Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

hoàn thiện kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty than hòn gai - tkv

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.02 KB, 79 trang )

Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian làm chuyên đề tốt nghiệp, được sự giúp đỡ tận tình chỉ bảo
của các thầy cô giáo, cùng với sự nỗ lực của bản thân, sự giúp đỡ của ban lãnh đạo
công ty, cùng các anh chị phòng kế toán và cán bộ công nhân viên nơi em thực tập.
Em đã tổng hợp và củng cố được những kiến thức mà em đã được học trong nhà
trường qua các thầy cô, qua tài liệu cũng như qua đợt thực tập này. Chắc chắn đây
là những kiến thức quý báu, bổ ích giúp em trong công việc chuyên môn sau này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới trường Đại học Công Ngiệp Hà Nội, các
thầy cô khoa Kế toán – Kiểm toán của trường. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn
đến cô giáo Trương Thanh Hằng đã trực tiếp tận tình chỉ bảo em trong suốt quá
trình làm báo cáo thực tập tốt nghiệp. Em xin gửi lời cảm ơn tới ban lãnh đạo tại
Công ty Than Hòn Gai - TKV , toàn thể các anh chị phòng kế toán và cán bộ công
nhân viên các phòng ban trong doanh nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt
quá trình thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hạ Long, ngày 28 tháng 2 năm 2014.
Sinh viên
Vũ Thị Phương Anh.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
MỤC LỤC
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế nước ta được chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường. Từ đó dẫn đến hàng loạt các vấn đề nảy sinh trong mọi lĩnh
vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Một trong những vấn đề này là quản lý và sử dụng


lao động có hiệu quả.
Để khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng lao động của mình
nâng cao hiệu quả kinh doanh, các doanh nghiệp đặc biệt coi trọng việc cải tiến và
hoàn thiện công tác tiền lương. Trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp tiền lương được sử dụng như một công cụ quan trọng, đòn
bẩy kinh tế để kích thích và động viên người lao động hăng hái sản xuất tạo ra
nhiều sản phẩm cho xã hội cũng như tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tiền lương là khoản thu nhập chính của người lao động, đồng thời nó cũng là
khoản chi phí đối với người sử dụng lao động. Đứng trước tầm quan trọng của nó,
những nhà quản lý luôn quan tâm suy nghĩ và đưa ra những phương án hiệu quả để
tăng năng suất lao động và tối đa hoá lợi nhuận.
Tiền lương mà hợp lý chẳng những đảm bảo thu nhập để tái sản xuất sức lao
động, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động mà còn phát huy
được sức mạnh to lớn của đòn bẩy kinh tế. Mặt khác nó còn làm cho người lao động
từ lợi ích vật chất trực tiếp của mình mà quan tâm đến thành quả lao động, chăm lo
nâng cao trình độ lành nghề, không ngừng tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tiền lương có khả năng làm cho người lao động phát huy một cách tối đa sức
lao động và cả trí óc nếu như thành quả lao động của họ được bù đắp xứng đáng.
Do vậy, ý nghĩa của tiền lương càng đặc biệt quan trọng hơn. Một hệ thống tiền
lương chỉ phát huy hiệu quả kinh tế khi nó phù hợp với điều kiện thực tế của doanh
nghiệp theo nguyên tắc quy định của Nhà nước và khả năng cống hiến của mỗi
người góp phần quan trọng vào khả năng phát triển của doanh nghiệp. Vì thế không
ngừng hoàn thiện các hình thức tổ chức tiền lương trong giai đoạn hiện nay là hết
sức cần thiết. Việc hoàn thiện tổ chức tốt vấn đề tiền lương sẽ là động lực thúc đẩy
công nhân viên làm việc hăng say góp phần tăng năng suất lao động thu nhập người
lao động với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
1
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán

Nền kinh tế phát triển không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ giữa người lao
động và doanh nghiệp mà còn phát sinh giữa người lao động với các tổ chức xã hội
khác. Sự quan tâm của xã hội tới người lao động là rất cần thiết thông qua các tổ
chức liên quan đến lợi ích của người lao động ta gọi là các khoản trích theo lương.
Là một sinh viên, trong thời gian học tập và rèn luyện tại trường em đã tích
luỹ được vốn kiến thức nhất định, với mong muốn nâng cao trình độ nhận thức,
nghiên cứu một cách toàn diện về kế toán tiền lương vận dụng trong thực tế, đồng
thời góp phần kiến thức của mình để giải quyết những khó khăn trong công tác quản
lý tiền lương, bảo hiểm xã hội. Qua thời gian thực tập, em đã nhận thức được vai
trò, vị trí cần thiết của vấn đề trên. Được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Trương
Thanh Hằng cùng tập thể cán bộ tại Công ty Than Hòn Gai - TKV. Em đã mạnh
dạn tìm hiểu về đề tài : “Hoàn thiện kế toán tiền lương và các khoản trích theo
lương tại Công ty Than Hòn Gai - TKV”. Mục đích của chuyên đề này là vận
dụng lý thuyết về kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương vào nghiên cứu
thực tế công việc này tại Công ty Than Hòn Gai - TKV. Trên cơ sở đó phân tích
những mặt còn tồn tại, góp phần vào việc hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương
và các khoản trích theo lương.
Nội dung chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về công tác kế toán tiền lương và các
khoản trích theo lương.
Chương II: Thực trạng công tác kế toán tại Công ty Than Hòn Gai -
TKV và nội dung chuyên đề: “ Kế toán tiền lương và các khoản trích theo
lương tại Công ty Than Hòn Gai ” .
Chương III: Nhận xét đánh giá về công tác kế toán tại Công ty Than
Hòn Gai - TKV
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng, nhưng với kiến thức hiểu biết về kế toán tiền
lương và các khoản trích theo lương còn hạn chế cũng như thời gian có hạn nên
chuyên đề của em chắc chắn còn nhìu thiếu sót. Vì vậy, em mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn !

Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
2
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ
TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
1.1.Sự cần thiết phải quản lý kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
1.1.1.Vai trò và bản chất của tiền lương và các khoản trích theo lương
1.1.1.1.Vai trò của tiền lương và các khoản trích theo lương.
Tiền lương là một phạm trù kinh tế, mang tính lịch sử và có ý nghĩa chính trị,
xã hội to lớn đối với bất kỳ quốc gia nào. Không phải ngẫu nhiên mà vấn đề “tiền
lương” được rất nhiều người quan tậm, kể cả người tham gia lao động và người
không tham gia lao động trực tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường chức năng của doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh là sản xuất và kinh doanh hàng hoá phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của toàn
xã hội. Để thực hiện tốt chức năng này thì vấn đề đối tượng lao động và sức lao
động của con người là một trong các yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại của
quá trình này. Sẽ không còn tồn tại việc tái tạo của cải vật chất và tinh thần nếu như
thiếu yếu tố lao động của con người. Vì vậy, các doanh nghiệp không ngừng có
nhiệm vụ sản xuất sản phẩm mà còn tổ chức tốt vấn đề tiền lương cho người lao
động, khi đó doanh nghiệp mới thực hiện được chức năng của mình.
Tiền lương có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của bất kỳ
doanh nghiệp nào, nó đảm bảo duy trì năng lực làm việc của người lao động một
cách dài lâu và hiệu quả, là động lực thúc đẩy sự hăng say lao động, tăng năng suất
lao động, dẫn đến hoạt động sản xuất cũng sẽ phát triển theo.
Bên cạnh đó, tiền lương đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người lao động về
cả vật chất lẫn tinh thần, kích thích và mối quan tâm với những người lao động và
họ sẽ lao động càng hiệu quả hơn. Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, tiền lương
là yếu tố gián tiếp, quyết định sự tồn tại của quá trình tái sản xuất sản phẩm xã hội.
Vì ba yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại của quá trình sản xuất đó là : đối
tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao đọng của con người, sẽ không tồn tại

việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần nếu thiếu yếu tố lao động. Như vậy tiền
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
3
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
lương là nghiệp vụ rất quan trọng với hoạt động của mỗi doanh nghiệp sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường tiền lương là giá cả sức lao động, chính là thước đo
hao phí lao động của xã hội nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, là cơ sở để
đánh giá trình độ quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh những vấn đề hết sức quan trọng về tiền lương thì các nghiệp vụ
phát sinh giữa người lao động với các tổ chức xã hội cũng đóng vai trò rất cần thiết
đó là các khoản trích theo lương: Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT),
Kinh phí công đoàn (KPCĐ). Đó là việc phân phối phần giá trị mới do người lao
động tạo ra, thực chất đó là sự đóng góp của nhiều người để bù đắp cho một số
người khi gặp rủi ro, ốm đau, tai nạn, thai sản, bệnh nghề nghiệp
Các khoản trích theo lương đảm bảo quyền lợi cho người lao động thực hiện
công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, khôi phục những mặt mạnh yếu
của cơ chế thị trường.
1.1.1.2.Bản chất của tiền lương và các khoản trích theo lương.
a) Bản chất của tiền lương.
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp đồng thời cũng là quá trình tiêu hao các
yếu tố cơ bản: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong đó, sức
lao động với tư cách là lao động chân tay và trí óc của con người sử dụng các tư liệu
lao động nhằm tác động biến đổi các đối tượng thành các vật phẩm có ích phục vụ
cho nhu cầu sinh hoạt của con người.
Đối với mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, việc tìm kiếm lợi nhuận chủ
yếu thông qua gái trị thặng dư. Mà theo Mác : “Sức lao động có đặc điểm là khi tiêu
dùng sẽ tạo ra một giá trị mới lớn hơn. Vì thế có thể coi nguồn gốc duy nhất tao ra
giá trị thặng dư là sức lao động”. Để đảm bảo cho quá tình sản xuất diễn ra bình
thường và liên tục thì nhất thiết phải có yếu tố sức lao dộng, nếu thiếu nó thì quá
trình sản xuất không thể diễn ra .

Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhìu thành phần như hiện nay, sức lao
động mang tính chất là một loại hàng hoá đặc biệt. Người lao động có quyền tự do
làm chủ sức lao động của mình, có quyền đòi hỏi được trả công chính đáng với sức
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
4
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
lao động mình bỏ ra. Với ý nghĩa đó, tiền lương (tiền công) chính là phần thù lao lao
động được biểu hiện bằng tiền mà các doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ
vào thời gian, khối lượng và chất lượng công việc của họ. Về bản chất tiền lương là
biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, được thoả thuận hợp lý của người mua và
người bán sức lao động. Trong xã hội phát triển, tiền lương trở thành một bộ phận
của họ. Mặt khác, tiền lương còn là đòn bảy kinh tế. Để khuyến khích tinh thần hăng
hái lao động, kích thích và tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công
việc của họ. Nói cách khác, tiền lương là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động.
Cũng như các loại hàng hoá khác trên thị trường, tiền lương cũng tuân theo
quy luật cung cầu, quy luật giá cả trên thị tường theo quy định của Nhà nước. Trước
đây trong cơ ché kế hoạch hoá tập trung, tiền lương không gắn chặt với số lượng và
chất lượng lao động vì thế nó không tạo được động lực phát triển sản xuất. Chỉ từ
khi đổi mới cơ chế nền kinh tế, nó mới thực sự đóng vai tròn thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
Như vậy ta có thể tổng hợp khái niệm về tiền lương: “ Tiền lương là biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của yếu tố sức lao động mà người sử
dụng lao động phải cho người cung ứng sức lao động, tuân theo các nguyên tắc
cung cầu, giá cả thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước” . Tiền lương vừa
là một phạm trù về phân phói vừa là một phạm trù của trao đổi và tiêu dùng.
Trên thực tế, tiền lương chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó đáp ứng được nhu cầu
của người lao động. Xã hội càng phát triển, trình độ và kỹ năng làm việc của người
lao động ngày càng cao, tiền lương không chỉ đáp ứng được nhu cầu tinh thần của
người lao động. Người lao động không quan tâm đến khối lượng tiền nhận được mà
thực chất là họ quan tâm đến khối lượng hàng hoá dịch vụ mà họ có thể mua được

