Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng công thương tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.36 KB, 92 trang )

MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp gắn chặt
với sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng thương mại ( NHTM ), Ở Việt
Nam 4 NHTM quốc doanh giữ một vị trí quan trọng nhất là trong hoạt động tín
dụng, cung cấp tới 80% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Đối tượng khách hàng
chủ yếu là các Doanh nghiệp Nhà nước ( DNNN ), Doanh nghiệp lớn, trong khi
đó, các năm gần đây, khối Doanh nghiệp này bắt đầu bộc lộ những yếu kém, như
kinh doanh thua lỗ, mất cân dối về tài chính, ảnh hưởng không nhỏ tới các
NHTM.
Trong khi đối lập với các DNNN, các DNN&V ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng lớn trên 90% tổng số doanh nghiệp
hiện có trong cả nước. Nhiều doanh nghiệp đã chứng tỏ được vị trí của mình trên
thị trường trong nước và quốc tế. DNN&V đã góp phần quan trọng giải quyết
việc làm cho hàng vạn lao động, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người
dân, thúc đẩy các lĩnh vực sản xuất, lưu thông phân phối, đáp ứng kịp thời mọi
mặt nhu cầu đời sống dân cư và xuất khẩu.
Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ( DNN& V ) là một nhiệm vụ quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội nước ta.
Tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Nam Định, dư nợ cho vay đối với các
Doanh nghiệp lớn còn chiếm tỷ trọng cao, chất lượng tín dụng đang giảm sút
đáng kể. Dư nợ cho vay đối với DNN&V chiếm tỷ trọng chưa cao, hiệu quả còn
thấp và Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định ( NHCT )cũng trong hoàn cảnh
chung đó. Ngay từ năm 2003 Ngân hàng Công thương Việt Nam đã có những
quyết định tín dụng quan trọng chỉ đạo các chi nhánh tập chung mở rộng và cho
vay đối với DNN&V. Song qua một số năm thực hiện, hiệu quả cho vay đối với
1
1
DNN&V chưa được cải thiện đáng kể. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả
chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các Doanh nghiệp


nhỏ và vừa tại Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định “ nhằm giải quyết
những vấn đề lý luận và thực tế hiện nay
2- Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu những lý luận cơ bản về DNN&V và hiệu quả cho vay đối
với DNN&V của các NHTM
- Phân tích, đánh giá thực trạng về đầu tư tín dụng đối với các DNN&V tại
NHCT tỉnh Nam Định trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả tín dụng đối
với các DNN&V tại NHCT tỉnh Nam Định.
3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thông qua tình hình thực tiễn tại NHCT tỉnh Nam Định trong thời gian từ
năm 2003 đến hết năm 2006, luận văn nghiên cứu hoạt động tín dụng của
NHTM đối với DNN&V
4- Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá được những vấn đề lý luận về hiệu quả tín dụng đối với các
DNN&V của NHTM
- Đánh giá được thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNN&V tại NHCT
tỉnh Nam Định.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các
DNN&V tại NHCT tỉnh Nam Định
5- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp thống kê, điều tra
chọn mẫu, so sánh, đánh gia thực trạng, khái quát hoá, tổng hợp vấn đề được
sử dụng để nghiên cứu.
2
2
6- Kết cấu của luận văn
Tên đề tài : Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các Doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu theo 3 chương

Chương 1: Doanh nghiệp nhỏ và vừa và tín dụng Ngân hàng đối với
Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp nhỏ
và vừa tại Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định.
Chương 3 : Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các Doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định.
Chương 1
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1- Khái quát về Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp và một số tiêu chí nhằm phân loại doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
3
3
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh, có tư cách pháp nhân, thực hiện
các hoạt động sản xuất, cung ứng trao đổi hàng hoá trên thị trường theo nguyên
tắc tối đa hoá lợi ích kinh tế của người chủ sở hữu về tài sản của doanh nghiệp,
thông qua đó tối đa hoá lợi ích của đối tượng tiêu dùng và kết hợp một cách hợp
lý với những mục tiêu xã hội.
Như vậy, Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp thường rất đa
dạng, phong phú. Để phân loại doanh nghiệp thường dựa vào các tiêu chí sau:
Một là: Dựa vào quan hệ sở hữu về vốn và tài sản, các doanh nghiệp được
chia thành DNNN, DN tư nhân, DN sở hữu hỗn hợp

DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý nó
với tư cách là chủ sở hữu.
DN tư nhân là những doanh nghiệp do cá nhân đầu tư vốn và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
DN sở hữu hỗn hợp là các doanh nghiệp có sự đan xen của các hình thức
sở hữu khác nhau trong cùng một doanh nghiệp. Các doanh nghiệp liên doanh,
doanh nghiệp cổ phần là hình thức đặc trưng của loại hình doanh nghiệp này
trong nền kinh tế thị trường.
Hai là: Dựa vào lĩnh vực( ngành nghề ) kinh doanh, các doanh nghiệp có
thể chia thành doanh nghiệp tài chính, doanh nghiệp phi tài chính.
4
4
Doanh nghiệp tài chính: Là các tổ chức tài chính trung gian như các
NHTM, Công ty tài chính, Công ty bảo hiểm Những doanh nghiệp này có khả
năng cung ứng cho nền kinh tế các loại dịch vụ về tài chính, tiền tệ, tín dụng, bảo
hiểm v.v.v Chức năng chủ yếu của loại hình doanh nghiệp này là làm môi giới
thu hút và chuyển giao vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu để đầu tư phát triển kinh tế.
Doanh nghiệp phi tài chính: Là doanh nghiệp lấy sản xuất kinh doanh sản
phẩm làm hoạt động chính, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong
các ngành nghề như DN xây dựng cơ bản, DN nông nghiệp, DN công nghiệp,
DN thương mại dịch vụ Chức năng chủ yếu của loại hình doanh nghiệp này là
sản xuất các sản phẩm hàng hoá , dịch vụ phi tài chính đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của nền kinh tế. Việc phân loại theo tiêu chí này giúp Nhà nước có thêm
căn cứ để hoạch định các chính sách quản lý phù hợp với mọi loại hình doanh
nghiệp trong từng lĩnh vực, trong từng ngành nghề.
Ba là: Dựa vào mục đích kinh doanh, chia thành doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh và doanh nghiệp hoạt động công ích.
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh: Là tổ chức kinh tế do Nhà nước
thành lập hoặc thừa nhận, hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường. Mục tiêu
số một của doanh nghiệp này là tối đa hoá lợi nhuận.

