1 Xác định rủi ro tín dụng cá nhân 62
2.2.2 Phân tích, đo lường rủi ro: 64
2.3 Đánh giá và kết quả về công tác quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại


Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Thanh Bình 67
2.3.1 Những kết quả đạt được: 67
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 69
Chương III 74
Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Thanh
Bình tỉnh Hải Dương 74
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
1
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
3.1 Định hướng hoạt động tín dụng cá nhân tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn chi nhánh Thanh Bình tỉnh Hải Dương 74
3.2 Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Thanh Bình tỉnh Hải
Dương 77
3.2.1 Cần xác định rõ nhận thức về quản lý rủi ro tín dụng cá nhân 77
3.2.2 Xây dựng chính sách rủi ro tín dụng trong đó có rủi ro tín dụng cá nhân 77
3.2.3 Xây dựng bảng điểm tín dụng để đánh giá rủi ro và định giá khoản vay 78
3.2.4 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng cá nhân 79
3.2.5 Thực hiện tốt công tác giám sát tín dụng cá nhân. 79
3.2.6 Tăng cường đào tạo nâng cao trình độ cán bộ tín dụng và cán bộ quản lý tín
dụng cá nhân 81
3.2.7 Thực hiện tốt công tác quản lý hồ sơ tín dụng cá nhân 83
3.2.8 Tăng cường sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin 84
3.2.10 Có chính sách nâng cao trách nhiệm của cán bộ ngân hàng trong quản lý rủi ro
tín dụng 85
3.3 Kiến nghị 86
3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ 86
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước 87
3.3.3 Kiến nghị 88

KẾT LUẬN 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
2
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
LỜI MỞ ĐẨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một đất nước đang trong tiến trình hội nhập WTO, sự cạnh
tranh khốc liệt giữa các tổ chức tài chính, dịch vụ … đang diễn ra ngày càng
gay gắt, các ngân hàng thương mại trong nước cũng không tránh khỏi cơn lốc
xoáy đó. Để đứng vững trên thị trường, các Ngân hàng Thương mại đã có
những tôn chỉ mục đích khác nhau để tạo vị thế riêng trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam là
một trong những ngân hàng lớn nhất nước ta dựa theo cơ cấu tài sản, mạng
lưới hoạt động. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn – Chi Nhánh
Thanh Bình là một trong những chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam hoạt động trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Tỉnh
Hải Dương trong những năm trở lại đây đang chuyển mình từng ngày, từ một
tỉnh thuần nông đã vươn lên mạnh mẽ để trở thành một trong những tỉnh,
thành phố trọng điểm phát triển kinh tế của cả nước. Tuy vậy tốc độ phát triển
kinh tế quá nhanh và nóng trong những năm trở lại đây, cùng với đó là định
hướng phát triển của ngân hàng nông nghiệp hướng tới những cá nhân, hộ gia
đình và doanh nghiệp vừa và nhỏ với khối lượng khách hàng rất lớn, vì thế
những rủi ro tín dụng và tín dụng cá nhân nói riêng là rất cao. Từ thực trạng
đó tôi đã lựa chọn đề tài “ Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn – Chi Nhánh Thanh
Bình, tỉnh Hải Dương”
2. Mục đích nghiên cứu
- Khái niệm, đặc điểm tín dụng, tín dụng cá nhân của NHTM, rủi ro tín
dụng cá nhân, quản lý rủi ro tín dụng cá nhân. Các nhân tố ảnh hưởng

tới quản lý rủi ro tín dụng cá nhân.
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
3
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
- Phân tích thực trạng quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi Nhánh Thanh Bình.
- Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi Nhánh Thanh Bình.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Rủi ro tín dụng cá nhân của NHTM, quản lý rủi ro tín dụng cá nhân của
NHTM
- Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn - Chi Nhánh Thanh Bình trong những năm gần đây: hoạt động tín
dụng cá nhân, hoạt động huy động vốn, hoạt động khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
đồng thời vận dụng các phương pháp nghiên cứu thống kê, phương
pháp tổng hợp số liệu, phương pháp so sánh, phương pháp báo cáo tổng
kết, kết hợp giữa lý luận và tình hình thực tế hoạt động của Ngân hàng,
để giải quyết vấn đề đặt ra.
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng cá nhân
và quản lý rủi ro tín dụng cá nhân.
- Trên cơ sở phân tích tình hình quản lý rủi ro tín dụng cá nhân của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam- Chi nhánh Thanh
Bình tỉnh Hải Dương đề tài tìm ra các điểm hạn chế từ đó kiến nghị các giải
pháp có tính khả thi và hiệu quả.
6. Kết cấu đề tài
- Luận văn gồm 90 trang, ngoài lời mở đầu, kết luận,danh mục bảng
biểu, tài liệu tham khảo luận văn được trình bày gồm 3 chương

Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
4
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
Chương 1:Những vấn đề cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng cá nhân của
Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi Nhánh Thanh Bình
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi Nhánh Thanh
Bình.
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
5
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CÁ
NHÂN CỬA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về tín dụng cá nhân của Ngân hàng thương mại.
1.1.1 Khái niệm tín dụng cá nhân của Ngân hàng thương mại ( NHTM).
Trước khi tìm hiểu về tín dụng của ngân hàng thương mại, để có điều kiện tìm
hiểu rõ về tín dụng cá nhân của ngân hàng, cần phải hiểu ngân hàng thương
mại là gì?
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại hình tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các
ngân hàng. NHTM xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. Sự ra đời của
hệ thống NHTM có tác động rất lớn đến quá trình phát triển mạnh mẽ đến giai
đoạn cao nhất của nó - kinh tế thị trường thì hoạt động NHTM cùng ngày
càng được hoàn thiện và ngân hàng trở thành tổ chức không thể thiếu trong
nền kinh tế.

