MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhiều nghiên cứu và thực tế đã chỉ ra rằng chính các Doanh nghiệp
nhỏ và vừa là một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển và đổi mới kinh tế
- xã hội. Sự xuất hiện của các Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã thực sự định
nghĩa lại những mảng thị trường hoàn toàn mới, khởi đầu cho những làn
sóng sáng tạo - đổi mới không ngừng không chỉ cho quốc gia mà cả thế giới.
Ngày nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, dù là nước công nghiệp phát
triển hay đang phát triển, doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Bởi loại hình doanh nghiệp này đã
góp phần tạo sự tăng truởng cho nền kinh tế, đồng thời nó cũng tạo nên sự
phát triển đa dạng cho các ngành kinh tế, góp phần cải thiện cán cân thanh
toán tăng xuất khẩu hàng hoá thành phẩm và tạo ra việc làm chủ yếu cho
hơn 80% lực lượng lao động ở cả nông thôn và thành thị.
Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nền kinh tế nên việc phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNN&V) là việc vô cùng cần thiết. Tuy nhiên để phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa chúng ta phải giải quyết hàng loạt các vấn đề, khó khăn nhất
chính là tạo vốn cho các doanh nghiệp này. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh
tế khó khăn như hiện nay. Tiếp cận được nguồn vốn đối với DNN&V là vấn
đề bức thiết đặt ra.
Không ít các khó khăn đã đặt ra cho hệ thống Ngân hàng thương mại
nói chung và Ngân hàng TMCP Công Thương Lạng Sơn nói riêng, nhưng
với tính năng hoạt động nhạy bén trong cạnh tranh và biết hướng vào đối
tượng khách hàng mục tiêu là các cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1
đã giúp cho Vietinbank Lạng Sơn luôn duy trì và phát triển được thị phần,
vượt qua khó khăn và trở thành Ngân hàng uy tín hàng đầu trên địa bàn.
Tiến bước vững vàng theo định hướng của Ngân hàng TMCP Công
Thương Việt Nam: Tất cả các Chi nhánh trong hệ thống sẽ trở thành những
Ngân hàng bán lẻ, đa năng - hiện đại và tốt nhất Việt Nam, nên Vietinbank
Lạng Sơn đặc biệt chú trọng đến việc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ phát triển thương nghiệp, đầu tư máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, xây
dựng nhà xưởng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó công tác tín
dụng là hoạt động quan trọng mang lợi nhuận cao nhất, đóng góp nhiều nhất
vào tổng thu nhập của Ngân hàng.
Tiền thân là một Ngân hàng nhà nước, đến nay Vietinbank Lạng Sơn
đã được cổ phần hoá để thực hiện mục tiêu kinh doanh là mở rộng thị phần,
tăng khả năng cạnh tranh, phát triển an toàn và bền vững, vừa đáp ứng được
yêu cầu của Hội đồng quản trị đặt ra cho chi nhánh, vừa phù hợp với phương
hướng phát triển kinh tế của Tỉnh. Vietinbank Lạng Sơn cần có những biện
pháp phù hợp trong công tác quản lý, kiểm soát và định hướng phát triển cho
hoạt động tín dụng trong tình hình mới.
Nhận thức vấn đề đó trong quá trình tìm hiểu về hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng công thương chi nhánh Lạng Sơn, tôi đã lựa chọn đề tài : “Giải
pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Ngân hàng công thương chi nhánh Lạng Sơn”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn nhằm giải quyết ba mục đích sau:
(1) Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về nâng cao hiệu quả tín dụng đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng thương mại.
2
(2) Phân tích đánh giá thực trạng nâng cao hiệu quả tín dụng đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi
nhánh Lạng Sơn.
(3) Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh
Lạng Sơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Sự nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa của Ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Sự nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh
Lạng Sơn.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp Duy vật biện chứng và Duy vật
lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: thống kê, so sánh,
tổng hợp sử dụng số liệu thứ cấp từ các báo cáo của Ngân hàng.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục luc, danh mục các bảng, biểu,
biểu đồ, tài liệu tham khảo nội dung của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và
vừa tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Lạng
Sơn.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng doanh nghiệp
3
nhỏ và vừa tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh
Lạng Sơn.
4
CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1.
KHÁI NIỆM VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm
năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống
NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền
kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai
đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được
hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở
Mỹ Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là
nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình
thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về
chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại : Ngân hàng thương mại
là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận
tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho
vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định
chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với
nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh
5
toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối
đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. Khái niệm về NHTM đang có sự
thay đổi vì sự pha trộn của các hoạt động truyền thống của ngân hàng với
các trung gian tài chính khác.
1.2.
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT
NAM
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong một nền kinh tế, nếu chỉ dựa vào quy mô hoạt động có thể chia
doanh nghiệp thành hai loại: doanh nghiệp lớn, DNN&V. Các DNN&V là
loại hình doanh nghiệp phổ biến ở hầu hết các nước. Tuy nhiên, không có
một tiêu chuẩn chung nào cho việc phân định ranh giới quy mô doanh
nghiệp ở các nước. Ở mỗi nước khác nhau, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh
phát triển kinh tế cụ thể mà có cách xác định quy mô doanh nghiệp trong
từng giai đoạn cụ thể.