Doanh nghiệp hoạt động công ích ( thường là DNNN ): Là tổ chức kinh tế
thực hiện các hoạt động về sản xuất, lưu thông hay cung cấp các dịch vụ công
cộng, trực tiếp thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước hoặc thực hiện
nhiệm vụ an ninh quốc phòng. Những doanh nghiệp này hoạt động không vì mục
đích lợi nhuận mà vì mục đích hiệu quả kinh tế xã hội là chính. Ví dụ như Công
ty vệ sinh môi trường, Công ty cây xanh
Phân loại theo tiêu chí này, có cơ sở để lựa chọn tiêu thức đánh giá lợi ích
xã hội của doanh nghiệp cho hợp lý và là căn cứ quan trọng để xác định chính
sách tài trợ của nhà nước.
5
5
Bốn là: Dựa vào cấp quản lý có DN trung ương, DN địa phương. Đây là
những DN do Nhà nước thành lập và quản lý , những doanh nghiệp do trung
ương quản lý và những doanh nghiệp do địa phương quản lý.
Năm là: Dựa vào quy mô doanh nghiệp để phân chia thành doanh nghiệp
lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc quy định thế nào là doanh nghiệp lơn, doanh
nghiệp nhỏ và vừa tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi nước, tuỳ thuộc vào
từng giai đoạn cụ thể phát triển kinh tế của xã hội.
1.1.1.2. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước
Thường thì các tiêu chí về vốn, lao động, doanh thu, lợi nhuận hay được
các nước sử dụng để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.1.3. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Nghị định số 90/2001/NĐ ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa đã đưa ra tiêu chí cụ thể xác định DNN&V ở nước ta: vốn đăng
ký không quá 10 tỷ đồng, hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người.
Trước đó, nhằm xác định quy ước hành chính để xây dựng cơ chế chính
sách hỗ chợ DNN&V tại công văn số 681/CP-KTƯ ngày 20/06/1998 Thủ tướng
Chính phủ tạm thời quy định thống nhất tiêu chí xác định DNN&V là những DN
có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng, có số lao động chung bình hàng năm dưới 200

người. Trong công văn này, Chính phủ cũng qui định khi xác định DNN&V thì
không nhất thiết phải áp dụng cả hai tiêu chí này , mà cho phép các Bộ, Ngành
và địa phương có thể căn cứ vào tình hình cụ thể mà áp dụng cả hai hoặc một
trong hai tiêu chí để xây dựng các tiêu chí và xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ
chợ, khuyến khích phát triển các DNN&V.
Tuy nhiên, trước khi có công văn số 681/CP-KTN của Thủ tướng Chính
phủ thì tuỳ vào chương trình hỗ trợ phát triển DNN&V ở Việt Nam của các tổ
6
6
chức trong nước và quốc tế đã đưa ra nhiều loại tiêu chí xác định DNN&V tuỳ
thuộc theo mục tiêu của từng chương trình tài trợ . Cụ thể:
- Theo Thông tư Liên bộ số 21/LBTT ngày 17/06/1993 của Bộ Lao động
thương binh Xã hội và Bộ Tài chính thì DNN&V là các doanh nghiệp có số lao
động thường xuyên không quá 100 người, vốn pháp định dưới 1tỷ đồng và
doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ đồng.
- Ngân hàng Công thương Việt Nam xác định DNN&V là các doanh
nghiệp có số lao động thường xuyên dưới 500 người, vốn cố định dưới 10 tỷ
đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng, và doanh thu hàng năm dưới 20tỷ đồng
- Quỹ hỗ trợ DNN&V của chương trình Việt Nam – EU xác định đối
tượng được hỗ trợ là các doanh nghiệp có số người lao động thường xuyên từ 10
đến 500 người và vốn điều lệ từ 50.000 đến 300.000USD.
- Dự án VIE/US/95/004 hỗ trợ DNN&V ở Việt Nam do UNIDO tài trợ
xác định DNN&V là các doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người và vốn
đăng ký dưới 100.000USD.
- Qũy phát triển nông thôn do Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn thực hiện thì quan niệm doanh nghiệp Nhà nước có giá trị tài sản không quá
2 triệu USD và số lao động dưới 500 người là các DNN&V.
Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức tài chính cũng như các tổ chức phi
chính phủ đưa ra các tiêu chí khác nhau để xác định DNN&V như trên cũng là
vấn đề dễ hiểu và hoàn toàn phù hợp. Vì mỗi cơ quan, tổ chức có mục tiêu, đối

tượng hỗ trợ khác nhau. Hơn nữa, ngay các tiêu chí xác định DNN&V qui định
trong Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ cũng
chỉ mang tính quy ước để vận dụng cho việc xây dựng chính sách hỗ trợ
DNN&V.
Việc đưa ra tiêu chí xác định DNN&V như trên mới chỉ có tính ước lệ,
chưa đủ để định nghĩa thế nào là DNN&V do hệ thống pháp luật còn chưa hoàn
7
7
thiện, nhiều vấn đề chưa được qui định rõ ràng nhiều chủ thể có hoạt động sản
xuất kinh doanh nhưng không phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh nên vẫn
chưa được coi là doanh nghiệp kinh doanh (chẳng hạn các hộ sản xuất nông
nghiệp mặc dù có sản lượng lúa hàng hoá hoặc các nông sản khác tạo thu nhập
rất lớn nhưng không phải đăng ký kinh doanh).
Nghị định số 90/2001/NĐ/CP ngày 23/11/2001 đã đưa ra khái niệm mới
về DNN&V:"Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người".
Theo khái niệm mới này, khu vực DNN&V ở Việt Nam hiện nay bao
gồm:
+ Các doanh nghiệp Nhà nước có qui mô nhỏ và vừa kinh doanh độc lập
(không phải là các Công ty trực thuộc của các Tổng Công ty 90, Tổng công ty 91).
+ Các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư
nhân có quy mô nhỏ và vừa kinh doanh độc lập, đăng ký hoạt động theo Luật
Công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
+ Các hợp tác xã có quy mô nhỏ và vừa đăng ký hoạt động theo luật hợp tác
xã.
+ Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký hoạt động theo Nghị định số
02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ.
Như vậy, so với trước đây chỉ tiêu được nâng lên cho phù hợp với tình hình
thực tế nước ta hiện nay, qui mô của DN dân doanh đã lớn hơn trước: về vốn từ 5