Đứng trên quan điểm của các nhà kinh tế:
Theo Peter S. Rose: Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam: Ngân hàng thương mại là tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền
kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
6
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Từ quan điểm trên cho thấy, hoạt động của các ngân hàng thương mại của
Việt Nam mới chỉ gồm các họat động truyền thống, tương ứng với các hoạt
động truyền thống, tương ứng với hoạt động của các ngân hàng trên thế giới ở
giai đoạn từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 và Việt Nam vẫn là một nước thiếu các
dịch vụ ngân hàng.
Đứng trên góc độ pháp luật:
Mỗi quốc gia có một đạo luật để thực hiện quản lý ngân hàng trong đó có nêu
ra khái niệm ngân hàng thương mại.
Theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi
cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh
doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng thương mại
Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (Số 20/2004/QH), thì Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và cả hoạt động kinh doanh
khác có liên quan: trong đó quy định rõ: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dụng thường xuyên là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”.

Như vậy, có thể hiểu: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận
tiền gửi của khách với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay,
làm phương tiện thanh toán hay thực hiện các dịch vụ theo uỷ thác của khách
hàng.
Hoạt động ngân hàng thương mại rất đa dạng và phong phú, trong đó tín dụng
là hoạt động chiếm tỷ trọng cao nhất. Hệ thống tín dụng năng động là điều
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
7
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế theo một hệ số tăng trưởng vững chắc.
Đặc biệt nguồn tín dụng đang đóng vai trò kênh dẫn vốn chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân. Vậy tín dụng là gì? Những lý giải sau đây sẽ làm rõ điều
này.
Tín dụng là khái niệm xuất phát từ chữ latinh là Credo hay Credium (tin
tưởng, tín nhiệm).
Tín dụng được định nghĩa là một phạm trù kinh tế phản ánh các quan hệ kinh
tế trong đó cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng một giá trị thể hiện
bằng tiền hay hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với những điều kiện
ràng buộc nhất định về thời hạn hoàn trả (cả gốc và lãi, lãi suất, cách thức
vay mượn và thu hồi).
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữ một bên là ngân hàng và một bên
là các cá nhân, tổ chức kinh tế khác, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay,
vừa là người cho vay. Ngân hàng cho vay tức là ngân hàng cấp tín dụng cho
các cá nhân, tổ chức kinh tế xã hội (đầu ra của ngân hàng). Trong nền kinh
tế, góp vốn, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vốn vay ngân hàng …Trong đó
vốn vay ngân hàng là nguồn vốn linh động và tiện lợi nhất, đặc biệt là đối với
nền kinh tế như nước ta hiện nay.
Tín dụng cá nhân là một hình thức tín dụng mà đối tượng vay vốn là cá nhân
nhằm mục đích tiêu dùng hay phục vụ sản xuất kinh doanh. Để đối tượng cá

nhân vay vốn: cá nhân đi vay là những ai? Họ là những người buôn bán nhỏ,
nông dân, công nhân, hộ thủ công nghiệp, thợ may, cơ khí, thanh niên, phụ
nữ, tài xế sinh viên, cơ sở sản xuất nhỏ,đại diện các hộ kinh doanh gia đình
(là những người có đủ năng lực pháp luật và hành vi dân sự ký hợp đồng bảo
đảm tiền vay và cam kết trả nợ cho Ngân hàng). Qua một số kết quả điều tra
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
8
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
cho thấy những người có thu nhập cao thường có xu hướng vay tiền nhiều
hơn những người có thu nhập thấp. Họ có nhu cầu vay tiền nhiều hơn so với
thu nhập hàng năm của mình, việc vay mượn được xem là công cụ để thoả
mãn mức sống như mong muốn hơn là một lực chọn chỉ được dùng trong tình
trạng khẩn cấp.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng cá nhân NHTM.
Ngay từ thời kỳ sơ khai dưới hình thúc là ngân hàng của các thợ vàng hoặc
ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi- thực hiện cho vay đối với các cá
nhân, chủ yếu là những người nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng. Lúc này
các ngân hàng đã nhận thấy được các lợi ích to lớn từ các khoản cho vay đối
với các nhân, điều này dự báo cho sự phát triển của dịch vụ này. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới là sự xuất hiện và tăng trưởng
nhanh chóng về số lượng cũng như quy mô của các doanh nghiệp, tín dụng cá
nhân mất dần vị trí quan trọng của nó.
Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân,
hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay cá nhân có quy mô rất nhỏ
với rủi ro vỡ nợ cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp.
Cùng với sự phát triển, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của
khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn , rồi sự cạnh tranh
khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải
hướng tới những cá nhân như một khách hàng trung thành và đầy tiềm năng.
Cho đến những năm 1920 và 1930 nhiều ngân hàng lớn đã thành lập phòng