Hầu hết các nước trên thế giới đếu xác định DNN&V theo hai tiêu
thức: tổng số vốn kinh doanh, số lượng lao động của doanh nghiệp để phân
biệt quy mô lớn, vừa và nhỏ.
Ở Việt Nam, theo quyết định của Chính Phủ tại NĐ 90/ 2001/NĐ- CP
ra ngày 23/11/2001 về trợ giúp và phát triển DNN&V có định nghĩa sau:
"DNN&V vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành. Có vốn đăng ký không quá 10 tỷ VNĐ hoặc số lao
động hàng năm không quá 300 người". Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội
cụ thể của từng ngành, địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp
chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn
và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
6
Với tiêu chí xác định DNN&V theo NĐ 90/ 2001/ NĐ- CP thì số
lượng doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể. Theo số liệu thống kê đến hết năm
2001 có tổng cộng 77.784 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh: riêng trong
năm 2000-2001 thực hiện luật doanh nghiệp mới tăng vượt bậc 35.481
doanh nghiệp, với số vốn đăng ký kinh doanh là 41.882 tỷ đồng.
•
Phân loại
Bảng 1.1: Phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Quy mô
Khu vực
DN siêu
Nhỏ
DN nhỏ DN vừa
Lao động
(người)
Nguồn
vốn (tỷ đ)
Lao động
(người)
Nguồn
vốn
(tỷ đồng)
Lao động
(người)
Nông, lâm nghiệp và
thủy sản
<10 <20 Từ 10
đến
dưới 200
Từ 20 đến
dưới 100
Từ 200 đến
dưới 300
Công nghiệp và xây
dựng
<10 <20 Từ 10
đến dưới
200
Từ 20 đến
dưới 100
Từ 200 đến
dưới 300
Thương mại và dịch
vụ
<10 <10 Từ 10
đến
dưới 50
Từ 10 đến
dưới 50
Từ 50 đến
dưới 100
( Nguồn: Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 về trợ giúp phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa)
Tuỳ theo các tiêu thức ta có thể phân loại DNN&V như sau:
- Theo hình thức sở hữu bao gồm:
+ Doanh nghiệp nhà nước.
7
+ Doanh nghiệp tư nhân.
+ Công ty TNHH.
+ Doanh nghiệp cổ phần.
- Phân loại theo mục tiêu SXKD:
+ Doanh nghiệp SXKD hàng hoá công cộng không vì mục tiêu lợi nhuận.
+ Doanh nghiệp SXKD vì mục tiêu lợi nhuận.
- Phân loại theo mục tiêu ngành nghề và lĩnh vực SXKD:
+ Doanh nghiệp công nghiệp.
+ Doanh nghiệp nông nghiệp.
+ Doanh nghiệp xây dựng.
+ Doanh nghiệp thương mại dịch vụ
- Phân loại theo quy mô (về lao động,Vốn, sản lượng, doanh thu, mức
lợi nhuận )
+ Doanh nghiệp vừa.
+ Doanh nghiệp nhỏ.
Như vậy, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có
đăng ký kinh doanh và thoả mãn hai tiêu thức: Vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng, lao động trung bình hàng năm không quá 300 người đều được coi là
DNN&V.
1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Thứ nhất, các doanh nghiệp này có quy mô hoạt động nhỏ bé.
Phần lớn các DNN&V có quy mô bé với số vốn dưới 1 tỷ đồng và lao
động dưới 50 người. Chỉ xét riêng về DNN&V thì đến ngày 1/9/1999 có tới
65% DN có số vốn dưới 5 tỷ đồng, trong đó 1341 DN có số vốn dưới 1 tỷ
đồng, chiếm 23% tổng số DNN&V. Do quy mô nhỏ dẫn tới nguồn vốn cũng
8
hạn hẹp, kéo theo nhữmg khó khăn về mặt bằng SXKD, trình độ công nghệ
và năng lực quản lý hạn chế, thiếu thông tin gây ra nhiều yếu kém trong sản
xuất, trong đó thiếu vốn là đặc điểm nổi bật.
Thứ hai, Sức cạnh tranh của các DNN&V còn thấp
Do DNN&V là những DN có quy mô nhỏ, vốn đầu tư cho hoạt động
SXKD còn ít làm cho hoạt động SXKD gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng tới chất
lượng sản phẩm như là: chất lượng chưa cao, sức cạnh tranh của hàng hoá dịch
vụ còn yếu do đó không mở rộng được thị trường, hàng hoá ngày càng khó tiêu
thụ. Tất yếu dẫn đến lợi nhuận thấp, cản trở việc SXKD, dễ có những hành vi
gian lận thương mại, kinh doanh trái với quy định của pháp luật.
Thứ ba, quản lý và điều hành hoạt động SXKD của DNN&V thấp.