tỷ đồng được nâng lên 10 tỷ đồng để khuyến khích DN đầu tư làm ăn lớn (nhưng
cũng chỉ tương đương 665.000 USD vào thời điểm giá hiện nay, còn rất thấp so
với chỉ tiêu của nhiều nước); còn số lao động từ 200 người được nâng lên 300
người là nhằm khuyến khích việc thu hút thêm nhiều lao động đang thiếu việc
làm.
8
8
1.1.2. Đặc trưng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.2.1. Đặc trưng chung của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thứ nhất: Tạo lập dễ dàng hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định
thấp. Để thành lập một DNN&V chỉ cần vốn đầu tư ban đầu tương đối ít, mặt
bằng sản xuất nhỏ hẹp, qui mô nhà xưởng không lớn. Điều đó giúp cho doanh
nghiệp giảm đựơc chi phí cố định, tận dụng lao động thay thế.
Thứ hai: Năng động nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị
trường. Với quy mô nhỏ và vừa, bộ máy quản lý gọn nhẹ nó dễ dàng tìm kiếm và
đáp ứng những yêu cầu có hạn trong trong những thị trường chuyên môn hoá.
Mặt khác, DNN&V thường có mối liên hệ trực tiếp hơn với thị trường và người
tiêu thụ nên sự phản ứng của nó với thị trường nhanh hơn, nhạy hơn, có thể
nhanh chóng cải tiến thay đổi và tạo ra sản phẩm mới, tạo ra được đa dạng sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Với cơ sở vật chất kỹ thuật
không lớn, doanh nghiệp này đổi mới linh hoạt hơn. Khi thị trường có những bất
lợi nó dễ dàng thay đổi tình thế có thể chuyển đổi sản xuất hay thu hẹp qui mô
mà không gây ra hậu quả nặng nề cho xã hội.
Thứ ba: Có thể duy trì tự do cạnh tranh DNN&V với thiết bị, công nghệ,
lao động nói chung không đòi hỏi quá cao, có thể sử dụng được nhiều loại lao
động có tay nghề trình độ khác nhau hoặc lao động phổ thông. Do vậy thường
không có tình trạng độc quyền, các DN dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do
cạnh tranh. Chính điều đó làm cho nền kinh tế sống động và thúc đẩy việc sử
dụng tối đa các tiềm năng của đất nước. Đây là một ưu thế rất quan trọng của
DNN&V.

Thứ tư: Có thể tận dụng phát huy được tiềm lực trong nước. Trong quá
trình CNH và HĐH đất nước, sự phát triển DNN&V là cách thức tốt nhất để sản
xuất thay thế hàng nhập khẩu vì các DNN&V sử dụng được nhiều nguyên vật
liệu tại chỗ, khai thác tối đa lợi thế tiềm năng từng vùng, từng địa phương. Là
9
9
môi trường rộng rãi có điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài cùng với doanh
nghiệp sở tại để hình thành nên các khu công nghiệp, thị trấn, thị tứ, khu công
nghiệp, làng nghề, trang trại nhưng với vốn liếng và trình độ tay nghề khéo léo
của mình, một số DNN&V có thể sản xuất một số mặt hàng thay thế hàng nhập
khẩu, phù hợp với sức mua của dân chúng.
Thứ năm: Dễ quản lý hơn so với DN lớn vì cơ cấu qui mô nhỏ, gọn nhẹ,
ít ảnh hưởng đến môi trường và môi sinh;
Thứ sáu: Những hạn chế của DNN&V
- Khả năng cạnh tranh thấp do tiềm lực tài chính nhỏ;
- Vị thế trên thị trường thấp;
- Ít có khả năng huy động vốn để đầu tư đổi mới công nghệ giá trị cao;
- Khả năng hạn hẹp trong việc đào tạo công nhân, đầu tư cho nghiên cứu,
thiết kế cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm;
- Trong nhiều trường hợp thường bị động vì phụ thuộc vào hướng phát
triển của các doanh nghiệp lớn và tồn tại như một bộ phận của DN lớn;
1.1.2.2. Đặc trưng của doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam hiện nay
So với đặc điểm của các DNN&V trên thế giới thì DNN&V của Việt Nam
có những đặc thù riêng. Nó vừa là kết quả của chính sách phát triển vừa là thực
tế của quá trình hoạt động.
Một là hình thức sở hữu: Do đường lối phát triển kinh tế nhiều thành
phần của Đảng và Nhà nước nên các DNN&V cũng đa hình thức sở hữu. Một số
DNN&V thuộc sở hữu Nhà nước, một số thuộc sở hữu tập thể, một số thuộc sở
hữu tư nhân, một số Công ty cổ phần và một vài doanh nghiệp có vốn liên doanh
với nước ngoài.

Hai là hình thức pháp lý: Có loại DNN&V đăng ký kinh doanh theo
Luật DN (đó là các DN Nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, doanh
nghiệp tư nhân), đăng ký theo luật HTX là các HTX và là các hộ gia đình đăng
10
10
ký kinh doanh theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày03/2/2000 của Chính phủ.
Trong điều kiện đặc thù của Việt Nam các hộ kinh doanh nhỏ này rất nhiều. Nếu
coi chúng là DNN&V thì sẽ rất khó khăn cho việc thực hiện chính sách ưu tiên
vì số lượng quá đông. Nhà nước sẽ không có đủ khả năng để thực hiện chính
sách ưu tiên, kiểm soát đánh giá hỗ trợ cùng một lúc. Cần phải, quy định rõ tiêu
thức DN nhỏ với giới hạn tối thiểu để phân biệt rõ giữa kinh tế hộ gia đình và
DNN&V.
Ba là lĩnh vực và khu vực hoạt động: Hầu hết các DNN & V hoạt động
trong ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm, thương mại, dịch vụ
đòi hỏi ỉt vốn, quay vòng vốn nhanh. Phần lớn các DNN & V hoạt động ở các
vùng đô thị và ven đô, tỷ lệ rất thấp hoạt động ở vùng nông thôn. Việc đầu tư của
DNN&V còn nặng vào kinh doanh buôn bán dịch vụ. Đây là một hạn chế trong
thực trạng phát triển kinh tế. Điều đó còn phản ánh sự bất cập của chính sách
Nhà nước, chưa hướng được các nhà đầu tư bỏ tiền vào những lĩnh vực không
chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân nhà đầu tư mà còn phải mang lại lợi ích chung
cho xã hội và toàn bộ nền kinh tế.
Bốn là thiết bị công nghệ và thị trường: trình độ công nghệ, trang thiết
bị, máy móc của DNN&V Việt Nam phần lớn sử dụng công nghệ lạc hậu, máy
móc cũ kỹ (có DN sản xuất công nghiệp vẫn phải sử dụng các thiết bị được sản
xuất từ những năm 1960). Đã hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh của các
DNN&V. Điều này có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là nguyên nhân khách
quan. Phần lớn các DNN&V được thành lập trong những năm gần đây, tuy mới
thành lập nhưng do thiếu vốn, thiếu kỹ năng quản lý cần thiết nên các nhà đầu tư
chưa thể mua sắm được trang thiết bị máy móc hiện đại để nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm sản xuất ra. Phần lớn máy móc thiết bị cũ, được mua lại từ