tín dụng cá nhân lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ II, tín dụng cá nhân
đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh
nhất. Cho dù tốc độ tăng trưởng này gần đây đã chậm lại do do tình hình kinh
tế thế giới và trong nước có nhiều biến động, cạnh tranh về cho vay đối với cá
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
9
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
nhân ngày càng trở nên gay gắt. Tuy nhiên, trong chiến lược kinh doanh
khách hàng cá nhân vẫn là khách hàng mục tiêu của các ngân hàng thương
mại và vẫn tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
Trước đây, cá nhân vay tiền ít có tiếng nói, người ta chỉ cấp rất ít hoặc không
cấp tín dụng cho họ. Tín dụng cấp cho cá nhân được coi như là không lành
mạnh, hơn nữa đối với chủ một ngân hàng có danh tiếng thì chỉ quan tâm đến
tín dụng doanh nghiệp. Có thời kỳ việc cấp tín dụng cá nhân cho các doanh
nghiệp được coi là chức năng cao quý của các ngân hàng lớn. Sau đó các ngân
hàng khác với tư cách là người đi tiên phong đã tiến hành những hoạt động
mà các cá ngân hàng cổ điển khác xem thuờng: Hoạt động cho vay đối với
khách hàng cá nhân. Đó cũng chính là một trong những lý do quan trọng
đóng góp vào sự thành công của những ngân hàng mới.
Tầm quan trọng của dụng cá nhân ngày càng tăng lên đối với hoạt động kinh
doanh của các NHTM. Sự tăng lên này có phần bắt nguồn từ sự đình trệ nào
đó của tín dụng đối với các doanh nghiệp lớn, do sự cải tiến của việc tự cấp
vốn, việc thực hiện mạnh mẽ các nghiệp vụ tài chính, tốc độ lớn mạnh của các
thị trường và cũng do việc tăng trưởng yếu ớt của đầu tư bởi giá cả thực tế
của tín dụng đã buộc chỉ tiến hành các đầu tư có doanh lợi thực sự.
Đặc điểm của các khoản tín dụng cá nhân:
* Thường là các khoản vay vốn trung và dài hạn, đặc biệt là các khoản vay
mua bất động sản thời hạn vay có thể lên tới 15-20 năm: các dự án nuôi trồng

* Phân tích lưu chuyển tiền mặt đơn giản cho các khoản vay cá nhân, hộ gia

đình.
* Quy mô khoản vay: Ngoại trừ các khoản vay bất động sản, hầu hết các
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
10
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
khoản vay tiêu dùng đều có giá trị nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn.
* Số khách hàng trung bình của mỗi cán bộ tín dụng khá lớn: do các món vay
cá nhân có giá trị không lớn, số lượng khách hàng lớn để đạt chỉ tiêu dư nợ
của cán bộ tín dụng (khoảng 60-80 khách hàng).
* Nguồn trả nợ thường được lấy từ lương, các khoản thu nhập định kỳ hàng
tháng hoặc thu nhập từ hoạt động kinh doanh cá nhân khác. Khi sử dụng tiền
vay của ngân hàng sẽ tạo cho người vay một tâm lý tích luỹ, tăng động lực
làm việc của khách hàng.
* Chi phí quản lý khoản vay cá nhân lớn do ngân hàng thường phải tốn nhiều
thời gian và nhân lực để điều tra, thu thập các thông tin về chủ thẻ vay tiền
trước khi đưa ra các quyết định phê duyệt khoản vay, ngoài ra việc quản lý
các khoản tín dụng cá nhân với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn cũng là vấn đề
không đơn giản đối với các ngân hàng thương mại, do vậy chi phí tính trên
một đơn vị tiền tệ cho vay cá nhân thường cao hơn so với các loại hình cho
vay khác.
* Rủi ro: Các khoản tín dụng cá nhân tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất đối với ngân
hàng vì tình hình tài chính của cá nhân và hộ gia đình có thể thay đổi nhanh
chóng tuỳ theo tình trạng công việc hay sức khoẻ của họ. Việc thẩm định cho
vay đối với khoản tín dụng các nhân thường gặp vấn đề khó khăn do thông tin
không đầy đủ. Các thông tín của cá nhân thường không rõ ràng minh bạch
như các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, báo cáo tài chính của doanh
nghiệp đuợc kiểm toán còn các thông tin của khách hàng cá nhân lại được giữ
kín.
* Các khoản tín dụng cá nhân mang lại lợi nhuận khá cao cho ngân hàng, Do
chi phí và rủi ro đối với khoản cho vay cá nhân lớn nên các ngân hàng thường

Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
11
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
đặt mức lãi suất cao hơn so với khoản vay là doanh nghiệp. Việc đặt ra mức
lãi suất cho các khoản tín dụng cá nhân phải đáp ứng phần lợi nhuận mong
đợi dự kiến và cả phần bù rủi ro. Mức lãi suất này thường được đưa ra cao
đến mức chi phí và tỷ lệ tổn thất phải tăng lên đáng kể thì các khoản tín dụng
tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận và hiệu quả cho các ngân hàng.
1.1.3 Phân loại tín dụng cá nhân NHTM : Căn cứ theo phương thức cho
vay thì tín dụng được chia thành các loại sau:
Cho vay từng lần: Hình thức này áp dụng cho những khách hàng có nhu
cầu vay tiêu dùng không thường xuyên, thời hạn ngắn (tối đa 1 năm).
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng xác định và
thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất
định.
Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án
đầu tư phục vụ đời sống.
Cho vay trả góp: Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận
trước số tiền lãi vay phải trả cộng với số nợ gốc chia ra để trả theo các kỳ hạn
trong thời gian vay. Hình thức cho vay này thường áp dụng cho những khách
hàng có nguồn thu ổn định, thời hạn cho vay trung hoặc dài hạn (từ 1 năm trở
lên).
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:Ngân hàng cam kết đảm bảo
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định.
Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng
dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân
hàng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B