bằng tiền của mình. Do vậy, đã tồn tại hai khái niệm là tiền lương thực tế và tiền
lương danh nghĩa.
Tiền lương danh nghĩa được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào trình độ lao động và kinh
ngiệm của họ.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
5
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
Tiền lương thực tế là số lượng mà các loại hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cần
thiết mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của họ.
Mối liên hệ giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa:
ILTT = ILDN / IP
Trong đó :
- ILTT : chỉ số tiền lương thực tế
- ILDN : chỉ số tiền lương danh nghĩa
- IP : chỉ số giá cả
Vậy, tiền lương thực tế phụ thuộc nhiều vào tiền lương danh nghĩa và chỉ số
giá cả hàng hoá, dịch vụ. Nếu tiền lương danh nghĩa cao mà chỉ số giá cả cũng cao
thì tiền lương thực tế thấp. Chỉ khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn tốc độ
tăng thêm của chỉ số giá cả thì thu nhập thực tế của người lao động mới tăng. Tiền
lương thực tế là yếu tố quyết định khả năng tái sản xuất.
Theo điều 55 của Bộ Luận lao động ghi: “ Tiền ương của người lao động do
hai bên thoả thuạn trong hợp đồng lao động và trả theo năng suất lao động, chất
lượng lao động và hiệu quả công việc”.
b) Bản chất của các khoản trích theo lương.
Các khoản trích theo lương gồm có: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí
công đoàn.
+ Bảo hiểm xã hội :
Theo khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế ILOS, Bảo hiểm xã hội được
hiểu là sự bảo vệ của xã hội với các thành viên của mình thông qua một loạt các

biện pháp công cộng để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, bị giảm
thu nhập do ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.
Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả
ch người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố rủi ro. Chủ thể
của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp hình thành nên quỹ, do đó
có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
6
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
Nguồn hình thành quỹ BHXH:
Theo Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và điều lệ BHXH Việt Nam ban hành
theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 quy định quỹ BHXH được hình thành từ các
nguồn sau:
Người sử dụng lao động đóng băng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những
người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử
tuất và 5 % để chi trả chế độ ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Người lao động đóng băng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử
tuất.
Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH
đối với người lao động
Các nguồn khác được viện trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước
+ Bảo hiểm y tế:
Nhằm xã hội hoá việc khám chữa bệnh, người lao động còn được hưởng các
khoản khám chữa bệnh không mất tiền bao gồm các khoản viện phí, thuốc men
trong thời gian sinh đẻ Nếu họ có thẻ bảo hiểm y tế và các khoản khám chữa bệnh
đó nằm trong phạm vi bảo hiểm. Thẻ BHYT được trích mua từ quỹ BHYT.
Theo Nghị định 47-CP ngày 6/6/1994 quy định, tỷ lệ trích BHXH 3% tiền
lương trong đó 2 % tính vào chi phí sản xuất kinh doanh do chủ doanh nghiệp
( người sử dụng lao động) trả, 1% tính trừ vào thu nhập của người lao động. BHXH

mang tính chất bắt buộc với mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
+ Kinh phí công đoàn:
Kinh phí công đoàn là một tổ chức của người lao động, do người lao động lập
ra, hoạt động vì lợi ích của người lao động. Công đoàn đại diện cho toàn thể cán bộ
công nhân viên trong doanh nghiệp, vừa bảo vệ quyền lợi và trực tiếp hướng dẫn và
giáo dục thái độ lao động cho họ. Đây là một tổ chức cần thiết trong mọi doanh
nghiệp. Để có nguồn kinh phí cho hoạt dộng của tổ chức công đoàn, hàng tháng các
doanh nghiệp phải trích một tỷ lệ quy định trên tổng tiền công và phụ cấp thực tế
phải trả lao động để hình thành kinh phí công đoàn.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
7
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
Theo chế độ hiện hành, tỷ lệ trích kinh phí công đoàn là 2% được tính vào chi
phí sản xuất kinh doanh do chủ doanh nghiệp chịu. Trong 2% này thì 1% nộp cho
hoạt động công đoàn cấp trên, 1% còn lại dành cho hoạt động công đoàn cơ sở.
1.1.2. Yêu cầu của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.1.2.1. Yêu cầu quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương.
Xuất phát từ tầm quan trọng của tiền lương và các khoản trích theo lương đối
với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng cũng như toàn bọ nền kinh tế
nói chung, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt yêu cầu
quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương.
Theo dõi chặt chẽ số lượng lao động trong doanh nghiệp, thời gian làm việc,
trình độ của người lao động. Từ đó, lựa chọn hình thức trả lương phù hợp với mỗi
người, phải tổ chức phân công lao động sao cho họ có thể phát huy hết khả năng
của mình để phục vụ cho công ty.
Xây dựng kế hoạch tiền lương tổ chức thực hiện kế hoạch tiền lương sao cho
tiết kiệm, có hiệu quả, đúng chính sách của Nhà nước thực hiện các chế độ thống kê
về lao động tiền lương một cách chính xác, trung thực, kịp thời. Tổ chức thực hiện
nâng cấp, nâng lương cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp sao cho công
bằng, công khai, đúng chính sách.