các DN Nhà nước bị giải thể, thanh lý để đáp ứng nhu cầu trước mắt mà chưa có
chiến lược đầu tư trung và dài hạn. Gần đây trong quá trình chuyển đổi đã có
11
11
nhiều DN đổi mới thiết bị công nghệ. Mặc dù vậy, công nghệ và thiết bị ở nhiều
doanh nghiệp liên doanh có vốn nước ngoài cũng sử dụng thiết bị không phải
hoàn toàn mới. Chính vì vậy mà sản phẩm làm ra chưa đủ sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế Hiện nay, có một số mặt hàng như may mặc, đồ uống, thuỷ hải
sản đã có chỗ đứng trên thị trường nhưng số lượng còn rất nhỏ.
Năm là lao động: Trình độ cán bộ quản lý chưa đáp ứng được so với như
cầu hiện nay, thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề; đội ngũ lao động và cán bộ
quản lý của DNN&V còn rất hạn chế về trình độ hiểu biết, về tay nghề, về kỹ
năng quản lý. Tình trạng đó là do phần lớn đội ngũ lao động được đào tạo tốt ở
Việt Nam lại đang làm việc ở các DN Nhà nước có qui mô lớn. Chỉ có một bộ
phận nhỏ tổng số lao động được đào tạo đó làm việc ngoài khu vực Nhà nước.
Hiện nay Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đang gấp rút cùng phối
hợp với các DNN&V đào tạo tay nghề cho công nhân và nâng cao trình độ cho
cán bộ quản lý. Nhưng một điều bất cập là hệ thống đào tạo hiện nay nặng về
đào tạo lý thuyết ( từ cao đằng trở lên ) trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp
về công nhân kỹ thuật, lao động lành nghề lại rất lớn. Hệ thống đào tạo cán bộ
quản lý có từ thời bao cấp chưa thay đổi kịp theo đòi hỏi của kinh tế thị trường
Chương trình bổ túc cho các nhà đầu tư, các nhà quản lý vừa thiếu, vừa không
phù hợp nên đã không đáp ứng nhu cầu cấp thiết của cán bộ quản lý doanh
nghiệp những người còn thiếu thời gian để học.
Sáu là tài chính: Quá trình phát triển DNN&V đang trong giai đoạn khởi
đầu, khả năng tích luỹ vốn còn hạn chế, nên việc các DNN&V thiếu vốn tự có là
khó khăn tất yếu. Do nguồn vốn hạn hẹp nên các DNN&V không có điều kiện
đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cấp công nghệ sản xuất để mở rộng nặng lực
sản xuất. Vì vậy, năng suất lao động nói chung còn thấp, chất lượng sản phẩm
chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Trên thực tế nhiều DN hiện đang sử

dụng trang thiết bị không đồng bộ và hỗn tạp do nhiều nước sản xuất.
12
12
Bảy là thiếu thông tin về thị trường: Các DNN&V rất thiếu thông tin về
thị trường, do đó họ tham gia vào các hoạt động thị trường không mang tính định
hướng chiến lược mà mang tính tự phát triển nhiều hơn. Các DNN&V phần lớn
chưa chủ động tự giác tham gia vào tổ chức, hiệp hội để từ đó nắm bắt thêm
nguồn thông tin cần thiết cho một chiến lược kinh doanh lâu dài.
Một số đại diện các DN thừa nhận họ rất ít thông tin về thị trường liên quan
đến DN của họ. Nếu có nguồn thông tin đó cũng khó đảm bảo độ chính xác kịp
thời. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định sản xuất kinh doanh của các
DN. Thị trường đầu ra khó khăn, phải cạnh tranh với hàng hoá nhập lậu của nước
ngoài.
Tám là các thủ tục hành chính còn rườm rà: Việc cho thuê đất, mặt
bằng sản xuất, nhiều các cơ quan chỉ đạo, kiểm tra, giám sát. Đối với các
DNN&V kinh doanh hàng xuất khẩu, những vấn đề cấp giấy phép xuất khẩu,
hạn ngạch xuất khẩu, các thủ tục xuất khẩu rườm rà tạo thành một trở ngại.
Chín là các khuyết điểm của DNN&V: Trong nền kinh tế còn kém phát
triển ở Việt Nam và đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi sang kinh tế thị
trường, cùng với các cơ sở kinh tế khác, các DNN&V bộc lộ những khuyết điểm
của nó trong hoạt động sản xuất kinh doanh như: trốn lậu thuế, làm hàng giả kém
chất lượng; trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp hạn chế.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển DNN&V
1.1.3.1. Trình độ phát triển kinh t ế - xã hội
Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì giới hạn tiêu chí phân loại càng
được nâng lên. Các nước có trình độ phát triển thấp thì tiêu chuẩn, giới hạn về
vốn sẽ thấp hơn. Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì sự phát triển của DN lớn
càng nhiều, tính cạnh tranh càng gay gắt nhưng có thuận lợi là mối quan hệ giữa
các loại hình DN càng chặt chẽ, sự hỗ trợ giữa DN lớn đối với DNN&V càng
nhiều. Mối quan hệ tác động qua lại sẽ giúp cho cả DN lớn và DNN&V phát