12
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ rút tiền mặt tại máy
rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng và
khách hàng phải tuân theo các quy định của pháp luật về phát hành và sử
dụng thẻ tín dụng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà Ngân hàng thỏa
thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài
khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của luật về hoạt
động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với
quy định và điều kiện hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và đặc điểm của
khách hàng vay.
1.2 Rủi ro tín dụng cá nhân của NHTM.
1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng cá nhân.
Từ “rủi ro” là từ không được mong đợi trong tất cả các lĩnh vực trong đời
sống xã hội, về ngữ nghĩa thì ai cũng hiểu đó là những bất trắc không mong
đợi và không lệ thuộc vào việc con người có mong muốn nó hay không. Đã
có rất nhiều các học giả nghiên cứu về rủi ro và đưa ra rất nhiều các khái niệm
về rủi ro, và co thể hiểu “Rủi ro là sự bất trắc không mong đợi gây ra mất mát,
thiệt hại và có thể đo lường được”. Đứng dưới góc độ doanh nghiệp thì rủi ro
luôn xuất hiện bất ngờ và đe dọa sự sống còn của doanh nghiệp, tuy nhiên
muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận nó, không được né tránh nó. Vì vậy, để
tồn tại và phát triển, để đứng vững trong cạnh tranh các doanh nghiệp không
còn con đường nào khác là phải đương đầu với rủi ro co thể xảy ra bằng cách
tiên liệu phán đoán các rủi ro, có thể xảy ra để tìm biện pháp phòng ngừa, hạn
chế nhằm giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra. Sau khi phân tích kỹ khả năng
có thể xảy ra các rủi ro, doanh nghiệp phải biết chấp nhận rủi ro. Như vậy
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
13

Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
chấp nhận rủi ro cũng có nghĩa là mạo hiểm nhưng không phải là sự mạo
hiểm, thiếu cân nhắc tính toán.
Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM. Rủi ro trong
kinh doanh tín dụng được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhiều nhất,
một số khái niệm về rủi ro tín dụng đã được đưa ra như sau:
Khái niệm 1: Theo cuốn Risk Managemnt in Banking của Joel Bessis thì rủi
ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả nợ hoặc sự
giảm sút chất lượng.
Khái niệm 2: Theo cuốn sách “ Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng” của Tiến sỹ Nguyễn Văn Tiến thì rủi ro tín dụng phát sinh
trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ gốc và lãi của các khoản
vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn.
Khái niệm 3: Theo cuốn sách” Quản trị Ngân hàng “ của Tiến sỹ Hồ Diệu thì
rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả
tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời gian đã ấn định trong hợp đồng tín
dụng. đây là thuộc tính vốn có của Ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi
trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không hoàn trả được toàn bộ khoản vay. Điều
này gây ra sự cố với dòng chu chuyển tiền tệ, gây ảnh hưởng tới khả năng
thanh khoản của ngân hàng.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN đưa ra khái niệm: Rủi ro trong hoạt
động ngân hàng của các tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong
hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Từ các khái niệm trên đây đưa ra một cách hiểu chung về rủi ro tín dụng đó là
những tổn thất do khách hàng không có khả năng thanh toán khoản vay theo
đúng các điều khoản trong hợp đồng tín dụng đã ký với ngân hàng.
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
14
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng

Rủi ro tín dụng trong hoạt động rất đa dạng nó có thể là rủi ro khi ngân hàng
bị ứ đọng vốn, rủi ro thiếu vốn khả dụng do sự chênh lệch về tỷ trọng giữa
vốn cho vay và vốn đi vay theo tiêu thức thời gian, rủi ro tín dụng khi các vật
bảo đảm tín dụng không còn giá trị như khi đánh giá ban đầu trước khi cho
vay hay rủi ro tín dụng khi ngân hàng không thu hồi được nợ. Tuy nhiên trong
phạm vi nghiên cứu này chỉ xem xét rủi ro tín dụng khi ngân hàng không thu
hồi được nợ hay còn gọi là nợ quá hạn, nợ khó đòi đối với những khoản tín
dụng cá nhân.
Rủi ro tín dụng cá nhân là một loại hình thuộc nhóm rủi ro tài chính. Vậy rủi
ro tín dụng cá nhân là gì? Mối quan hệ của rủi ro tín dụng này đối với các rủi
ro khác như thế nào? Những lý giải sau đây sẽ sáng tỏ điều đó.
Rủi ro tín dụng cá nhân được định nghĩa là các khoản lỗ tiềm tàng vốn có
được tạo ra khi cấp tín dụng cho một khách hàng cá nhân. Điều đó có nghĩa
là cá nhân vay vốn không trả nợ được theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản
tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc nói một cách cụ thể hơn, luồng thu nhập
dự tính mang lại từ các tài khoản có sinh lời của ngân hàng có thể không được
hoàn trả đầy đủ xét cả mặt số lượng và thời hạn. Các ngân hàng sẽ không bị
đe dọa bởi bởi rủi ro tín dụng nếu luôn luôn nhận được cả gốc và lãi của các
khoản vay đúng thời hạn, ngược lại nếu người vay gặp khó khăn tài chính, thì
cả gốc và lãi khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro không thu hồi được.
Như vậy, rủi ro tín dụng cá nhân của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác
nhau; nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho
vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ
cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không
khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền
kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các
nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng khi ra quyết định đối với từng
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
15
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng

khoản vay và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro cho vay.
1.2.2 Phân loại và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cá nhân.
1.2.2.1 Phân loại rủi ro tín dụng cá nhân
Từ khái niệm trên đây ta có thể phân rủi ro tín dụng cá nhân thành các loại
sau:
 Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn (Rủi ro đọng vốn): Đó là rủi ro tín
dụng khi người vay sai hẹn (default) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ
theo hợp đồng, bao gồm vốn gốc và/hoặc lãi vay. (Sự sai hẹn này là do
khách hàng không thanh toán (nonpayment).
Khi thiết lập mối quan hệ tín dụng, Ngân hàng và khách hàng phải quy ước về
khoảng thời gian hoàn trả nợ vay. Tuy nhiên đến thời hạn mà Ngân hàng vẫn
chưa thu hồi được vốn vay, những tổn thất xảy ra có nghĩa là rủi ro không
hoàn trả nợ đúng hạn. Khi đó có thể dẫn tới đông cứng các khoản vốn, làm
cho nó kém lỏng điều này ảnh hưởng tới kế hoạch sử dụng vốn của Ngân
hàng, cản trở và khó khăn cho việc chi trả người gửi tiền.
 Rủi ro do không có khả năng trả nợ (Rủi ro bị mất vốn một phần hoặc
toàn bộ). Là rủi ro xảy ra trong trường hợp doanh nghiệp đi vay mất khả
năng chi trả. Do vậy Ngân hàng chỉ còn trông chờ vào giá trị thanh lý tài sản
của doanh nghiệp để đỡ một phần nợ gốc. Tuy nhiên vấn đề này hết sức khó
khăn vì:
- Giá trị của tài sản thanh lý bị giảm giá rất nhiều so với thời điểm thẩm
định ban đầu.
- Bản thân tài sản thanh lý đó rất khó bán do tâm lý không ai muốn mua
chúng.
- Giá trị tài sản thanh lý thường bị chia sẻ với các chủ nợ ưu tiên trước
như: nộp thuế cho nhà nước, trả lương cho cán bộ, nhân viên. Vì vậy,
nhiều khi giá trị còn lại về Ngân hàng ít hơn hoặc có khi chi phí phát
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
16
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng

sinh trong quá trình thanh lý gần bằng thậm chí lớn hơn khoản tiền
nhận được.
Nói chung các món nợ thuộc loại rủi ro này rất phức tạp, khó thu hồi và là
gánh nặng thực sự đối với các Ngân hàng.
Khi phân loại rủi ro tín dụng cá nhân hợp lý sẽ giúp ngân hàng nâng cao khả
năng và hiệu quả áp dụng những phương pháp phù hợp trong việc quản lý rủi
ro. Cơ sở khoa học của việc phân loại rủi ro sẽ tạo điều kiện cho các nhà quản
trị ngân hàng có thể xác định rõ ràng vị trí của từng loại rủi ro, nguyên nhân
dẫn đến trong hệ thống rủi ro.
Rủi ro tín dụng cá nhân dẫn đến nợ quá hạn do nhiều nguyên nhân và tùy vào
từng tiêu thức phân loại, mục đích nghiên cứu hoặc đứng dưới những giác độ
khác nhau, người ta có thể phân loại theo nhóm nguyên nhân khác nhau.
Hình 1.1 Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến mức độ rủi ro.
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
17
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
1.2.2.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cá nhân.
* Các nguyên nhân chủ quan.
- Rủi ro do ngân hàng không có chính sách cho vay rõ ràng, phù hợp với thực
trạng nền kinh tế. Chính sách cho vay của một ngân hàng là kim chỉ nam cho
hoạt động tín dụng của ngân hàng đó. Chính sách cho vay thống nhất, đầy đủ
và đứng đắn sẽ giúp cán bộ tín dụng xác định đúng phương hướng khi thực
hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Ngược lại,
một chính sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất sẽ làm cho
hoạt động tín dụng lệch lạc, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng,
tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn, dẫn đến rủi ro tín dụng- nợ quá hạn.
- Rủi ro tính toán không chính xác hiệu quả đầu tư dự án xin vay, dẫn đến các
quyết định sai lầm trong cho vay. cán bộ tín dụng chưa được đào tạo đầy đủ,
không am hiểu về lĩnh vực kinh doanh mà mình đang cho vay hoặc đôi khi do
chính cán bộ tín dụng cố ý cho vay, mặc dù biết dự án cho vay không hiệu