Định kỳ làm tốt công tác thanh toán tiền lương và các khoản trích theo lương
của doanh nghiệp đối với người lao động. Mặt khác, theo dõi tình hình thực hiện
nghĩa vụ, quyền lợi của người lao động đối với tổ chức công đoàn.
1.1.2.2. Nhiệm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương không chỉ liên quan đến quyền
lợi của người lao động mà còn liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Để phục vụ sự quản lý tiền lương có hiệu quả, kế toán tiền lương và
các khoản trích theo lương ở doanh nghiệp cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Tổ chức ghi chép, phản ánh, tổng hợp một cách trung thực , kịp thời , đầy đủ
tình hình hiện có và sự biến động về số lượng, chất lượng lao động, tình hình sử
dụng thời gian lao động và kết quả lao động.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
8
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
+ Tính toán chính xác, kịp thời, đúng chính sách, chế độ các khoản tiền lương
tiền thưởng và các khoản trợ cấp phải trả cho người lao động. Phản ánh kịp thời,
đầy đủ, chính xác tình hình thanh toán các khoản tiền lương cho người lao động.
+ Thực hiện việc kiểm tra tình hình huy động và sử dụng lao động, tình hình
chấp hành các chính sách, chế độ về lao động tiền lương, BHYT, BHXH, KPCĐ.
+ Tính toán và phân bổ chính xác đúng đối tượng và các khoản tiền lương và
khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh. Hướng dẫn và
kiểm tra các bộ phận trong đơn vị thực hiện đầy đủ, đúng đắn chế độ ghi chép ban
đầu về lao động tiền lương BHYT, BHXH, KPCĐ, đề xuất các biện pháp nhằm khai
thác có hiệu quả, tiềm năng lao động tăng năng suất lao động.
+ Đấu tranh chống những hành vi vô trách nhiệm, vi phạm kỷ luật lao động, vi
phạm chính sách chế độ sử dụng chỉ tiêu KPCĐ, chế độ phân phối theo lao động.
+ Lập báo cáo về lao động tiền lương và các khoản trích theo lương, phân tích
tình hình sử dụng lao động, quỹ tiền lương, quỹ BHXH, quỹ BHYT. Đề xuất biện
pháp để khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động, tăng năng suất lao động, ngăn
ngừa những vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm chính sách chế độ an toàn lao động

tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.2.Các hình thức tiền lương và các khoản trích theo lương.
1.2.1. Các hình thức trả lương.
Do tiền lương được trả căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng công
việc nên việc tính lương và trả lương cho người lao động được thực hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, tuỳ vào điều kiện sản xuất kinh doanh, tính chất công việc và
trình độ quản lý của doanh nghiệp. Mục đích của chế độ tiền lương là luôn phải
quán triệt nguyên tắc phân phối lao động. Trên thực tế nước ta thường áp dụng các
hình thức trả lương sau:
1.2.1.1. Hình thức trả lương theo thời gian.
Theo hình thức này, tiền lương trả cho người lao động được tính theo thời gian
làm việc, cấp bậc và thang lương theo tiêu chuẩn. Nhà nước quy định tuỳ theo yêu
cầu và khả năng quản lý thời gian lao động của doanh nghiệp việc tính lương trả
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
9
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
theo thời gian lao động có thể tiến hành trả lương theo thời gian giản đơn và trả
lương theo thời gian có thưởng.
a.Trả lương theo thời gian giản đơn: chế độ trả lương này là chế độ trả lương
mà tiền lương nhận được của mỗi người lao động do mức lương cấp bậc cao hay
thấp và thời gian làm việc thực tế nhiều hay ít quyết định. Chế độ trả lương này chỉ
thực hiện khi dịnh mức lao động và đánh giá công việc thật chính xác.
Có 4 loại tiền lương theo thời gian giản đơn:
+ Lương giờ: là tiền lương được trả cho 1 giờ làm việc và được xác định bằng
số tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn theo quy định của luật lao động
(không qua 8 giờ/ngày).
+ Lương ngày: là tiền lương trả cho một tuần làm việc được xác định trên cơ
sở lấy lương tháng chia cho số ngày làm việc trong tháng.
+ Lương tuần: là tiền lương trả cho một tuần làm việc được xác định trên cơ
sở lấy lương tháng chia cho số ngày làm việc trong tháng.

+ Lương tuần: là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động
Nhược điểm của hình thức trả lương theo thời gian giản đơn là mang tính
chất bình quân, không khuyến khích sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm
nhiên liệu, tập trung công suất máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động.
b.Trả lương theo thời gian có thưởng: chế độ trả lương này là sự kết hợp
chế độ trả lương theo thời gian giản đơn và tiền thưởng khi đạt được chỉ tiêu về số
lượng và chất lượng công việc đã quy định. Chế độ trả lương này chủ yếu áp dụng
với công nhân phụ làm việc phục vụ như công nhân sửa chữa, điều chỉnh thiết bị.
Ngoài ra còn áp dụng đối với công nhân chính làm việc ở những khâu sản xuất có
trình độ cơ khí hoá, tự động hoá hay các công việc phải tuyệt đối đảm bảo chất
lượng. Chế độ trả lương này tính lương cho công nhân gồm: tiền lương theo thời
gian giản đơn cộng với thưởng. Nó không những phản ánh trình độ thành thạo và
thời gian làm việc thực tế mà còn gắn với thành tích công tác.
Do đó cùng với ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kĩ thuật chế độ trả lương này
ngày càng được áp dụng rộng rãi.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
10
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
1.2.1.2. Hình thức trả lương theo sản phẩm
Hiện nay có rất nhiều đơn vị kinh tế cơ sở thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm với nhiều chế độ linh hoạt. Hình
thức trả lương này có nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương theo thời gian
và có những tác dụng sau:
+ Quán triệt hơn nguyên tắc phân phối theo lao động (theo số lượng và chất
lượng sản phẩm) gắn liền với thu nhập về tiền lương và kết quả sản xuất của mỗi
người kích thích năng suất lao động.
+ Khuyến khích mỗi người lao động ra sức học hỏi nâng cao trình độ tay nghề,
cải tiến phương pháp lao động, sử dụng tốt máy móc thiết bị để nâng cao năng suất
lao động.
Hình thức trả lương này căn cứ vào kết quả, số lượng và chất lượng sản phẩm,