Hầu hết các DNN&V được thành lập có nguồn vốn dựa vào tiền tích
luỹ cá nhân cộng với tích luỹ của gia đình (đối với các DN ngoài quốc
doanh). Do vậy, những người điều hành DN hầu hết có thế mạnh về vốn lớn
hơn thế mạnh về năng lực quản lý. Các DNN&V nhà nước còn rất nhiều nhà
quản lý yếu kém về trình độ điều hành. Nên chưa đáp ứng được nhu cầu
kinh tế của thị trường, không đủ sức để DN đứng vững và phát triển trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt.
Bên cạnh đó số người của DNN&V có trình độ, được đào tạo còn ít,
khó khăn đối với các DNN&V là không thu hút được cán bộ kỹ thuật giỏi và
những công nhân có tay nghề cao. Từ đó, dẫn đến năng suất lao động thấp,
hiệu quả sử dụng vốn kém ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả vốn vay và bảo
toàn vốn thấp. Cho nên khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các DNN&V bị
hạn chế.
9
Thứ tư, Môi trường kinh doanh bên ngoài ảnh hưởng không nhỏ tới
DNN&V
Thật vậy, những tác động từ bên ngoài tới DN cũng gây không ít khó
khăn cho DNN&V. Trước hết, là sự tác động quản lý của nhà nước về hoàn
thiện luật DN, thực thi luật DN, các chính sách thuế, chính sáchTD, thương
mại, chính sách khoa học- công nghệ, CS giáo dục đào tạo, lao động và việc
làm còn nhiều bất cập. Tác động quản lý của nhà nước đối với DNN&V
trong khâu tổ chức còn nhiều bức xúc, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng của
một bộ phận cán bộ công chứng quản lý nhà nước. Sự thiếu hụt và rối loạn
của thị trường như: thị trường vốn, thị trường thông tin, thị trường dịch vụ
và nạn hàng giả, hàng lậu tràn lan gây nhiều khó khăn cho hoạt động SXKD
của DNN&V.
1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế
Mặc dù còn có các quy định khác nhau về DNN&V nhưng sự phát
triển của DNN&V ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế giới đã khiến
cho các nhà KT và Chính Phủ các nước nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của
DNN&V trong nền KT thị trường. Hiện nay ở hầu hết các nước, DNN&V
đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển KT-XH của đất
nước. Ở mỗi nền kinh tế
quốc gia
hay lãnh thổ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số
vai trò tương đồng như sau:
Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa
thường chiếm
tỷ trọng
lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở
Việt Nam chỉ xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 95%). Vì
thế, đóng góp của họ vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.
10
Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều
chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự
ổn định. Vì thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh giảm sốc cho nền
kinh tế.
Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy
mô nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh
nghiệp nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết
được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường
đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và
vừa lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào
thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Để có cái nhìn cụ thể và toàn diện hơn về vai trò của DNN&V, ta có
thể phân tích vai trò chi tiết như sau:
DNN&V cung cấp một khối lượng lớn sản phẩm, dịch vụ đa đạng,
phong phú về chủng loại đáp ứng nhu cầu SX và tiêu dùng.
Các DNN&V hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền KT quốc dân từ
SX công nghiệp, xây dựng , Thương mại đến dịch vụ có khả năng đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa đạng, phong phú của người tiêu dùng. Ngay ở các
nước phát triển, sự phát triển mạnh mẽ của các siêu thị cũng không thể thay
thế được các DN bán lẻ, những sản phẩm có tính chất lặt vặt, nhỏ không
thích hợp với các DN lớn. Số liệu điều tra cho thấy DNN&V đem lại 78%
doanh số bán lẻ trong thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành
11
khách và hàng hoá, SX gần 100% sản lượng công nghiệp của nhiều mặt
hàng tiêu dùng như: đồ mỹ nghệ, đồ mộc, mây tre
DNN&V đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm
phù hợp với nhiều đối tượng, tăng thu nhập cho người lao động, góp
phần ổn định xã hội.
Nhất là những nước đông dân lại sống chủ yếu bằng nghề nông, thu
nhập thấp như nước ta. Hàng năm có thêm khoảng 1 triệu người gia nhập lực
lượng lao động mà khả năng thu hút lao động mới này vào các DN lớn thuộc
khối quốc doanh là rất hạn chế. Sự tồn tại và phát triển DNN&V là phương
tiện có hiệu quả để giải quyết vấn đề thất nghiệp, là nguồn lực chủ yếu tạo ra
việc làm. Lý do thật đơn giản là DNN&V thường được dễ dàng tạo lập với
một khối lượng không lớn, thường xuyên đáp ứng được nhu cầu thay đổi của
thị trường. Vì vậy, mặc dù số lao động làm việc trong một DNN&V không
nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng lớn DNN&V đủ tạo ra phần
lớn công ăn việc làm cho xã hội. Cho đến nay ở Việt Nam tổng số LĐ làm
việc trong các DNN&V khoảng hơn 9 triệu người chiếm 26-27% lực lượng
LĐ cả nước.