quả, gây rủi ro cho ngân hàng.
- Rủi ro do ngân hàng đánh giá chưa đúng mức về các khoản vay, về người đi
vay hoặc do chủ quan tin tưởng vào khách hàng quen của mình mà coi nhẹ
khâu kiểm tra về tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai,
nguồn trả nợ, các tài sản đảm bảo tín dụng
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
Xã hội Lập pháp Cạnh tranh
Chính trị Kinh tế Địa lý
Nội bảng
Lãi suất Thanh khoản
Cơ cấu vốn Tiền gửi
Ngoại hối Tín dụng
Ngoại bảng
Hoạt động
Chiến lược
Công nghệ
Nhân lực
Sản phẩm
Rủi ro
Ngoại tố
Nội tố
18
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
- Rủi ro do thiếu thông tin tín dụng, hoặc thông tin tín dụng không chính xác,
kịp thời, dẫn đến ngân hàng không có danh sách” phân loại khách hàng” để có
sự phân tích, đánh giá khách quan, đúng đắn.
- Rủi ro do ngân hàng thiếu một cơ chế theo dõi, quản lý rủi ro, thiếu hạn mức
tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc các ngành nghề, lĩnh vực sản
phẩm, địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, chưa đủ các tiêu thức để đo
lường rủi ro, rủi ro tối đa cho phép chấp nhận đối với từng khách hàng, nhóm

khách hàng thuộc các ngành khác nhau.
* Các nguyên nhân khách quan.
Rủi ro do các nguyên nhân bất khả kháng thuộc về thiên nhiên như:
Thiên tai dịch họa, sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng …. Gây ra các
biến động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và
khách hàng của mình.Những nguyên nhân này có thể gây ra những ảnh hưởng
xấu đến hoạt động của khách hàng cá nhân. Lĩnh vực hoạt động của cá nhân
thường có phạm vi nhỏ, chỉ một thay đổi nhỏ cũng có thể gây ra những tác
động mạnh mẽ đến hoạt động đó. Do đó, dẫn đến khả năng không hoàn trả
được nợ của khách hàng, rủi ro tín dụng xảy ra.
Rủi ro do môi trường pháp lý: Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh sẽ
không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế.
Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh, dẫn
đến các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Cơ chế, chính sách, quy hoạch của
Nhà nước, của chính quyền các cấp thay đổi cũng có thể dẫn đến rủi ro khi
khách hàng sử dụng vốn vay của khách hàng.
Rủi ro do thiếu thông tin: Do thiếu hoặc không thể biết hết thông tin về khách
hàng, ngân hàng thường phải đối mặt với các rủi ro như:
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
19
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
(1)Rủi ro do sự thiếu chính xác trong cung cấp thông tin cho ngân
hàng của các cơ quan chức năng co liên quan, hoặc do thiếu các
quy định, chế tài cần thiết của Nhà nước trong việc cung cấp
thông tin như chế độ báo cáo tìa chính của khách hàng các quy
định về cung cấp và sử dụng thông tin:
(2)Rủi ro đạo đức : Cho dù ngân hàng đã cố gắng kiểm tra kỹ càng,
nhưng khách hàng vẫn cố tình vi phạm, che dấu thông tin hoặc
làm sai lệch thông tin về mình như cố tình lập báo cáo tài chính
thiếu trung thực, cố tình sử dụng vốn sai mục đích Trong lĩnh

vực tài chính sau khi cấp tín dụng, những người được cấp tín
dụng luôn luôn có xu hướng muốn thực hiện các đầu tư rủi ro
hơn những người cho vay mong đợi, vì chủ đầu tư sẽ có được
những khoản lợi nhuận rất lớn nếu dự án thành công, trong khi
những người cấp tín dụng chỉ nhận được một khoản lợi ích cố
định. Ngược lại, nếu dự án thất bại thì bên cho vay sẽ bị mất một
phần hoặc toàn bộ vốn do không được hoàn trả đầy đủ.
Rủi ro do nhân tố quốc tế: Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, tín dụng
trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với tín dụng quốc tế, tình hình kinh tế,
chính trị quốc tế, các chính sách tài chính của các quốc gia ảnh hưởng lớn đến
sức khỏe nền kinh tế đến các doanh nghiệp các thành phần kinh tế và dân cư.
Do đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình tín dụng cũng như tín dụng cá nhân của các
Ngân hàng.
1.2.3 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng cá nhân .
Đối với nền kinh tế:
Để thấy được ảnh hưởng của rủi ro tín dụng cá nhân đối với nền kinh tế như
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
20
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
thế nào ta xem xét vai trò của kinh doanh tín dụng ngân hàng trong nền kinh
tế như thế nào: Ngân hàng hoạt động như các trung gian tài chính giữa người
gửi và người vay, chúng khuyến khích tiết kiệm bằng các biện pháp thu hút
và huy động vốn thông qua các dạng tài khoản khác nhau trên một mạng lưới
chi nhánh rộng khắp, đồng thời đưa số vốn này vào sử dụng có hiệu quả mà
chủ yếu là hỗ trợ tài chính cho các cá nhân sẽ khuyến khích tăng thêm nhu
cầu về hàng hóa va điều này sẽ giúp cho việc tăng cường sản xuất. Ngân hàng
có thể tạo tiền qua việc cấp cho khách hàng những khoản vay để mua hàng
hóa, vì việc chi trả cho các hàng hóa này thực sự tạo ra một khoản tiền mới
khi tiền được chuyển vào tài khoản của người bán. Vì thế bằng việc cấp một
khoản vay ứng trước, một khoản tiền gửi ngân hàng đã được tạo ra, quá trình

