Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Lạm phát và hậu quả của lạm phát .DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.15 KB, 9 trang )

I.
II. Lời nói đầu
Chẳng riêng gì các siêu cờng kinh tế nhng với mọi quốc gia trên thế giới,
lạm phát là bóng ma ám ảnh làm kinh hoàng mọi ngời. Lạm phát là nguyên uỷ
của nghèo đói và những tệ nạn xã hội khác .
. Trong nền kinh tế thị trờng hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay
gắt để thu đợc lợi nhuận cao và đứng vững trên thơng trờng. Các nhà kinh tế
cũng nh các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề
của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những
vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm khác
trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát nh
một căn bệnh của nền kinh tế thị trờng, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi
hỏi sự đầu t lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt đợc kết quả
khả quan. Lạm phát ảnh hởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống
xã hội, đặc biệt là giới lao động. ở nớc ta hiện nay, chống lạm phát, giữ vững
nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã đợc nhiều ngời quan tâm,
nghiên cứu và đề xuất các phơng án khắc phục. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện
và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát.
Nét đặc trng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu
hết các hàng hoá đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm
nhanh.
Bài viết này với đề tài: "Lạm phát và hậu quả của lạm phát "
Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt
thấy đợc tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lợng kiến thức còn hạn chế,
em thiết nghĩ quan tâm nghiên cứu đến đề tài cũng là một phơng pháp tìm hiểu
nó một cách thấu đáo, sâu sắc hơn.

Phần nội dung.
I. Lạm phát


A. Định nghĩa và phân loại
Lạm phát là một trong các hiện tợng của tiền tệ, đợc biểu hiện ở sự mất giá
(giảm giá) của tiền tệ, mà sự mất giá của tiền tệ lại biểu hiện rõ rệt nhất ai
cũng thấy đợc là sự tăng giá bình quân của tất cả mọi thứ hàng hoá. Lạm phát
xảy ra khi giá cả mọi thứ hàng hoá, dịch vụ và chi phí đều tăng tuy với tốc độ
tỷ lệ không đồng đều, thứ tăng nhanh , thứ tăng chậm, thứ tăng nhiều thứ tăng
ít, nhng nói chung mọi thứ đều tăng.
Lạm phát là sự gia tăng liên tục và đáng kể trong mức giá(price level).
Mặc dù ngời ta thờng gọi bất cứ việc tăng đáng kể nào đó là lạm phát, nhng
ý nghĩa đó không hoàn toàn đúng trong ngành kinh tế học. Đối với ngành kinh
tế học. Chỉ gọi là lạm phát khi giá cả tăng liên tục(persistent) và đáng kể
(signficant). Có ngời đặt câu hỏi là giá tăng liên tuc bao lâu mới đợc gọi là
lạm phát? Và nh thế nào mới là đáng kể? Trừ khi giá cả tăng ở tỉ lệ chẳng hạm
1% một năm thì mới gọi là đáng kể còn không thì không đáng quan ngại. Còn
thời gian tăng liên tục, thật ra khoảng thời gian đó vẫn mang vẻ tuỳ tiện vì
chính các nhà kinh tế gia cũng cha hoàn toàn đồng ý với nhau về thời gian
này. Có ngời cho ràng phải ít nhất 3 năm, ngời khác lại vạch lằn ranh ở mức
độ một năm là đủ. Lý do ngời ta vạch lằn danh phân biệt giữa sự tăng giá từng
giai đoạn hay dai dẳng chỉ là phân biệt theo lý thuyết. Trong thực tế , có rất
nhiều dữ kiện có thể phát sinh sự tăng giá theo giai đoạn nhng lại không coi
nh là nguyên uỷ của sự tăng giá dai dẳng.
Trên thế giới từ xa đến nay chỉ có lạm phát tiền giấy, không hề có lạm
phát tiền vàng. Bởi vì , trong chế
độ lu thông tiền vàng nếu khối lơng tiền vàng vợt quá nhu cầu lu thông thì
phần thừa sẽ tự động rút khỏi lu thông để làm phơng tiện cất trữ. Tiền vàng
không mất giá trong trờng hợp này. Trong chế độ lu thông tiền giấy, thì mỗi
khi phát hành nó vào lu thông quá mức, nó không tự động rút ra khỏi lu thông
đợc.
Trớc năm 1971 loại tiền giấy đổi đợc lấy tiền vàng của những nớc giầu có
nh đô la Mỹ, bảng Anh, yên Nhật, Frăng Pháp,..., đợc coi nh tiền vàng, quan