DNN&V phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính
Sự ra đời và phát triển của DNN&V với nhiều loại hình như: DNNN,
công ty tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần đã khơi dậy và đưa vào
hoạt động nhiều khoản vốn đang nằm phân tán trong dân cư, góp phần phát
triển SX. DNN&V góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong
dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương.
Thật vậy, Việc thành lập DNN&V không cần quá nhiều vốn. Điều đó
đã tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư. Mặt khác, trong
12
quá trình hoạt động các DNN&V có thể dễ dàng huy động vốn dựa trên quan
hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc.
Với quy mô nhỏ và vừa, lại được phân tán ở hầu khắp các địa phương,
các vùng lãnh thổ nên DNN&V có khả năng tận dụng các tiềm năng về LĐ, về
nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế không đáp ứng đủ nhu cầu quy mô lớn
nhưng sẵn có ở địa phương, sử dụng các sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế
phẩm của các DN lớn. Ngoài ra, những ngành mà Việt Nam có lợi thế cạnh
tranh từ giá thành sức LĐ (như may mặc, chế biến lương thực, thuỷ hải sản, sản
xuất đồ mỹ nghệ ) đều là những ngành không có lợi ích từ quy mô lớn.
DNN&V hỗ trợ cho các DN lớn trong SXKD
Các DNN&V có thể nhận gia công, sản xuất cung ứng nguyên liệu
đầu vào, nhận làm đại lý phân phối tiêu thụ các sản phẩm đầu ra cho các DN
lớn. Từ đó phát huy thế mạnh của từng loại hình DN, tăng tính chuyên môn
hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm, thúc đẩy sự phát triển của
các DN. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới hội nhập của đất nước vai trò hỗ
trợ cho các DN lớn của DNN&V sẽ ngày một khẳng định và phát huy thêm.
DNN&V góp phần thúc đẩy tăng trưởng KT
Toàn bộ khu vực DNN&V cả nước chỉ chiếm 20% vốn kinh doanh của
tất cả các DN. Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp vào GDP không nhỏ đạt xấp xỉ
36,6% (trong đó: DNN&V quốc doanh đóng góp 7%, DNN&V ngoài quốc
doanh đóng góp 19,6% GDP). Nếu so với kết quả đánh giá của tổng cục quản
lý vốn và tài sản của nhà nước, các tổng công ty nhà nước chiếm gần 80% về
vốn nhưng doanh thu chỉ đạt 49,8% thì kết quả đạt được của khu vực
DNN&V thật đáng quan tâm hơn nữa.
DNN&V góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ, những nhà kinh doanh,
13
những nhà quản trị mới trong nền KT thị trường.
Thực tế cho thấy, có những DN giữ quy mô vừa và nhỏ vì đó là quy
mô có hiệu quả nhất phù hợp với khả năng kinh doanh và tiềm năng của DN,
nhưng cũng có nhiều DNN&V phát triển thành DN lớn. Với sự phát triển
trong tất cả các lĩnh vực từ công nghiệp, xây dựng, đến nhà hàng, khách
sạn ở quy mô nào các DNN&V cũng vẫn là vườn ươm nhân tài cho công
cuộc phát triển đất nước.
Ngoài những vai trò chủ yếu trên, DNN&V còn một số vai trò khác
như là: DNN&V góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân
bằng và chuyển dịch cơ cấu KT; DNN&V đóng góp vào việc duy trì và phát
triển các ngành thủ công nghiệp; DNN&V góp phần tăng nguồn hàng xuất
khẩu và tăng thu cho ngân sách nhà nước.
1.3.
CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.3.1. Các hình thức cấp tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và
vừa
TD là loại tài sản lớn nhất ở phần lớn các NHTM phản ánh hoạt động
đặc trưng của ngân hàng. Trong nền kinh tế thi trường, TD có rất nhiều hình
thức đa dạng,phong phú. Tùy theo tiêu thức phân loại mà TD được phân
thành nhiều loại khác nhau.
1.3.1.1 Tín dụng phân loại theo thời gian (TD ngắn hạn, trung hạn, dài hạn)
TD ngắn hạn- thời hạn từ 12 tháng trở xuống, trung hạn- trên 1 năm
đến 5 năm, dài hạn- trên 5 năm. Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính
chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác
thời hạn. Phân chia TD theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
14
hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tài sản.
Tỷ trọng TD ngắn hạn tại các NHTM thường cao hơn TD trung và dài
hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. TD
trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn nhưng rủi ro cao hơn, nguồn
vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như
tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng,
khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn
1.3.1.2. Hình thức tài trợ TD được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê
Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục TD. Cho vay thường
được định lượng theo hai chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối
kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay
trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay
vào thời điểm cuối kỳ. Khi lập các báo cáo tài chính (thời điểm), cho vay
được ghi dưới hình thức dư nợ. Một số ngân hàng thường ghi giảm dư nợ
phần trích lập dự phòng tổn thất hoặc lãi được nhận trước. Các ngân hàng
cũng ghi như vậy với chiết khấu. Cho thuê tài sản trung và dài hạn được ghi
vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền mà ngân
hàng thu được (dư nợ cho thuê). Bảo lãnh được ghi vài tài sản ngoại bảng,
đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng của mình. Phần
bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng
(mục cho vay bắt buộc, tính vào nợ quá hạn).