công việc lao vụ đã hoàn thành và đơn giá tiền lương cho một sản phẩm, lao vụ đó.
Tuỳ theo mối quan hệ giữa người lao động với kết quả lao động, tuỳ theo yêu
cầu về quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm tăng nhanh sản lượng và chất
lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có thể thực hiện theo các hình thức tiền lương sản
phẩm như sau:
+ Tiền lương theo sản phẩm trực tiếp, không hạn chế là: tiền lương thực lĩnh
bằng số lượng sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành nhân với đơn giá tiền
lương sản phẩm, không hạn chế số lượng sản phẩm hoàn thành, hình thức này áp
dụng cho công nhân trực tiếp sản xuất.
+ Tiền lương theo sản phẩm có thưởng: là hình thức trả lương theo sản phẩm
trực tiếp hoặc gián tiếp kết hợp với chế độ tiền thưởng trong sản xuất.
+ Tiền lương theo sản phẩm gián tiếp: theo hình thức này người ta căn cứ vào
kết quả lao động của công nhân trực tiếp sản xuất và người phụ việc phục vụ để tính
trả lương gián tiếp cho công nhân phụ việc.
+ Tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến: theo hình thức này ngoài lương tính theo
sản phẩm trực tiếp, còn theo mức độ vượt định mức sản xuất sản phẩm để tính thêm
một khoản tiền lương theo tỷ lệ luỹ tiến, áp dụng khi cần đẩy mạnh sản xuất hoặc
công việc.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
11
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
1.2.1.3. Hình thức trả lương khoán
Hình thức trả lương khoán là hình thức trả lương cho người lao động theo khối
lượng và chất lượng công việc mà họ hoàn thành. Hình thức trả lương này áp dụng
cho những công việc mà nếu giao cho từng chi tiết, từng bộ phận sẽ không có lợi
mà phải giao toàn bộ công việc cho cả nhóm hoàn thành trong thời gian nhất định,
có một số hình thức trả lương khoán như sau:
+ Trả lương khoán gọn theo sản phẩm cuối cùng: hình thức này thường áp
dụng cho những doanh nghiệp mà quá trình sản xuất phải qua nhiều giai đoạn
công nghệ.

+ Trả lương khoán quỹ lương: tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp mà hình thành quỹ lương để phân chia cho người lao động.
1.2.2. Các chế độ trả lương phụ, thưởng, trợ cấp
1.2.2.1. Chế độ phụ cấp
Người lao động trong doanh nghiệp ngoài chế độ tiền lương còn được hưởng
các loại chế độ phụ cấp theo quy định của thông tư Liên bộ số 20/LB-TTVN ngày
02/6/1993 của Liên bộ Lao động - Thương binh xã hội- Tài chính. Thông tư này
quy định có 7 loại phụ cấp sau:
+ Phụ cấp làm đêm: Nếu người lao động làm thêm giờ vào ban đêm (22 giờ
đến 6h sáng) thì ngoài số tiền trả cho số giờ làm thêm người lao động còn được
hưởng phụ cấp làm đêm.
Trong đó:
- 30%: đối với những công việc không thường xuyên làm về ban đêm.
- 40%: đối với những công việc thường xuyên làm việc theo ca (chế độ làm
việc 3 ca) hoặc chuyên làm việc ban đêm.
+ Phụ cấp lưu động: Nhằm bù đăpc cho những người làm một hoặc một số
nghề hoặc công việc phải thường xuyên đổi nơi ở và làm việc; điều kiện sinh hoạt
không ổn định, gặp nhiều khó khăn. Loại phụ cấp này chỉ áp dụng với nghề và công
việc có tính chất lưu động chưa được định rõ trong mức lương. Nghề hoặc công
việc lưu động nhiều, phạm vi rộng, địa hình phức tạp và khó khăn thì được hưởng
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
12
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
phụ cấp cao. Phụ cấp lưu động được trả theo số ngày thực tế lao động và được tính
trả cùng kỳ với trả lương và hạch toán vào giá thành hoặc chi phí lưu thông.
+ Phụ cấp trách nhiệm: Nhằm bù đắp cho những người vừa trực tiếp sản xuất
vừa làm công việc chuyên môn nghiệp vụ vừa kiêm nhiệm công tác quản lý không
thuộc chức vụ lãnh đạo bổ nhiệm hoặc những người làm công việc đòi hỏi trách
nhiệm cao chưa được xác định trong mức lương. Phụ cấp trách nhiệm được tính trả
cùng kỳ với lương hàng tháng. Đối với doanh nghiệp, loại phụ cấp này được tính

vào đơn giá tiền lương và hạch toán vào giá thành hoặc chi phí quản lý.
+ Phụ cấp thu hút: áp dụng đối với CNVC đến làm việc tại những vùng kinh tế
mới, cơ sở kinh tế ở các đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn do
chưa có cơ sở hạ tầng, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao
động.
Có các mức phụ cấp 20%, 30%, 50%, 70% tính trên lương cấp bậc, chức vụ,
lương chuyên môn nghiệp vụ. Thời gian hưởng phụ cấp từ 3 đến 5 năm tuỳ thuộc
vào điều kiện sinh hoạt khó khăn dài hay ngắn của từng vùng kinh tế mới, cơ sở
kinh tế và đảo xa đất liền.
+ Phụ cấp đắt đỏ: Áp dụng đối với những nơi có chỉ số giá sinh hoạt (lương
thực, thực phẩm dịch vụ) cao hơn do với chỉ số giá sinh hoạt bình quân chung của
cả nước từ 19% trở lên.
+ Phụ cấp độc hại: Áp dụng cho các doanh nghiệp làm việc trong môi trường
độc hại (hoặc nguy hiểm chưa xác định trong mức lương )
1.2.2.2. Chế độ thưởng
Ngoài chế độ tiền lương, các doanh nghiệp còn tiến hành xây dựng chế độ
tiền thưởng cho các cá nhân, tập thể có thành tích sản xuất kinh doanh.
Tiền thưởng thực chất là khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt đầy đủ
nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong cơ cấu thu nhập của người lao động thì
tiền lương có tính ổn định thường xuyên còn tiền thưởng chỉ là phần thu nhập thêm
và phụ thuộc vào các chỉ tiêu thưởng, phụ thuộc vào thành tích lao động.
Nguyên tắc thực hiện chế độ thưởng:
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
13
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
+ Đối tượng xét thưởng: lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp từ 1
năm trở lên và có đóng góp vào kết quả sxkd của doanh nghiệp.
+ Mức thưởng: mức thưởng 1 năm không thấp hơn 1 tháng lương theo nguyên
tắc sau:
- Căn cứ vào kết quả đóng góp của người lao động đối với doanh nghiệp thể