13
13
triển trong mối quan hệ thống nhất, ràng buộc với nhau, khắc phục những hạn
chế, phát huy tính tích cực của từng loại hình qui mô.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội càng cao sẽ tạo điều kiện cho sự phát
triển của các DNN&V ổn định hơn, có phương pháp rõ ràng hơn, vững bền hơn.
1.1.3.2. Chính sách và cơ chế quản lý
So với các DN lớn, các DNN&V có những bất lợi trong kinh doanh trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Các DNN&V thường xuyên bị đe
doạ của các lực lượng cạnh tranh hùng hậu, to lớn trên thị trường. Nếu không có
sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ khó có khả năng tồn tại và phát triển vì khả năng
nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ thấp, khả năng điều tra
nghiên cứu thị trường thấp và thường phải phụ thuộc rất lớn vào hoạt động,
chiến lược của các DN lớn. Nếu có một cơ chế chính sách đúng đắn sẽ tạo môi
trường pháp lý và những điều kiện một cách tự do, không bị chèn ép thiếu công
bằng của lực lượng lớn. Ngoài ra chính sách và cơ chế còn tạo ra sự kết hợp chặt
giữa các DN lớn, vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế của mỗi nước. Những chính
sách ưu tiên, những cơ chế hợp lý, kể cả qui định giới hạn xác định từng loại
hình doanh nghiệp sẽ là cơ sở để đánh giá. Những ưu tiên về vốn tín dụng, về
chế độ thuế, về sử dụng công nghệ hoặc những chính sách về đất đai, lãi suất,
đào tạo là những điều kiện cần thiết để hỗ trợ cho các DNN&V phát triển.
Một chính sách và cơ chế đúng đắn, hợp lý sẽ tạo môi trường thuận lợi cho sự
phát triển của DNN&V. Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động của các DNN&V.
1.1.3.3. Đội ngũ các nhà sáng lập và quản lý doanh nghiệp
Do phải thường xuyên thay đổi để thích nghi với môi trường kinh doanh, nên
việc giải thể, sát nhập, xuất hiện DNN&V mới là thường xuyên diễn ra trong mỗi giai
đoạn. Đó là một sức ép lớn, buộc các chủ DN phải là người có tính linh hoạt cao trong
quản lý điều hành, dám nghĩ, dám làm , chấp nhận mạo hiểm. Chính vì vậy, số lượng
14

14
và chất lượng của các chủ doanh nghiệp, người dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh từ nguồn vốn hạn hẹp, nhỏ bé có ảnh hưởng lớn
đến phương hướng, tốc độ phát triển của các DNN&V.
Đội ngũ chủ doanh nghiệp với khả năng, trình độ nhận thức về thị trường,
khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ có tác động to lớn đến hoạt động của
DNN&V. Những người sáng lập và quản lý doanh nghiệp luôn là người đi đầu
trong đổi mới, dám tìm kiếm những phương thức mới, đặt ra những nhiệm vụ
chuyển đổi cho thích ứng với môi trường kinh doanh.Sự phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào sự tham gia của đội ngũ này. Việc xây dựng
đội ngũ các nhà sáng lập và quản lý doanh nghiệp là nhiệm vụ quan trọng đối với
mỗi quốc gia.
1.1.3.4. Sự phát triển kinh tế và khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ
Sự phát triển của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
đã mở ra khả năng rộng lớn hơn cho sự phát triển của các DNN&V. Một mặt nó
tạo điều kiện và khả năng cho các DN có thể trang bị những kỹ thuật hiện đại
hơn, năng động linh hoạt hơn trong việc lựa chọn đưa vào ứng dụng và khai thác
công nghệ mới. Qui mô nhỏ nhưng khả năng sản xuất cao hơn, nhanh hơn, rẻ
hơn nhờ công nghệ mới ứng dụng được trong DNN&V. Mặt khác, nó còn tạo
khả năng liên kết chặt chẽ với nhau hơn, đặc biệt là khả năng điều hành từ xa, từ
một trung tâm tới các DNN&V.
Sự phát triển của công nghệ nói chung, công nghệ thông tin nói riêng đã
ảnh hưởng lớn đến xu hướng phát triển của các DNN&V, đến sự thay đổi về tổ
chức sản xuất và phương pháp điều hành trong các doanh nghiệp lớn . Ngoài ra,
trình độ và khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại của DNN&V có ảnh hưởng
nhiều đến năng suất, chất lượng hiệu quả của nó.
1.1.3.5. Tình hình thị trường
15
15

Cạnh tranh trên thị trường sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của các
DNN&V. Một thị trường mà có cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp thì
DNN&V sẽ ở vào thế bất lợi, sẽ càng khó khăn hơn nếu các DN lớn liên kết với
nhau trong môi trường pháp luật không hoàn hảo có thể làm cho DNN&V không
thể tồn tại. Như vậy, cạnh tranh trên thị trường là yếu tố quan trọng ảnh hưởng
tới hoạt độn của các DNN&V.
Tính chất qui mô, nhu cầu sẽ là yếu tố thứ hai trong thị trường ảnh
hưởng trực tiếp tới hoạt động của DNN&V. Thị trường với nhu cầu đa dạng,
thay đổi nhanh, khối lượng nhu cầu lớn sẽ làm cho DNN&V hoạt động thuận
lợi. Ngược lại, thị trường dung lượng lớn, chủng loại ít, tương đối ổn định sẽ
là cơ sở cho DN lớn tăng cường tính cạnh tranh làm khó khăn cho hoạt động
của DNN&V. Với đặc điểm phát triển của nhu cầu hiện nay, ngày càng đa
dạng phong phú, nhiều chủng loại, khối lượng không nhiều nhưng thay đổi
nhanh là một thuận lợi cho các DNN&V hoạt động có hiệu quả.
1.1.4. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế
Doanh nghiệp nhỏ và vừa có vị trí vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế
của mỗi nước, kể cả nước có trình độ phát triển cao. Vị trí vai trò của DNN&V
đã được khẳng định thể hiện qua các điểm chủ yếu sau:
1.1.4.1. Về số lượng DNN&V chiếm ưu thế tuyệt đối
Ví dụ: 90% các doanh nghiệp Đức là DNN&V ; Trong những năm gần
đây DNN&V ở Nhật Bản chiếm 99,7% doanh nghiệp; Singapore có khoảng
90.000 DNN&V chiếm khoảng 92% tổng số DN
1.1.4.2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động sản xuất kinh doanh trong
nhiều ngành nghề lĩnh vực
Trong nhiều ngành nghề lĩnh vực, tồn tại như một bộ phận không thể thiếu
được của nền kinh tế mỗi nước. Nó là bộ phận hữu cơ gắn bó chặt chẽ với các
DN lớn, có tác dụng hỗ trợ, bổ sung, thúc đẩy các DN lớn phát triển.
16
16
1.1.4.3. Sự phát triển của DNN&V góp phần quan trọng trong việc giải