1.3.1.3. TD được phân chia theo đảm bảo
Không có đảm bảo, có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Về
nguyên tắc mọi khoản TD của ngân hàng đều có đảm bảo. Tuy nhiên, ngân
hàng chỉ ghi vào hợp đồng TD loại đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để
15
thu nợ nếu khách hàng không trả được nợ. Do đó, các khoản tài trợ có đảm
bảo trên quan điểm của khách hàng là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ
hai từ đảm bảo. Các khoản tài trợ không gắn với hợp đồng đảm bảo được
ngân hàng xếp vào tài trợ không đảm bảo. Việc phân chia này không nói lên
tính an toàn của khoản tài trợ của ngân hàng, mà chỉ giúp ngân hàng theo dõi
các hợp đồng về đảm bảo, đưa ra các biện pháp xử lý khi cần thiết.
1.3.1.4. TD phân loại theo rủi ro
TD ngân hàng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình
và thấp. Để phân loại tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ,
các căn cứ để phân chia rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc
rủi ro TD, tức là xếp loại TD theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao. Cách
phân loại này giúp cho ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục TD,
dự trù quỹ cho các khoản TD rủi ro cao, đánh giá chất lượng TD
1.3.1.5. TD theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp ) hoặc theo đối tượng tài
trợ (hàng hoá, hoặc bất động sản ) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng )
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng doanh nghiệp
nhỏ và vừa
1.3.2.1.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng về phía ngân hàng
Để đánh giá hiệu quả tín dụng trong nội bộ ngân hàng thương mại,
người ta sử dụng “Hệ số chênh lệch lãi ròng” (NIM=Net Interest Margin) là
tỷ số giữa thu nhập lãi ròng với số tài sản có hoặc tài sản sinh lợi .
Hệ số chênh lệch lãi ròng (%)= Thu nhập lãi ròng/ Tài sản sinh lời
Công thức trên đã chỉ rõ các tiêu thức chủ yếu liên quan trực tiếp đến
khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng là thu nhập lãi ròng và tài sản sinh lời.
Trong đó nhân tố thu nhập lãi ròng của tài sản sinh lời giữ vai trò trọng yếu .
Thêm vào đó, để đánh giá đầy đủ hiệu quả tín dụng trong năm tài
16
chính, người ta còn tính đến hệ số:
Giá trị tín dụng tổn thất thực tế/Tài sản sinh lời
Tóm lại, khả năng sinh lợi của các khoản cho vay và đầu tư phụ thuộc
vào chi phí của các khoản cho vay, đầu tư, tổn thất tín dụng và lãi suất ngân
hàng áp dụng .
Ngoài các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ở năm tài chính nói trên
người ta còn sử dụng đến một số chỉ tiêu khác khi xem xét mặt hoạt động này
trong một quá trình nhiều năm đến thời điểm nghiên cứu, cụ thể là:
Phân tích tình hình nợ quá hạn để biết thêm chất lượng tín dụng, khả
năng rủi ro, hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng, từ đó có biện pháp
khắc phục trong tương lai.
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)=Nợ quá hạn/Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ khó đòi (%)=Nợ khó đòi/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ tổn thất (%)=Nợ được xếp loại tổn thất/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro(%)= Quỹ dự phòng rủi ro/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro với nợ được xếp loại tổn thất (%) = Quỹ dự
phòng rủi ro/Nợ được xếp loại tổn thất
Nợ được xếp loại tổn thất = Nợ xoá từ chủ trương của Chính phủ
Trên đây là những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng về
phía ngân hàng. Hiệu quả do hoạt động tín dụng mang lại phải bù đắp chi phí
cho vay, rủi ro trong tín dụng, có lợi nhuận không chỉ đảm bảo đời sống cho
cán bộ công nhân viên, không ngừng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật,
phương tiện, làm việc phục vụ khách hàng theo hướng ngày càng hiện đại,
làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước mà còn có tích luỹ để tăng vốn tự có.