hệ giữa các loại tiền này với nhau đều tinh theo tỷ giá cố định băng vàng. Từ
năm 1950 trở đi, các đồng tiền này đợc phát hanh quá mức, dự trữ vàng của
các chính phủ phát hành ra chúng không tơng xứng, các loại tiền mạnh kể trên
chung bị phá giá (hạ tiêu chuẩn giá cả) hàng loạt, cuối cùng đến năm 1971, đô
la Mỹ phải đình chỉ đổi ra vàng trên toàn thế giới trong mọi giao dịch. Những
đồng tiền náy trở thành đông tiền giấy nh mọi đồng tiền giấy khác.
Tóm lại lạm phát là hiện tợng phát hành thừa tiền giấy so với lợng tiền cần
thiết cho lu thông làm cho giá cả, mọi thứ hàng hoá tăng lên. Lạm phát
càng cao thì đồng tiền càng bị mất giá nhiều.
Lạm phát đợc phân loại bằng độ lớn của chúng. Ngời ta phân biệt có ba
mức khác nhau:lạm phát vừa phải ( lạm phát chậm), lạm phát phi mã (lạm
phát phát nhanh), siêu lạm phát.
Lạm phát chậm là lạm phát có mức độ vừa phải và từ từ, dới 10% một
năm. Loại lạm phát này có vẻ không quan trọng lắm nhng thực sự trong trờng
kỳ thì hao tổn không ít. Nếu mức lạm phát là 3%, mỗi năm Mỹ Kim sẽ mất đi
một nửa giá trị sau 24 năm. Nếu mứa lạm phát ở 4% chỉ trong 3 năm, sức thu
mua của một Mỹ Kim chỉ còn 85 xu
Một thái cựa khác của lạm phát là lạm phát phi mã. Là loại lạm phát khi
giá cả tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số nh 20%, 100%, 300% một năm. Loại
lạm phát này không có đờng danh giới rõ ràng nhng ngời ta có thể nhìn thấy
tốc đọ phi mã của lạm phát dễ dàng vì hàng tháng có thể vợt tới trên 50%.
Chẳng hạn tháng 07 năm 1922, chỉ số giá sỉ của Đức 100 Đức Mã, tháng12
năm 1923, chỉ số này tăng lên 1,261 tỉ tỉ. Ngời dân Đức mỗi lần đi chợ phải
mang theo một va li tiền. Ngời công nhân Đức mỗi ngày lãnh lơng hai lần
và khi về đến nhà thì tiền của ngời công nhân chỉ còn 2/3 giá trị. Tiền bạc vào
lúc ấy mất hẳn giá trị tiêu chuẩn mà chỉ còn là phơng tiện trao đổi. để dẽ dàng
nhận ra giá trị đồng bạc trong túi, ngời ta chỉ cần nhìn vào bảng đối chiếu
ngoại tệ mỗi ngày trên báo chí hoặc phơng tiện truyền thông khác là có thể
nhận ra sự tăng giảm giá trị này.
Và mức cuối cùng là mức siêu lạm phát. Siêu lạm phát là thời kỳ có mức