này được gọi là tạo tiền qua tín dụng Mọi người dân đều chịu tác động của
ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là sử
dụng các dịch vụ ngân hàng. Như vậy, hoạt động tín dụng cá nhân có vai trò
to lớn trong nền kinh tế điều này cho thấy nếu kinh doanh tín dụng cá nhân
gặp rủi ro thì sẽ có ảnh hưởng rất xấu đối với nền kinh tế.
Đối với hoạt động của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng cá nhân làm suy giảm uy tín của ngân hàng: Một ngân hàng
có rủi ro tín dụng cá nhân lớn là một ngân hàng hoạt động tồi, tình hình đó bị
báo chí nếu làm cho dân chúng thiếu lòng tin và như vậy khó lòng có thể huy
động được nguồn vốn dồi dào. Các ngân hàng nước ngoài cũng vì thế mà xa
lánh, không cấp các hạn mức tín dụng, không mở quan hệ đại lý
Rủi ro tín dụng cá nhân làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm
sút: Các khoản tín dụng cá nhân có rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó
khăn, trong lúc đó các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm của dân cư vẫn phải thanh
toán đúng kỳ hạn. Trong lúc không huy động được nguồn vốn dồi đào do mất
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
21
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
uy tín, cũng vì thế người rút tiền lại càng tăng lên, kết quả ngân hàng gặp khó
khăn trong khâu thanh toán.
Rủi ro tín dụng cá nhân làm cho lợi nhuận suy giảm; Hoạt động tín dụng cá
nhân tạo ra trên 20% tài sản có của một ngân hàng thương mại, đó là một
trong những hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng thương mại.
Do vậy, nếu có rủi ro thì tài sản có của ngân hàng giảm sút và lợi nhuận của
ngân hàng giảm sút, ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông.
Rủi do tín dụng cá nhân làm cho tâm lý của cán bộ ngân hàng mất lòng tin
vào khả năng kiểm soát cho vay của họ, tâm lý chán nản làm việc không hiệu
quả kết quả hoạt động của ngân hàng giảm sút.
Rủi ro tín dụng cá nhân có thể dẫn đến phá sản: Nếu những tác động của rủi
ro tín dụng cá nhân trên các phương diện nêu trên không được khắc phục và

cứ phát triển đến một độ nào đó sẽ đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản.
1.3 Quản lý rủi ro tín dụng cá nhân tại NHTM.
1.3.1 Khái niệm
Qua các nội dung trên đây cho thấy rủi ro là có thể đo lường. Rủi ro tín dụng
là tất yếu trong kinh doanh tín dụng của các NHTM. Không có rủi ro thì
không có thuận lợi nhuận, chấp nhận rủi ro có sự tính toán trước là cần thiết
và bắt buộc đối với các nhà kinh doanh ngân hàng Tất cả những nội dung
này là cở sở để các nhà nghiên cứu và cho rằng rủi ro tín dụng có thể quản lý
được. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, trong quá trình nghiên
cứu của mình các học giả đã nghiên cứu về quản lý rủi ro tín dụng, và cho
rằng: Quản lý rủi ro tín dụng là toàn bộ quá trình thẩm định đánh giá trước khi
khoản vay được phê duyệt cùng với toàn bộ quá trình giám sát và báo cáo
việc tuân thủ những cam kết tín dụng.
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
22
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
Quản lý rủi ro tín dụng cá nhân là một bộ phận của quản lý rủi ro tín dụng
nằm trong khuôn khổ quản lý rủi ro chung của NHTM. Ban lãnh đạo của
NHTM có trách nhiệm xây dựng mục tiêu, chiến lược, nhiệm vụ kinh doanh
đối với đối tượng khách hàng cá nhân, trong đó xác định rõ những rủi ro và
lợi nhuận của ngân hàng, để thiết lập một hệ thống kiểm soát và quản lý rủi ro
tín dụng cá nhân hiệu quả, ban lãnh đạo ngân hàng phải tổ chức, giám sát các
hoạt động tín dụng theo đúng quy định, đánh giá mức độ rủi ro của hoạt động
tín dụng, đưa ra các biện pháp tổ chức để hạn chế rủi ro, đặt ra các hạn mức
để kiểm soát rủi ro. Quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả là điểm căn bản cho một
phương pháp quản lý rủi ro toàn diện và thành công của bất kỳ ngân hàng
nào.
Như vậy có thể hiểu: Quản lý rủi ro tín dụng cá nhân là một quá trình
khởi đầu từ khi ngân hàng gặp gỡ khách hàng cá nhân; thẩm định và phê
duyệt cho vay đến khi tất toán hợp đồng nhằm đảm bảo thu hồi đầy đủ