hiện qua năng suất, chất lượng công việc.
- Căn cứ vào thời gian làm việc tại doanh nghiệp, người có thời gian công tác
nhiều hơn thì được hưởng nhiều hơn.
- Chấp hành tốt nội quy, kỷ luật của doanh nghiệp.
.+ Các loại thưởng: Tiền thưởng bao gồm: Thưởng thi đua (lấy từ quỹ khen
thưởng) và thưởng trong sản xuất kinh doanh như nâng cao chất lượng sản phẩm,
tiết kiệm vật tư, phát minh sáng kiến… (lấy từ quỹ lương).
- Tiền thưởng thi đua (không thường xuyên): loại thưởng này không lấy từ quỹ
lương mà được trích từ quỹ khen thưởng. Khoản này được trả dưới hình thức bình
xét trong một kỳ.
- Tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh (thường xuyên): hình thức
thưởng này có tính chất lương. Đây thực chất là một phần của quỹ lương được tách
ra để cho cho người lao động dưới hình thức tiền thưởng cho một tiêu chí nhất định.
Trong đó, tiền thưởng về chất lượng sản phẩm được tính trên cơ sở tỷ lệ quy định
chung (không quá 40% chênh lệch giá giữa sản phẩm có phẩm cấp cao so với sản
phẩm có phẩm cấp thấp); Tiền thưởng về tiết kiệm vật tư được tính trên cơ sở giá trị
tiết kiệm được so sánh với định mức (tỷ lệ quy định không vượt quá 40%).
Quỹ tiền thưởng được trích lập từ lợi nhuận còn lại sau khi nộp thuế lợi tức,
thanh toán công nợ, tiền phạt… tối đa không quá 5% quỹ tiền lương thực hiện của
doanh nghiệp. Để tiền thưởng trở thành công cụ khuyến khích vật chất phải kết hợp
chặt chẽ với các hình thức và các chế độ thưởng cùng với việc xác định rõ quỹ tiền
thưởng của doanh nghiệp trước khi trả lương.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
14
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
1.3. Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương
1.3.1. Nguyên tắc hạch toán
Trong xã hội hiện nay tiền lương đang trở thành một khoản quan trọng thu
nhập của cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp. Tiền lương chính là khoản
đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên và gia đình họ, đồng

thời là phương tiện tích luỹ cho những dự định tương lai và đề phòng những rủi ro.
Về phía doanh nghiệp, tiền lương là một khoản chi phí không nhỏ nằm trong giá
thành sản xuất, muốn hạn giá thành sản phẩm, tối đa hoá lợi nhuận thì các doanh
nghiệp tìm mọi cách tiết kiệm khoản chi phí này. Để tiền lương mang lại lợi ích
cho cả hai bên: người lao động và doanh nghiệp, thì mỗi doanh nghiệp dựa vào
những phương pháp tính và trả lương thích hợp.
Nhưng dù tính và trả lương bằng cách nào thì các doanh nghiệp vẫn phải tuân
theo những yêu cầu và nguyên tắc cơ bản sau:
+ Nguyên tắc 1: Phân loại tiền lương một cách hợp lý
Tiền lương phải được chia làm hai loại tiền lương chính và tiền lương phụ.
Tiền lương chính là bộ phận tiền lương trả cho người lao động trong thời gian
làm việc thực tế bao gồm cả tiền lương phụ là bộ phận tiền lương trả cho người lao
động trong thời gian làm việc thực tế bao gồm cả tiền lương cấp bậc, tiền thưởng và
các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương. Ngược lại tiền lương phụ là bộ phận tiền
lương trả cho người lao động trong thời gian thực tế làm việc nhưng được chế độ
quy định như: nghỉ phép, hội họp, học tập, lễ tết, ngừng sản xuất… Cách phân loại
này không những giúp cho việc tính toán, phân bổ chiphí tiền lương được chính xác
mà còn cung cấp thông tin kịp thời cho việc phân tích chi phí tiền lương.
+ Nguyên tắc 2: Đảm bảo cho sự công bằng trong việc trả lương cho người
lao động giữa các ngành nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân nghĩa là người
làm công việc trong môi trường độc hại phải được trả lương cao hơn người làm
trong môi trường không độc hại, lao động trí óc phải được trả lương cao hơn lao
động chân tay, nguyên tắc này thể hiện sự công bằng trong xã hội nước ta.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
15
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
+ Nguyên tắc 3: Đảm bảo tỷ lệ tăng năng suất lớn hơn tỷ lệ tăng tiền lương.
Một số doanh nghiệp thường áp dụng biện pháp tăng tiền lương để
khuyếnkhích lao động, tăng năng suất. Biện pháp này sẽ mang lại hiệu quả nếu tỷ lệ
tăng năng suất cao hơn tỷ lệ tăng tiền lương và nó sẽ không mang lại hiệu quả khi tỷ

lệ tăng tiền lương cao hơn tỷ lệ tăng năng suất, nếu doanh nghiệp không làm năng
suất tăng cao hơn tiền lương bình quân thì sẽ thu không đủ bù chi, sản xuất kinh
doanh sẽ không mang lại lợi nhuận.
+ Nguyên tắc 4: Trả lương ngang nhau cho các lao động làm ra khối lượng
công việc bằng nhau trong điều kiện lao động như nhau. Theo nguyên tắc này thì tất
cả những người lao động khác nhau về tuổi tác, giới tính, trình độ nhưng có mức
hao phí lao động như nhau thì được trả lương bằng nhau. Điều này sẽ khuyến khích
người lao động làm việc hăng say.
1.3.2. Hạch toán tiền lương và thanh toán với công nhân viên
1.3.2.1. Hạch toán chi tiết
Tổ chức hạch toán chi tiết các nghiệp vụ về tiền lương trong doanh nghiệp là
sự quan sát, phản ánh, giám đốc trực tiếp về số lượng lao động, thời gian lao động
và kết quả lao động. Trên cơ sở đó sẽ tính toán và xác định số tiền lương phải trả
cho từng lao động trong doanh nghiệp.
a. Hạch toán số lượng lao động
Để quản lý số lượng lao động, các doanh nghiệp sử dụng sổ danh sách lao
động. Sổ này do phòng lao động tiền lương lập, căn cứ vào sổ lao động hiện có của
doanh nghiệp. Sổ danh sách lao động không chỉ được lập chung có toàn doanh
nghiệp mà còn được lập riêng cho từng bộ phận trong doanh nghiệp để nắm tình
hình phân bổ, sử dụng lao động hiện có của từng đơn vị.
Cơ sở để ghi danh sách lao động là những chứng cứ ban đầu về tuyển dụng,
thuyên chuyển công tác, nâng bậc, thôi việc… Các chứng cứ này do phòng tổ
chức lao động tiền lương lập mới khi có sự thay đổi về số lao động. Mỗi biến động
đều được ghi chép kịp thời vào sổ sách lao động để trên cơ sở đó làm căn cứ cho
việc tính lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động kịp thời.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
16
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
b. Hạch toán thời gian lao động
Hạch toán sử dụng thời gian lao động phải đảm bảo ghi chép, phản ánh kịp