lạm phát rất lớn. Nếu trong lạm phát phi mã , nền kinh tế còn có vẻ sống sót
đợc (mặc dù không ổn định) thì trong siêu lạm phát , nền kinh tế xem nh đang
đi dần vào cõi chết. Thí dụ ở Bolivia mức lạm phát đã lên tới 11.000% năm
1985. Điển hình là siêu lạm phát ở Đức sau đại chiến thế giới thứ nhất. Mức
cung tiền danh nghĩa: tháng 1/1923 tăng lên 16 lần, đến tháng 12 năm 1923 ,
khối lợng tiền giấy đã tăng 7 tỷ lần. Năm 1913, nớc Đức chỉ có 29.00 triệu
Mác, đến cuối năm 1923, khối lợng tiền giấy lu hành ở Đức là:
490.000.000.000.000.000.000.000 Mác. Tháng 1/1922, gí một cốc nớc giải
khát là một Mác, tháng 10/1923, lên tới 192 triệu Mác. Khi mua sắm lặt vặt
ngời ta phải mang tiền trong những chiếc xe đẩy. Bọn kẻ cắp thờng lấy cắp xe
đẩy và vứt tiền lại không thèm nhặt. Trong thời kỳ siêu lạm phát tốc độ chu
chuyển tiền tăng nhanh ghê gớm. ở Đức cuối thời kỳ siêu lạm phát tốc độ chu
chuyển tăng 30 lần so với trớc.
b. lạm phát tại hoa kỳ
Cuối năm 1955, có ngời cho rằng Hoa Kỳ đứng ngoài mức lạm phát thời
bình. Lý do ngời ta ví von nh thế là vì tất cả những lần lạm phát nặng tại Hoa
Kỳ đều có liên quan đến chiến tranh. Nói cách khác, lạm phát nặng thờng chỉ
xảy ra ở Hoa Kỳ nếu không có thời tiền chiến thì hậu chiến. Hoa Kỳ chỉ bị
một lần duy nhất lạm phát nhanh là vào thời kỳ Cách Mạng. Đơn vị tiền tệ lúc
ấy đợc gọi là Tiền Lục Địa do Quốc Hội Lục Địa phát hành đã bị mất giá
trầm trọng đến nỗi một câu chua chát đã ra đời lúc đó Not worth a
contiental, vô giá trị! Trong thời gian nội chiến Nam-Bắc, giá sỉ tăng gấp đôi.
Một lần lạm phát trầm trọng khác là vào thời kỳ thế chiến I. Sau những lần
lạm phát này, giá cả thơng ở giai đoạn rớt giá, tức là giá cả tụt xuống nhanh
hơn cả lúc lên. Chẳng hạn năm 1890, giá sỉ ở mức 20 trong khi năm 1860, giá
sỉ ở mãi 30 và năm 1933, giá sỉ tơng đơng năm 1889 (gần 40 năm trớc đó!).
Sau Thế Chiến Thứ II, hoàn cảnh đã thay đổi!!! Giá cả không rớt xuống
sau chiến tranh. Từ năm 1965-1979, một lạm phát trầm trọng khác đã xảy ra.
Tổng sản lợng quốc gia giảm phát, mức giá tăng trung bình hàng năm 5.95.
Mức giá này không chỉ trong những năm chiến tranh Việt Nam nhng xuyên

suốt giai đoạn trên. Đây là điều không thể chấp nhận, vì thế chính sách tiền tệ
đợc thắt chặt nhờ thế mức lạm phát đợc đo lờng bằng Tổng Sản Lợng Quốc
Gia giảm phát đã rơi xuống 4.1% năm 1985. Tuy nhiên cái giá quá đắt phái
trả cho cuộc chiến chống lạm phát ấy là nạn thất nghiệp.
II. Hậu quả của lạm phát cũng nh những tác động
xấu của nó đối với nền kinh tế.
Do có ba mức lạm phát khác nhau, nên tác động của mỗi loại đối với nền
kinh tế cũng khác nhau. Loại lạm phát vừa phải (lạm phát một con số) không
có tác động lớn đến nền kinh tế. Lạm phát phi mã và siêu lạm phát có tác
động lớn đến nền kinh tế ở hai mặt sau đây:
1. Lạm phát và lãi suất thị trờng:
Tác động đầu tiên của lạm phát nên đời sống kinh tế là nó làm thay đổi lãi
suất. Vì lãi suất ngày nay tác động nhiều mặt đến thu nhập, tiêu dùng và đầu t
cho nên thông qua lãi suất, lạm phát tác động nhiều mặt đến thu nhập, tiêu dùng
và đầu t; lạm phát có tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế vĩ mô và
vi mô.
Để giữ cho tài sản nợ, tài sản có có hiệu quả không đổi, hệ thống ngân
hàng sẽ luôn cố gắng giữ cho lãi suất thực tế ổn định. Nhng, vì lãi suất thực tế
= lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát.

×