1.3.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá tín dụng về mặt xã hội
Về khía cạnh kinh tế xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,hiệu
quả tín dụng ngân hàng thường được đánh giá thông qua các chỉ tiêu chủ yếu
17
như: kết quả thực hiện tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá cố định, giá
hiện hành phân theo ngành kinh tế …; kết quả đạt được về diện tích, năng
suất, sản lượng nông – lâm- ngư –diêm nghiệp đối với từng loại cây trồng, vật
nuôi, loại thuỷ, hải sản đánh bắt …; giá trị tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp
và xây dựng tại nông thôn… Những chỉ tiêu này được tính hằng năm hoặc
trong một gia đoạn nhất định tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Mỗi chỉ tiêu có
một ý nghĩa nhất định: từ việc phản ánh sự tăng trưởng của nền kinh tế đến
mức độ phát triển của các nghành nông –lâm – ngư – diêm nghiệp, công
nghiệp và xây dựng cùng khả năng đáp ứng cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng
và tạo việc làm ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thêm vào đó cần phải
xem xét mức độ tập trung, bố trí vốn tín dụng ngân hàng cho các chương trình
phát triển kinh tế có hiệu quả, theo đường lối chiến lược kinh tế của Đảng và
Nhà nước trong từng thời kỳ, góp phần tích cực khai thác mọi nguồn lực, tăng
cường giải quyết công ăn việc làm, giảm thời gian nông nhàn, ngăn chặn và
đẩy lùi tệ nạn xã hội ở nông thôn.
1.3.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng đối với khách hàng
Để đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với khách hàng, người ta
thường sử dụng những chỉ tiêu phản ánh về lợi nhuận, hiệu quả vốn, sử dụng
lao động…của khách hàng cụ thể là :
+ Về các chỉ tiêu lợi nhuận :
Hệ số lợi nhuận (%)= Lợi nhuận thu được/Doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận (%)= Lợi nhuận thu được/Tổng chi phí sản xuất
Tỷ suất doanh lợi (%)= Lợi nhuận thu được/Vốn sản xuất
Vốn sản xuất = vốn cố định + vốn lưu động
+ Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn :
Hiệu quả sử dụng vốn cố định= Tổng thu nhập/Vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn lưu đồng= Tổng thu nhập/Vốn lưu động
18
+ Về các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động:
Năng suất lao động= Giá trị thực tế tổng giá trị hàng hoá/ Số lao động
bình quân
Hiệu quả sử dụng lao động=Tổng thu nhập/ Số lao động bình quân
Vì vậy về phía khách hàng, hiệu quả sử dụng thể hiện ở sự thành đạt
qua quá trình sử dụng vốn vay để tổ chức thực hiên các phương án, dự án sản
xuất, kinh doanh đã thoả thuận với ngân hàng khi đến quan hệ vay vốn
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân
hàng thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Để có thể nâng cao được chất lượng tín dụng ngân hàng đối với
doanh nghiệp ( cả về ngân hàng và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh) ta
phải hiểu rõ các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng để từ
đó phát huy những ảnh hưởng tích cực cũng như hạn chế các ảnh hưởng tiêu
cực. Mặt khác cả ngân hàng và doanh nghiệp phải cố gắng linh hoạt để phù
hợp với quy định của Nhà nước trong hoạt động tín dụng. Có như thế thì cả
ngân hàng và doanh nghiệp mới để ra các biện pháp đúng đắn, cụ thể, linh
hoạt để đạt được mục tiêu hoạt động của mình một cách tốt nhất. Sau đây
chúng ta lần lượt nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
ngân hàng thuộc về ngân hàng và doanh nghiệp.
1.3.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
- Chính sách tín dụng
Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng, nó có ý
nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Chính sách tín
dụng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của đảng và nhà nước,
đồng thời kết quả hài hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng
và người sử dụng vốn vay. Muốn vậy, chính sách tín dụng phải được xây
19
dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
- Thông tin tín dụng.
Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết
định cần thiết liên quan đến việc cho vay, quản lý đảm bảo tiền vay, giảm
thiểu rủi ro tín dụng, nâng cao hiệu quả tín dụng. Thông tin tín dụng có thể
thu thập được từ nguồn thông tin sẵn có của ngân hàng từ thông tin tín
dụng(CIC), từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh hoặc nói cách khác từ
nguồn trực tiếp hay gián tiếp, từ các nguồn thông tin của cơ quan pháp luật
- Công tác tổ chức Ngân hàng
Nhân tố này không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng mà tác động
đến mọi hoạt động của Ngân hàng. Một Ngân hàng có cơ cấu tổ chức đựơc
sắp xếp một cách khoa học, sự phân công công việc được tiến hành một cách
cụ thể, có sự liên kết giữa các bộ phận thì việc đáp ứng các yêu cầu của
khách hàng sẽ được thực hiện kịp thời, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, quản
lý có hiệu quả và an toàn các khoản tín dụng.
- Chất lượng nhân sự.
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh
doanh nói chung, còn nói đến hoạt động Ngân hàng thì nó lại càng quan
trọng. Vì cán bộ công nhân viên của Ngân hàng là bộ mặt, hình ảnh của
Ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nghiệp vụ ngân hàng càng ngày
càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao. Việc tuyển dụng
nhân viên có đạo đức tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ sẽ giúp ngân hàng
ngừa tối đa những sai phạm có thể xảy ra để đem lại một khoản tín dụng có
chất lượng.
- Công tác kiểm soát nội bộ.