thời, chính xác số ngày công, gìơ công làm việc thực tế hoặc ngừng sản xuất, nghỉ
việc của từng lao động, từng phòng ban trong doanh nghiệp. Hạch toán sử dụng thời
gian lao động có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý lao động, kiểm tra việc chấp
hành kỷ luật lao động, làm căn cứ tính lương, thưởng chính xác cho người lao động.
Chứng từ ban đầu quan trọng nhất để hạch toán thời gian lao động trong các doanh
nghiệp là "bảng chấm công" (mẫu 02-LĐtiền lương và các khoản trích theo lương,
chế độ chứng từ kế toán). Mọi thời gian thực tế làm việc, nghỉ việc, vắng mặt của
người lao động đều phải ghi chép hàng ngày vào bảng chấm công. Bảng chấm công
được lập cho từng bộ phận, tổ đội lao động sản xuất và dùng trong một tháng. Tổ
trưởng sản xuất hoặc trưởng các phòng ban là người trực tiếp ghi bảng chấm công
căn cứ vào số lao động có mặt, vắng mặt hàng ngày ở đơn vị mình. Cuối tháng,
bảng chấm công được dùng để tổng hợp thời gian lao động.
c. Hạch toán kết quả lao động
Đi đôi với việc hạch toán số lượng và thời gian lao động việc hạch toán kết
quả lao động là một nội dung quan trọng trong toàn bộ công tác quản lý và hạch
toán lao động ở các doanh nghiệp sản xuất.Hạch toán kết quả lao động phải đảm
bảo phản ánh chính xác số lượng và chất lượng sản phẩm hoặc khối lượng công
việc hoàn thành của từng người, từng bộ phận. Làm căn cứ tính lương, tính
thưởng và kiểm tra sự phù hợp của tiền lương phải trả với kết quả lao động thực tế,
tính toán xác định năng suất lao động, kiểm tra tình hình thực hiện định mức lao
động của từng người, từng bộ phận và cả doanh nghiệp.
Để hạch toán kết quả lao động trong các doanh nghiệp người ta sử dụng các
chứng từ ban đầu khác nhau, tuỳ thuộc vào loại hình và đặc điểm sản xuất của từng
doanh nghiệp. Các chứng từ ban đầu được sử dụng phổ biến để hạch toán kết quả
lao động và các báo cáo về sản xuất như: Phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc
hoàn thành (Mẫu 06-LĐ tiền lương và các khoản trích theo lương, chế độ
chứng từ kế toán). Bảng theo dõi công tác ở tổ, phiếu khoán, hợp đồng giao khoán,
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
17
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán

phiếu báo làm thêm giờ… Chứng từ hạch toán kết quả lao động được lập do tổ
trưởng ký, cán bộ kiểm tra kỹ thuật xác nhận. Các chứng từ này được chuyển cho
phòng lao động tiền lương xác nhận và chuyển về phòng kế toán để làm căn cứ tính
lương, tính thưởng. Hạch toán kết quả lao động là cơ sở để tính lương cho người lao
động hay bộ phận lao động hưởng lương theosản phẩm. Đồng thời kế toán tính trợ
cấp BHXH cho người lao động căn cứ vào: giấy nghỉ ốm, biên bản điều tra tai nạn
lao động, giấy chứng sinh…
d. Tính lương, thưởng cho người lao động
Công việc tính lương, thưởng cho người lao động và các khoản phải trả khác
cho người lao động được thực hiện tập trung tại phòng kế toán doanh nghiệp. Thời
gian để tính lương thưởng và các khoản phải trả khác cho người lao động theo
tháng. Tất cả chứng từ làm căn cứ để tính phải được kế toán kiểm tra trước khi tính
lương, thưởng và bảo đảm được yêu cầu của chứng từ kế toán.Sau khi đã kiểm tra
chứng từ kế toán tính lương, trợ cấp, phụ cấp… kế toán tiến hành tính theo các hình
thức chế độ đang áp dụng tại doanh nghiệp.
Để thanh toán tiền lương, thưởng và các phụ cấp trợ cấp cho người lao động,
hàng tháng kế toán doanh nghiệp phải lập "Bảng thanh toán tiền lương" cho từng tổ,
đội, phân xưởng sản xuất và các phòng ban căn cứ vào kết quả tính lương cho từng
người. Trong bảng thanh toán tiền lương có ghi rõ từng khoản tiền lương gồm
lương sản phẩm, lương thời gian, các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản khấu trừ và
số tiền người lao động được lĩnh. Các khoản thanh toán trợ cấp BHXH cũng được
lập tương tự. Sau khi kế toán trưởng kiểm tra, xác nhận, ký, giám đốc ký duyệt,
"Bảng thanh toán lương và BHXH" sẽ là căn cứ để thanh toán lương BHXH cho
từng người lao động.
Tại các doanh nghiệp, việc thanh toán lương và các khoản khác cho người lao
động thường được chia làm 2 kỳ: Kỳ I: tạm ứng, kỳ II: thanh toán nốt số còn lại sau
khi đã trừ các khoản khấu trừ. Các khoản thanh toán lương, thanh toán BHXH, bảng
kê danh sách những người chưa lĩnh lương cùng với các chứng từ báo cáo thu chi
tiền mặt phải được chuyển về phòng kế toán để kiểm tra ghi sổ.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp

18
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
1.3.2.2. Tổ chức hạch toán tổng hợp
a. Tài khoản sử dụng
Để hạch toán tiền lương kế toán sử dụng tài khoản 334: "Phải trả công nhân viên".
Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản thanh toán với công nhân viên của
doanh nghiệp về tiền lương, tiền công tiền thưởng và các khoản trích khác thuộc về
thu nhập của công nhân viên.
Kết cấu tài khoản này như sau:
- Bên Nợ :
+ Các khoản khấu trừ vào tiền lương, tiền công của công nhân viên.
+ Tiền lương, tiền thưởng, BHXH và các khoản khác đã trả, đã ứng cho công
nhân viên.
+ Tiền lương cho công nhân viên chưa lĩnh kết chuyển.
- Bên Có:
+ Tiền lương, tiền công và các khoản phải trả cho công nhân viên chức.
- Dư Nợ (nếu có): số trả thừa cho công nhân viên.
- Dư Có: Tiền lương, tiền công và các khoản còn phải trả công nhân viên.
* Tài khoản 335: "Chi phí phải trả".
Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản được ghi nhận là chi phí hoạt động
sản xuất kinh doanh trong kỳ nhưng thực tế chưa phát sinh mà sẽ phát sinh trong kỳ
này hoặc các kỳ sau.
Kết cấu tài khoản:
- Bên Nợ:
+ Các chi phí thực tế phát sinh thuộc nội dung chi phí phải trả.
+ Chi phí phải trả lớn hơn chi phí thực tế được hạch toán giảm chi phí kinh doanh.
- Bên Có:
+ Chi phí phải trả đã tính vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Dư Có:
+ Chi phí phải trả đã tính vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng

thực tế chưa phát sinh.
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
19
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
b. Phương pháp hạch toán
- Hàng tháng tính ra số tiền lương phải trả cho công nhân viên và phân bổ cho
các đối tượng, kế toán ghi:
Nợ 622: tiền lương trả cho công nhân viên trực tiếp sản xuất
Nợ 627 (6271): tiền lương phải trả cho lao động gián tiếp và nhân viên
quản lý phân xưởng.
Nợ 641: tiền lương phải trả cho nhân viên bán hàng.
Nợ 642 (6421) tiền lương phải trả cho bộ phận quản lý doanh nghiệp.
Nợ 241: tiền lương công nhân xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn tài sản cố
định.
Có 334: Tổng số tiền lương phải trả công nhân viên trong tháng.
- Tính ra số tiền thưởng phải trả công nhân viên.
Nợ 431 (4311): Thưởng thi đua lấy từ quỹ khen thưởng
Nợ 622, 6271, 6411, 6421: thưởng trong sản xuất
Có 3345: Tổng số tiền thưởng phải trả.
- Các khoản khấu trừ vào thu nhập của công nhân viên
Nợ 334: Tổng các khoản khấu trừ.
Có 333 (3338): Thuế thu nhập phải nộp
Có 141: Số tạm ứng trừ vào lương
Có 138: Các khoản bồi thường thiệt hại vật chất.
- Thanh toán lương, thưởng cho công nhân viên.
Nợ 334: Các khoản đã thanh toán
Có 111: Thanh toán bằng tiền mặt
Có 112: Thanh toán bằng chuyển khoản
Tại các doanh nghiệp sản xuất, để tránh sự biến động của giá thành sản phẩm,
doanh nghiệp có thể tiến hành trích trước tiền lương công nhân phải trả nghỉ phép

tính vào chi phí sản xuất sản phẩm, coi như một khoản chi phí phải trả.
- Hàng tháng, trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản
xuất ghi:
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
20
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
Nợ 622
Có 335
- Số tiền lương công nhân nghỉ phép thực tế phải trả:
Nợ 335
Có 334
Đối với các doanh nghiệp không tiến hành trích trước tiền lương nghỉ phép
của công nhân viên trực tiếp sản xuất thì khi tính lương nghỉ phép của công nhân
sản xuất trực tiếp thực tế phải trả kế toán ghi:
Nợ 622
Có 334
Phần đóng góp của công nhân cho quỹ BHXH, BHYT
Nợ 334
Có 338
Có thể khái quát sơ đồ hạch toán các khoản thanh toán với công nhân viên
chức và sơ đồ hạch toán trích trước tiền lương phép kế hoạch của công nhân sản
xuất ở những doanh nghiệp sản xuất thời vụ như sau:
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
21
Trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội Khoa Kế toán-Kiểm toán
TK 141 ,138, 333 TK 334 TK 622
Các khoản khấu trừ CNTT sản xuất
vào thu nhập CNV
TK 3383, 3384 TK 6271
Phần đóng góp cho quỹ Nhân viên PX

BHYT, BHXH
TK 641,642
TK 111 NV bán hàng

Thanh toán lương BHXH quản lý DN
& các khoản khác cho CNV TK 431
Tiền thưởng
TK 512, 3331
Phúc lợi
Thanh toán lương, thưởng TK 3381
BHXH và các khoản khác cho CNV BHXH phải trả
trực tiếp

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ hạch toán các khoản thanh toán với CNV
1.3.3. Hạch toán các khoản trích theo lương trong doanh nghiệp
13.3.1.Hạch toán chi tiết các khoản trích theo lương
Để hạch toán chi tiết các khoản trích theo lương , cũng như hạch toán chi tiết
tiền lương trong doanh nghiệp, là sự quan sát, phản ánh, giám đốc trực tiếp về số
lượng lao động, thời gian lao động, và kết quả lao động.Trên cơ sở tính lương phải
trả cho người lao động mà kế toán tiền lương tính các khoản trích theo lương:
BHXH, BHYT, CPCĐ.
Trên cơ sở số bảng phân bổ tiền lương của doanh nghiệp, kế toán tiền lương
tính ra số tiền BHXH, BHYT mà cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp phải
Vũ Thị Phương Anh. Lớp KT1-K13 Chuyên đề tốt nghiệp
22
Tiền
lương
tháng,
BHXH
và các

khoản
phải
trả cho
CNV

×