gốc và lãi theo đúng những cam kết trong hợp đồng tín dụng giữa khách
hàng cá nhân và khách hàng.
Qua khái niệm trên đây cho thấy hiểu về quản lý rủi ro tín dụng cá nhân một
cách chung nhất, đó là việc sử dụng đồng thời các công cụ, kỹ thuật và quy
trình cần thiết để thực hiện chiến lược kinh doanh tín dụng. Cụ thể hơn, Quản
lý rủi ro tín dụng cá nhân đó là quá trình xác định, đo lường rủi ro: Đưa ra các
biện pháp quản lý rủi ro: Thực hiện quá trình kiểm soát và báo cáo rủi ro:
Trên cơ sở báo cáo rủi ro lại xác định rủi ro và cứ thế tiếp diễn theo quy trình
vòng tròn khép kín.
1.3.2 Sự cần thiết quản lý rủi ro tín dụng cá nhân.
Những phân tích trên đây đã cho chúng ta thấy thế nào là rủi ro tín dụng cá
nhân và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế cũng như đối với một ngân
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
23
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
hàng, nhưng tại sao lại cần phải quản lý rủi ro tín dụng cá nhân, quản lý rủi ro
tín dụng cá nhân là hoạt động như thế nào sẽ được trình bày chi tiết ở phần
sau. Ở đây để thấy rõ sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng ta hiểu một cách
cơ bản nhất về quản lý rủi ro nói chung và quản lý rủi ro tín dụng cá nhân.
Thứ nhất là: Quản lý rủi ro nói chung được xác định là một loạt các chính
sách được ban hành nhằm theo dõi các giao dịch và các hoạt động có thể gây
ra những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng và đề ra các biện
pháp hữu hiệu để xác định, kiểm soát và giảm thiểu được những rủi ro này.
Như vậy, quản lý rủi ro và đặc biệt là quản lý rủi ro tín dụng giúp bảo vệ ngân
hàng, các cổ đông và người gửi tiền. Có một cách nói khác nữa về quản lý rủi
ro đó là: Quản lý rủi ro là quá trình chấp nhận rủi ro có sự tính toán trước.
Chấp nhận rủi ro là trung tâm của hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng cần
phải đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi nhuận
nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro
chấp nhận. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà Ngân hàng gánh

chịu là hợp lý và kiểm soát được nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực
tài chính và năng lực tín dụng của ngân hàng.
Thứ hai: hiện nay ở nước ta ngành kinh doanh Ngân hàng đang phát triển hết
sức nhanh chóng, sự phát triển này đồng nghĩa với việc các Ngân hàng ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong việc làm trung gian giữa người tiết kiệm
tiền và người đi vay tiền, các ngân hàng cạnh tranh với nhau thông qua việc
cung cấp các dịch vụ, tiện ích cho khách hàng. Để đáp ứng được các nhu cầu
của khách hàng thương mại phải chấp nhận rủi ro, tuy nhiên chấp nhận ở mức
độ nào lại là một câu hỏi, điều này cần phải có quản lý rủi ro tín dụng.
Thứ ba là: các khoản tín dụng đối với cá nhân thường không lớn, tùy thuộc
vào mỗi ngân hàng thì số lượng khách hàng cá nhân và quy mô đối với nó so
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
24
Luận văn Thạc sỹ Học viện Ngân Hàng
với các khách hàng khác cũng là phụ thuộc vào chính sách tín dụng và thị
trường mục tiêu của ngân hàng. Tuy nhiên, nó lại chịu tác động của nhiều
yếu tố khách quan nên các khả năng kiểm soát , rủi ro xẩy ra là cao. Vì vậy,
đặt ra vấn đề quản lý rủi ro tín dụng đối với cá nhân là cần thiết.
Hơn nữa, hoạt động của Ngân hàng dựa trên uy tín và niềm tin. Khách hàng
của ngân hàng rất đông, chỉ cần một khách hàng gặp rủi ro sẽ gây ra tác động
xấu tới hình ảnh Ngân hàng. Phản ứng dây chuyền trong hoạt động Ngân
hàng là rất lớn. Do đó, để xây dựng được hình ảnh tốt về ngân hàng, mỗi
Ngân hàng nên xây dựng chiến lược quản lý rủi ro đối với từng đối tượng
khách hàng, không phân biệt quy mô khách hàng lớn hay nhỏ, khách hàng cá
nhân hay khách hàng doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, xu hướng của các Ngân hàng hiện nay là chuyên môn hóa, là
giao dịch một cửa, tức là có người thì chuyên bán hàng, nhiệm vụ của họ là
bán được càng nhiều càng tốt, tức là cho vay càng nhiều càng tốt, như vậy họ
có thể bỏ qua những yếu tố, chi tiết cần thiết khi quyết định một khoản vay,
dẫn tới rủi ro.

Một tâm lý thường thấy là giữa cán bộ tín dụng và khách hàng thường có mối
quan hệ thân thiết do quá trình quan hệ lâu dài, mối quan hệ này là đương
nhiên vì có như vậy mới hiểu khách hàng và cho vay, chính sự thân thiết này
đôi khi họ bỏ qua những chi tiết cho là không cần thiết nhưng lại có thể gây ra
rủi ro tín dụng, ví dụ như thiếu một vài giấy tờ,… Do vậy, cần phải có bộ
phận kiểm soát những người bán hàng này, đây là một phần của quản lý rủi ro
tín dụng.
Các sản phẩm cho vay của các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay hầu
hết là cho vay ứng trước, loại sản phẩm này chịu ảnh hưởng rất lớn bởi môi
Phan Thị Thanh Thủy-CH11B
25

×