20
Đây là công tác mà Ngân hàng nào cũng cần tiến hành thường xuyên,
liên tục nhằm duy trì chất lượng, hiệu quả kinh doanh của mình phù hợp với
các chính sách, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đã đề ra. Để làm tốt công tác này,
Ngân hàng cần sắp xếp một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nghiệp vụ,
trung thực làm nhiệm vụ này và có chế độ thưởng, phạt nghiêm minh. Có
như thế, công tác tín dụng mới được thực hiện đúng quy trình nhằm nâng
cao chất lượng tín dụng.
1.3.3.2. Nhân tố thuộc về doanh nghiệp
-Năng lực của doanh nghiệp:
Không một doanh nghiệp nào đi vay lại không muốn món vay đem lại
hiệu quả. Nhưng nhiều khi do năng lực có hạn chế, họ không thực hiện được
mục đích của mình và làm ảnh hưởng đến khoản tín dụng mà họ đã nhận từ
Ngân hàng.
- Trình độ quản lý của các nhà doanh nghiệp:
Do trình độ của nhiều nhà lãnh đạo còn nhiều hạn chế về học vấn,
kiếm thức cũng như kinh nghiệm thực tế nên nhiều khi họ không dự đoán
được những biến động của thị trường, yếu kém Marketing sản phẩm Do sự
bảo thủ của nhiều nhà quản lý không dám đổi mới khiến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp không có hiệu quả, dẫn đến tình trạng không thu
hồi hết được vốn và làm ảnh hưởng đến hiệu quả của doanh nghiệp từ đó
ảnh hưỏng đến chất lượng của khoản tín dụng đã sử dụng.
- Đạo đức của người đi vay:
Ngân hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích kỹ các yếu tố
có liên quan đến khả năng của người vay trong việc hoàn trả nợ và cách thức
sử dụng vốn vay. Nhưng thông tin này có thể bị thay đổi sau khi doanh
21
nghiệp nhận được tiền vay. Thực tế, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay
không hợp lý dẫn đến không đạt đựơc hiệu quả sản xuất kinh doanh. Còn có
nhiều người có ý tham nhũng và kết quả là hiệu quả sử dụng vốn vay Ngân
hàng kém thậm chí không thu hồi được. Vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát
của ngân hàng là rất quan trọng
1.3.3.3. Các nhân tố khách quan khác
Ngoài những nhân tố chủ quan trên còn nhiều nhân tố khách quan mà
tác động của nó cũng không nhỏ đến chất lượng của các khoản tín dụng ngân
hàng.
- Tác động của môi trường kinh tế.
Đây là nhân tố luôn ảnh hưởng đến khả năng tài chính của người vay
hay nói rõ hơn là nếu môi trường kinh tế xấu làm cho hoạt động của doanh
nghiệp gặp khó khăn, ảnh hưởng đến thời hạn trả nợ và khả năng hoàn trả
món vay cho ngân hàng đo đó ảnh hưởng đến chất lượng của khoản tín dụng
đó của ngân hàng. Ngược lại nếu môi trường kinh tế thuận lợi sẽ giúp cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thuận lợi, thu hồi được vốn
nhanh đồng thời lợi nhuận thu được sẽ cao và từ đó khả năng trả nợ của
doanh nghiệp, khoản vay sẽ được trả đúng hạn, khoản tín dụng ngân hàng sẽ
có chất lượng tốt.
- Tác động của môi trường pháp lý:
Ngân hàng là một doanh nghiệp luôn phải hoạt động trong hành lang
pháp lý hẹp hơn bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất hay thương mại nào. Vì
vậy, một hệ thống pháp lý càng hoàn chỉnh, đồng bộ thì sẽ càng đem lại hiệu
quả hoạt động của ngân hàng, của các doanh nghiệp và đảm bảo đựơc chất
lượng tín dụng của các doanh nghiệp đó với ngân hàng. Còn nếu môi trường
22
pháp lý không hoàn chỉnh, có nhiểu lỗ hổng thì kết quả sẽ ngược lại cho cả
ngân hàng và các doanh nghiệp từ đó làm cho chất lượng của các khoản tín
dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp sẽ xấu và khó có thể thu hồi.
- Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà
nước bao gồm các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách lãi suất, chính
sách đối ngoại có vai trò quan trọng đối với hoạt động của nền kinh tế nói
chung và hoạt động của các ngân hàng, các doanh nghiệp nói riêng. Chính
sách kinh tế trong hoàn cảnh này thì có tác dụng cho cả ngân hàng và doanh
nghiệp nhưng trong hoàn cảnh khác thì lại ngược lại. Các chính sách này
nhằm ưu tiên phát triển hay hạn chế một ngành nào đó để đảm bảo cân đối
cho nền kinh tế. Do vậy các chủ trương, chính sách của Nhà nước phải đúng
đắn thì mới thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, là điều kiện cần để đạt
được chất lượng và hiệu quả của các khoản tín dụng ngân hàng.
- Các yếu tố thiên tai gây lên.
Chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhiều khi mang tính
thời vụ. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước có thành phần
kinh tế Nhà nước, trong đó doanh nghiệp trong các ngành nông – lâm – ngư
nghiệp lại chiếm một tỷ lệ không nhỏ thì yếu tố này rất quan trọng. Khi thiên
tai xảy ra như: lũ lụt, hạn hán, mưa bão, hỏa hoạn, làm cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị đổ bể, dẫn đến khả năng hoàn trả
các khoản nợ là khó khăn hoặc không thể, làm cho chất lượng của các khoản
tín dụng bị giảm sút.
23
1.4. NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ
VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.4.1 Đặc điểm cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngoài những đặc điểm chung của cấp tín dụng, cấp tín dụng cho
DNN&V có những đặc điểm riêng xuất phát từ những đặc thù của DNN&V.
Thứ nhất, cho vay DNN&V có số lượng khách hàng lớn, quy mô khoản
vay nhỏ. Tại nhiều quốc gia, các DNN&V luôn chiếm một tỉ trọng lớn trong
tổng số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, đây là đối tượng khách hàng đông
đảo để ngân hàng khai thác. Điều này cũng đặt ra cho ngân hàng những vấn đề
về quản lí khoản vay. Song song với số lượng lớn, các khoản vay của DNN&V
có giá trị tương đối nhỏ.
Thứ hai, cho vay DNN&V có tính rủi ro cao tuy nhiên việc cho vay đối
tượng khách hàng này có thể phân tán rủi ro cho ngân hàng. Các DNN&V có
vốn chủ sở hữu tham gia vào phương án kinh doanh thấp, sổ sách báo cáo tài
chính sơ sài, chưa theo chuẩn mực, thiếu tài sản đảm bảo nên khó khăn
trong việc thẩm định và rủi ro khi cho vay. Tuy nhiên, việc cho vay DNN&V
lại góp phân tán rủi ro cho ngân hàng đặc biệt là những rủi ro khách quan.
Thứ ba, cho vay DNN&V liên quan tới nhiều ngành nghề lĩnh vực kinh
tế, chi phí quản lí cao. Với số lượng khách hàng lớn, việc mỗi khách hàng hoạt
động trong một lĩnh vực khiến việc cho vay đối tượng khách hàng này liên
quan tới nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau thậm chí là những lĩnh vực hoàn
toàn mới. Ngoài ra, một số doanh nghiệp siêu nhỏ còn có thể thay đổi lĩnh vực
kinh doanh, thay đổi trụ sở khiến cho việc quản lí phức tạp và tốn kém.
1.4.2 Tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả tín dụng đối
với Doanh nghiệp nhỏ và vừa của ngân hàng thương mại
1.4.2.1 Đối với ngân hàng thương mại
Thứ nhất, với việc mở rộng cho vay DNN&V mang lại nguồn thu cho
24
ngân hàng thương mại.
Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản, truyền thống của ngân hàng
thương mại. Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ cho vay chiếm tới hơn
60% tổng tài sản có, thu nhập từ hoạt động cho vay cũng chiếm khoảng từ1/2
đến 2/3 tổng thu nhập. Nằm trong hoạt động cho vay nói chung, cho vay đối
tượng DNN&V vừa đem lại thu nhập cho ngân hàng vừa giúp ngân hàng có
thể bán chéo các sản phẩm dịch vụ khác như thanh toán, ngân quỹ tăng
thêm thu nhập từ thu phí dịch vụ. Ngoài ra, trong mối quan hệ với ngân hàng
các DNN&V được đánh giá là trung thành do một ngân hàng có thể đáp ứng
toàn bộ nhu cầu của họ nếu có chính sách hợp lí thu từ đối tượng khách hàng
này sẽ mang tính ổn định cao.
DNN&V là đối tượng khách hàng đông đảo đầy tiềm năng của NHTM.
DNN&V chiếm tới hơn 90% tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh tại nhiều
nền kinh tế trong quá trình mở rộng hoạt động thường xuyên có nhu cầu về
vốn, rõ ràng đây là nhóm khách hàng dồi dào cần phải khai thác của ngân hàng.
Thứ hai, mở rộng cho vay DNN&V góp phần phân tán rủi ro, ổn định
nguồn thu cho ngân hàng.
So với các doanh nghiệp lớn các khoản vay của DNN&V có quy mô
nhỏ hơn. Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp lớn có thể bằng dư nợ của hàng
chục doanh nghiệp nhỏ cộng lại, vì vậy cho vay 1 doanh nghiệp lớn sẽ đem lại
nguồn thu tương đương với cho vay nhiều doanh nghiệp nhỏ mà quản lí
không phức tạp bằng. Tuy nhiên, khi rủi ro xảy ra đối với các doanh nghiệp
lớn sẽ có hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Cho vay DNN&V sẽ góp
phần phân tán rủi ro. Nếu như doanh nghiệp lớn tập trung vào 1 lĩnh vực thì
mỗi doanh nghiệp nhỏ lại có lĩnh vực ngành nghề hoạt động riêng. Do vậy
cho vay nhiều doanh nghiệp nhỏ trong nhiều ngành nghề sẽ giảm thiểu được
rủi ro nhờ đa dạng hóa lĩnh vực tài trợ.
25