quyết những mục tiêu kinh tế - xã hội
Việc phát triển DNN&V đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh
tế. Đặc biệt đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp.
Ở Việt Nam, nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu là sản xuất nhỏ nên
DNN&V chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thu hút vốn, làm cho nền
kinh tế năng động, hiệu quả hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Theo thống kê, ở nước ta các DNN&V chiếm tỷ lệ hơn 80% trong tổng số
DN của toàn quốc và DNN&V đã có những đóng góp quan trọng sau:
Thứ nhất, đóng góp vào kết quả của hoạt động kinh tế
Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì
năm 1999 DNN&V tạo ra 35% giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp,
54% giá trị công nghiệp địa phương; chiếm 78% tổng mức bán lẻ; 64% tổng
lượng vận chuyển hàng hoá. Trong nhiều ngành nghề như gỗ xẻ, sản xuất thủ
công mỹ nghệ, chiếu cói, mây tre đan, giâỳ dép DNN&V sản xuất 100% sản
phẩm. DNN&V đóng góp vào giá trị gia tăng, góp phần đáng kể vào việc tăng
trưởng kinh tế. Kết quả điều tra cho thấy có tới 51,7% ý kiến cho rằng DNN&V
góp phần tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, tạo việc làm cho người lao động
Việc làm là vấn đề cấp bách hiện nay ở Việt Nam. Với tốc độ tăng dân số
trên 2%, hàng năm cả nước có thêm 1 triệu người đến tuổi lao động có nhu cầu
về việc làm. Đó là chưa kể số người thất nghiệp và bán thất nghiệp, do cơ cấu lại
nền kinh tế, sắp xếp lại các DNNN, số quân nhân giải ngũ.Thực tế vừa qua cho
thấy, riêng khu vực quốc doanh, năm cao nhất cũng chỉ thu hút được khoảng 1,6
triệu lao động (nếu tính cả nhân viên của bộ máy Nhà nước cũng chỉ có hơn 2
triệu người). Trong khi đó, chỉ riêng kinh tế cá thể trong công nghiệp và thương
17
17
mại năm 1999 đã thu hút được 5,5 triệu lao động, các Công ty và doanh nghiệp
tư nhân thu hút gần nửa triệu lao động. Riêng trong công nghiệp, các cơ sở kinh

tế này thu hút 50% tổng số lao động. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm
việc trong các DNN&V khoảng gần 1 triệu đồng chỉ bằng 3% trong các doanh
nghiệp lớn. Nếu tính thêm cả số lao động ngoài doanh nghiệp do các DNN&V
tạo ra với hệ số mở rộng việc làm là 1,2 thì số lao động do các DN này thu hút có
thể lên tới 4 - 4,5 triệu người. Điều đó cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của
DNN&V trong việc tạo việc làm, thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ
yếu là bằng vốn của dân. Kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu cho thấy vai trò
của các DNN&V trong việc tạo việc làm., tăn thu nhập được đánh giá cao nhất
tới 88,7%.
Thứ ba, thu hút vốn
Vốn có vai trò trong việc mở rộng qui mô sản xuất. Tuy nhiên, một
nghịch lý hiện nay là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng, trong khi đó,
vốn trong dân còn nhiều nhưng không thể huy động được. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tính trạng đó, nhưng nguyên nhân chủ yếu là môi trường đầu tư
thiếu và không ổn định. Trong tình hình đó, chính các DNN&V là người trực
tiếp tiếp xúc với người cho vay (thường là những người thân), gây được
niềm tin nên có thể huy động được vốn, hoặc chính người có tiền đứng ra
đầu tư kinh doanh. Thực tế cho thấy trong các lĩnh vực công nghiệp, thương
mại, vận tải, xây dựng các DNN&V đã đầu tư tới trên 50% tổng số vốn đầu
tư trong lĩnh vực này.
Thứ tư, làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn
Tăng tính cạnh tranh, giảm bớt tốc độ rủi ro trong nền kinh tế do số doanh
nghiệp tăng lên rất lớn kéo theo sự tăng nhanh chóng số lượng các mặt hàng.
Ngoài ra, các DNN &V có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển
hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Hơn nữa sự có mặt
18
18
của DNN&V trong nền kinh tế có tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp lớn kinh
doanh có hiệu quả hơn: làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiẹp lớn, giúp tiêu
thụ hàng hoá, cung cấp các đầu vào như nguyên liệu thâm nhập vào ngõ ngách

thị trường mà các doanh nghiệp lớn không với tới được.
Một điều quan trọng là, vốn của các DNN&V trong đó phần lớn là khu
vực tư nhân, chủ yếu đầu tư vào các ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao. Do
vậy, việc tăng cường cơ sở này càng làm cho hiệu quả kinh tế cao hơn trong
tương lai gần. Tuy nhiên, nếu qui mô quá nhỏ thì hiệu quả kinh tế sẽ khó
tăng lên được.
Thứ năm, khai thác tiềm năng rất phong phú trong dân
Hiện nay, còn rất nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác: tiềm
năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động, vốn, điều kiện tự nhiên, bí quyết
nghề nghiệp (chỉ truyền nghề lại trong dòng tộc). Việc phát triển các doanh
nghiệp sản xuất các ngành nghề truyền thống trong nông thôn là một trong
những hướng quan trọng để thu hút lao động nông thôn, phát hiện lợi thế của
từng vùng để phát triển kinh tế, và đặc biệt là sử dụng tay nghề tinh xảo của các
nghệ nhân mà hiện nay đang có xu hướng bị mai một dần.
Thứ sáu, nâng cao thu nhập của dân
Nước ta là một nước nông nghiệp, năng suất của nền sản xuất xã hội cũng
như thu nhập của cư dân thấp. Thu nhập của cư dân nông thôn (chiếm trên 80%
tổng dân số) chủ yếu phụ thuộc vào nền nông nghiệp thuần nông. Việc phát triển
các DNN&V ở thành thị cũng như ở nông thôn là phương hướng cơ bản tăng
nhanh năng suất và thu nhập của dân cư. Kết qủa điều tra cho thấy thu nhập bình
quân của lao động trong các DNN&V gấp 2 - 3 lần thu nhập của một hộ nông
dân. Thu nhập dân cư được đa dạng hoá làm nâng cao mức sống dân cư, làm
giảm bớt rủi ro trong cuộc sống nhất là ở những vùng hay xảy ra thiên tai.
Thứ bảy, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
19
19
Điều này đặc biệt có ý nghĩa với khu vực nông thôn. Việc phát triển các
DNN&V có ý nghĩa lớn trong việc phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn, xoá dần tình trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn. Làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế:

+ Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi: Cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh
tăng lên nhanh chóng, các doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp và củng cố lại,
kinh doanh có hiệu quả, từ đó phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
+ Cơ cấu ngành: Phát triển nhiều ngành, nghề đa dạng, phong phú theo
hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo.
+ Cơ cấu lãnh thổ: Các doanh nghiệp được phân bố đều hơn về lãnh thổ,
cả nông thôn và thành thị, miền núi, đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay, các doanh
nghiệp vẫn chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn. Đây là vấn đề ngành Ngân hàng
cần lưu tâm khi có kế hoạch đầu tư vốn.
Thứ tám, góp phần đào tạo đội ngũ doanh nhân Việt Nam:
Trong nhiều năm qua, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho
đội ngũ doanh nhân Việt Nam không phát triển, không có kinh nghiệm với cơ
chế thị trường. Phát triển các DNN&V có tác dụng đào tạo, chọn lọc, thử thách
đội ngũ doanh nhân Việt Nam trên thương trường trong nước và quốc tế.
1.2. Tính dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa
Hoạt động tín dụng ngân hàng đối với DNN&V thể hiện các đặc điểm
Thứ nhất: Hầu hết các DNN&V kinh doanh đều thiếu vốn để kinh doanh
và mở rộng kinh doanh nên đều có nhu cầu vay vốn tín dụng ngân hàng.
Thứ hai: Món vay nhiều nhưng giá trị của mỗi món vay lại thấp, đối
tượng cho vay đa dạng phong phú, nhiều chủng loại.
20
20
Do DNN&V chiếm ưu thế về mặt số lượng nên có nhiều món vay của
nhiều DNN&V. Mặt khác, xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của các
DNN&V, đó là, kinh doanh đa dạng nhiều mặt hàng. Giá trị của mỗi món vay
phụ thuộc vào tình hình tiêu thụ sản phẩm đó trên thị trường, nếu sản phẩm
tiêu thụ được nhiều phải mở rộng sản xuất thì các DN cần nhiều vốn sẽ vay
nhiều hoặc ngược lại.

Thứ ba: Các DNN&V đều có nhu cầu đầu tư trung và dài hạn với lãi suất thấp.
Hầu hết, các DNN&V đều ở tình trạng thiết bị máy móc công nghệ lạc
hậu, không đồng bộ do đó đều muốn vay vốn trung - dài hạn để đầu tư mua sắm
cải tạo cơ sở sản xuất, đổi mới thiết bị. Nhưng khả năng để đáp ứng nhu cầu này
của ngân hàng là có hạn, vì không có đủ nguồn để đầu tư trung dài hạn. Tình
trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau của các DN dưới các hình thức nợ mà không có
khả năng thu hồi vốn trước kỳ hạn đã khiến cho các DN rơi vào tình trạng luôn
bị thiếu vốn. Các NHTM cũng phải "ôm" đeo đẳng các khoản nợ đã cho vay mà
không có cách nào thu vốn trước ngày đáo hạn hoặc đã quá hạn.
Thứ tư: Ngân hàng khó cho DNN&V vay vốn vì:
- Thiếu tài sản thế chấp, hoặc DN có TSTC nhưng lại chưa có đủ giấy tờ
thủ tục chứng minh quyền sở hữu hợp pháp tài sản đó.
- Báo cáo tài chính của DNN&V chưa chính xác, độ tin cậy không cao
gây khó khăn trong việc thẩm định phương án vay vốn cũng như hình thức đảm
bảo nợ vay (tín chấp hay thế chấp).
- Diễn biến thị trường phức tạp mà DNN&V qui mô hoạt động và hiệu quả
kinh doanh chưa cao do vậy khó xoay sở để vượt qua các biến động của thị trường.
1.2.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng đối với DNN&V
Các NHTM được cấp tín dụng cho DNN&V dưới các hình thức:
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn
- Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá trị khác.
21
21
- Bão lãnh
- Cho thuê tài chính
Cho vay: Là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Tổ chức tín dụng(TCTD)
giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời
gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Chiết khấu: Là việc TCTD mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn
khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.

Bảo lãnh Ngân hàng: Là cam kết bằng văn bản của TCTD với bên có
quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả
cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Cho thuê tài chính: Là hoạt động tín dụng trung dài hạn, trên cơ sở hợp
đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê và TCTD với khách hàng thuê. Khi kết
thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các
điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê, các bên không được đơn phương
huỷ bỏ hợp đồng.
1.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNN&V
1.2.3.1. Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò trung gian để giải quyết vốn
tạm thời nhàn rỗi ở DNN&V này với DNN&V khác đang có nhu cầu về vốn để
sản xuất kinh doanh
Trong thực tế các DNN&V đều thiếu vốn để sản xuất kinh doanh nhưng
lại có lúc tạm thời thừa vốn khi sản xuất kinh doanh chưa đến chu kỳ lúc này tín
dụng Ngân hàng sẽ chuyển từ doanh nghiệp thừa cho doanh nghiệp thiếu vay.
1.2.3.2. Tín dụng NH giúp cho DNN&V mở rộng sản xuất
Với nguồn vốn hạn chế DNN&V không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn
mua nguyên nhiên vật liệu, trả tiền lương công nhân hay trả các loại chi phí đầu
22
22
vào tăng thêm, thêm vốn để mở rộng sản xuất các DNN&V sẽ cần nguồn vốn
TDNH để mở rộng sản xuất.
1.2.3.3. Tín dụng NH giúp cho DNN&V mở rộng quan hệ thương mại giao
lưu quốc tế, giúp cho DNN&V có điều kiện quảng bá sản phẩm của mình trên
trường quốc tế, có điều kiện để xuất khẩu phát triển.
1.2.3.4. Tín dụng NH tạo điều kiện cho DNN&V thay đổi trang thiết bị áp dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đổi mới công nghệ, hoàn thiện kỹ thuật
quản trị kinh doanh,tìm kiếm thị trường mới để đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh.
1.2.3.5.Tín dụng NH giúp cho DNN&V sử dụng vốn có hiệu quả, tăng

nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn sản xuất cho lưu thông vì các DNN&V sử
dụng vốn tín dụng phải trả lãi nên phải tính toán, hạch toán đầy đủ chính xác
giảm giá thành tăng vòng quay, nâng cao sử dụng vốn, chuyển hướng đầu tư
vào ngành có lợi nhuận cao tức là giúp các doanh nghiệp chuyển hướng đầu tư
sản xuất.
1.2.3.6. Góp phần đào tạo tay nghề cho công nhân làm việc trong các
DNN&V.
Do được vốn tín dụng đều tư đổi mới trang thiết bị và áp dụng khoa học
công nghệ vào sản xuất do vậy đội ngũ công nhân cũng phải được đào tạo để đáp
ứng với nhu cầu ngày càng cao của máy móc thiết bị và quy trình công nghệ.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng đối với Doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Chúng ta đã biết doanh nghiệp và ngân hàng là người bạn đồng hành trên
cùng một chiếc thuyền. Sự tồn tại, lớn mạnh và phát triển của doanh nghiệp là cơ
sở để NHTM tiếp tục mở rộng cho vay và cũng là điều kiện quan trọng nhất để
có thể thu hồi nợ đầy đủ, đúng hạn. Vì vậy, bất cứ yếu tố làm ảnh hưởng đến
doanh nghiệp thì trực tiếp hoặc gián tiếp cũng ảnh hưởng đến hiệu quả khoản
23
23
vay. Ngược lại, một sự bất lợi đối với ngân hàng cũng sẽ làm hạn chế sự phát
triển của doanh nghiệp do thiếu vốn.
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ phía DNN&V
1.3.1.1. Thực trạng kinh doanh, tài chính của DNN&V
Thực trạng tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của DNN&V ảnh
hưởng trực tiếp tới chất lượng của khoản vay. Đối với DNN&V, thuận lợi lớn
nhất là áp lực thanh toán các khoản tiền lương công nhân, nợ người bán, nợ vay
ngân hàng không quá lớn và họ thường dễ dàng "xoay sở" hơn so với các
doanh nghiệp có qui mô lớn. Hơn thế nữa, vốn chủ sở hữu thường chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng nguồn vốn nên DNN&V thường khá chủ động và ít gặp phải
tình huống công nợ quá lớn.

Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của họ lại là khả năng quản lý và cân đối
nguồn tiền. Cơ cấu vốn đầu tư không hợp lý là một tình trạng điển hình. Do sự
hạn hẹp về vốn, các DNN&V thường đầu tư tập trung vào tài sản cố định, dẫn
đến tình trạng thường xuyên thiếu vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh.
Thậm chí một vài doanh nghiệp còn sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư
các tài sản có tính chất dài hạn làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thanh toán.
Hay một ví dụ mà chúng ta vẫn hay nghe nói tới là một doanh nghiệp có thể làm
ăn có lãi nhưng vẫn phá sản do không đủ khả năng thanh toán nợ đến hạn.
1.3.1.2. Tính minh bạch của DNN&V và thiện chí trả nợ
Để có thể đầu tư vốn, điều quan trọng là ngân hàng phải có thông tin đầy
đủ về khách hàng và thông tin đó phản ánh đúng thực tế. Tuy nhiên, thực trạng
doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 2 - 3 hệ thống sổ sách
kế toán, chủ doanh nghiệp che dấu thông tin rất phổ biến đã làm mất lòng tin của
các nhà đầu tư.
Còn tại các doanh nghiệp Nhà nước tình trạng hạch toán dấu lỗ, nâng giá
tài sản để vay vốn ngân hàng, kinh doanh không vì lợi nhuận mà hầu như không
24
24
có biện pháp kiểm soát không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh nghiệp mà còn
ảnh hưởng không nhỏ đến ngân hàng cho vay.
Thiện chí trả nợ của Chủ doanh nghiệp cũng là một trong các yếu tố quan
trọng. Trong điều kiện hệ thống pháp luật còn chưa hoàn chỉnh, doanh nghiệp lại
được tự do kinh doanh và giao dịch với các NHTM thì ngân hàng cho vay thực
sự khó khăn trong việc quản lý nguồn thu nợ. Nếu chủ doanh nghiệp thiếu thiện
chí thì mặc dù hợp đồng tín dụng có qui định chặt chẽ thế nào cũng chưa phải là
giải pháp chắc chắn nhất.
1.3.1.3. Khả năng quản trị điều hành, lập kế hoạch
Người điều hành có một vai trò quyết định trong sự thành bại của doanh
nghiệp. So với các doanh nghiệp lớn có mô hình quản lý chuyên biệt, các
DNN&V tỏ ra thua kém hơn trong tính chuyên nghiệp của hoạt động quản lý.

Chúng ta thường thấy mô hình doanh nghiệp gia đình trong đó vợ chồng, anh em
cùng tham gia quản lý. Họ thường ít được đào tạo về kiến thức pháp luật, quản lý
tài chính và kỹ năng điều hành doanh nghiệp cho hiệu quả.
Do DNN&V thường thiếu các thông tin về thị trường, hạn chế trong việc
khảo sát và thu thập các dữ liệu để phân tích như: nhu cầu của thị trường, giá cả
và chất lượng của các yếu tố đầu vào, tác động của các chính sách vĩ mô của Nhà
nước, nhu cầu về các sản phẩm thay thế trong tương lai dẫn đến việc lập dự án
sản xuất kinh doanh không đầy đủ và chính xác. Chính vì vậy họ không đưa ra
được các dự án không đủ khả năng thuyết phục chủ đầu tư.
1.3.1.4. Tính linh hoạt trong SXKD
Với quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ gọn, với tình trạng thiết bị công nghệ
không quá lớn và phức tạp và đôi khi vẫn còn kết hợp giữa cơ khí hoá, tự động
hoá và thủ công trong từng công đoạn sản xuất, các DNN&V thường dễ dàng
thích nghi hơn trước sự biến đổi về nhu cầu của thị trường. Ngoài ra, các
DNN&V cũng thuận lợi hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn trong việc
25
25

×