Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại ngân hàng cổ phần nhà hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.06 KB, 107 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ACB Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu
AGRIBANK Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
ASEAN Tổ chức hiệp hội các nước Đông Nam Á
ATM Máy rút tiền tự động
BANKNETVN Công ty chuyển mạch tài chính Quốc gia Việt Nam
BIDV Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
HABUBANK Ngân hàng cổ phần Nhà Hà Nội
HOME - BANKING Dịch vụ ngân hàng điện tử tại nhà
HSBC Ngân hàng Hồng Công và Thượng Hải
INTERNET - BANKING Dịch vụ ngân hàng điện tử qua internet
PHONE - BANKING Dịch vụ ngân hàng điện tử qua điện thoại
POS Máy chấp nhận thẻ
SACOMBANK Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn
TECHCOMBANK Ngân hàng Kỹ thương
VIETCOMBANK Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương
Việt Nam
VIETINBANK Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương
Việt Nam
VNBC Liên minh thẻ của Ngân hàng Thương mại cổ
phần Đông Á
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU
Trong những thập niên gần đây, sự phát triển của khoa học công nghệ
mà đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông đã tạo ra một cuộc cách
mạng trong thương mại. Các phương pháp kinh doanh truyền thống đã và
đang dần dần được thay thế bằng một phương pháp mới. Đó chính là thương
mại điện tử, được phát triển trên nền tảng công nghệ thông tin và internet.
Thương mại điện tử đã đưa ra một giải pháp hữu hiệu trong trao đổi
thông tin, hàng hoá, dịch vụ và mở rộng quy mô thị trường, thị trường không


biên giới. Thương mại điện tử đã trở thành động lực cho một cuộc cách mạng
trong ngành ngân hàng hướng tới một hệ thống thanh toán phù hợp với yêu
cầu của thị trường thương mại điện tử. Điều này đã tạo ra một dịch vụ ngân
hàng mới, dịch vụ ngân hàng điện tử.
Ngân hàng điện tử đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của môi
trường kinh doanh hiện đại, cung cấp các dịch vụ theo phương thức 24/7.
Khách hàng có thể tiến hành phần lớn các công việc như tra cứu cân đối tài
khoản, chuyển vốn và thanh toán hoá đơn… trên internet một cách nhanh
chóng, tiện lợi mà không phải đến ngân hàng. Đây là một trong những ưu thế
hơn hẳn so với ngân hàng truyền thống.
Ngân hàng điện tử không chỉ được quan tâm phát triển ở châu Âu, Mỹ,
Nhật Bản mà còn ở cả những nước đang phát triển… Công nghệ tiên tiến này
ngày càng được nhiều thiết chế tài chính sử dụng nhằm giảm bớt chi phí, rút
ngắn quá trình thao tác, cải thiện tính uyển chuyển của các giao dịch kinh doanh.
Việt Nam có một môi trường tốt cho việc phát triển ngân hàng điện tử. Dân
số trẻ với 65% dân số là dưới 30 tuổi, dễ thích nghi nhanh với các công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến nhất; với sự khuyến khích và hỗ trợ của Chính phủ, các ngân hàng
đang đẩy mạnh kế hoạch liên kết với nhau. Chia sẻ kinh nghiệm và xây dựng
4
tiêu chuẩn chung để việc giao dịch ngân hàng trực tuyến trở nên đơn giản hơn và
gần gũi, dễ sử dụng hơn cho khách hàng. Chính phủ Việt Nam cũng có nhiều nỗ
lực thúc đẩy công nghệ thông tin phát triển bằng việc đào tạo nhân lực, giảm giá
cước truy cập Internet.
Đứng trược sự cạnh tranh ngày càng gay gắt không chỉ của các ngân
hàng nước ngoài mà còn của các tổ chức tài chính khác, ngành ngân hàng của
Việt Nam đã có những bước đi mạnh mẽ, trong đó có sự xuất hiện và phát
triển các dịch vụ ngân hàng điện tử.
Năm 2005, Ngân hàng cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) chính thức phát
triển các dịch vụ ngân hàng điện tử bằng việc phát hành thẻ và các điểm chấp
nhận thẻ. Các năm tiếp theo, ngân hàng đã cung cấp các dịch ngân hàng điện

tử rất cơ bản như dịch vụ ngân hàng qua điện thoại, dịch vụ ngân hàng qua tin
nhắn, dịch vụ ngân hàng qua internet và thu được kết quả khả quan. Tuy
nhiên, Lãnh đạo Habubank đã quan tâm và đầu tư phát triển dịch vụ ngân
hàng điện tử, nhưng chưa đưa ra được một lộ trình phát triển phù hợp. Do đó,
việc nghiên cứu “Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng cổ phần
Nhà Hà Nội” là một yêu cầu khách quan và tất yếu.
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về các dịch
vụ ngân hàng điện tử, vai trò của chúng đối với các ngân hàng và khuynh
hướng phát triển trong thời gian tới. Đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ
ngân hàng điện tử ở Habubank, đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển dịch
vụ ngân hàng điện tử trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các dịch vụ ngân hàng điện tử tại
Habubank. Không gian nghiên cứu: các dịch vụ ngân hàng điện tử của
Habubank. Thời gian nghiên cứu từ 2005 - 2008 và định hướng đến 2015.
Luận văn có những đóng góp cả về lý luận và thực tiễn trong công tác
5
nghiên cứu về phát triển ngân hàng điện tử thông qua việc hệ thống hoá
những vấn đề lý luận cơ bản về các dịch vụ ngân hàng điện tử, vai trò của
chúng đối với ngân hàng và xu hướng phát triển; đề xuất các giải pháp thúc
đẩy phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại Habubank trong thời gian tới;
chia sẻ bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp cổ phần trung bình và nhỏ
trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
1.1. SỰ THAY ĐỔI CƠ BẢN TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG VÀ KHÁI
NIỆM DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là ngành công
nghệ thông tin đã tác động mạnh đến mọi mặt hoạt động của đời sống, kinh tế
- xã hội, làm thay đổi nhận thức và phương pháp sản xuất kinh doanh của

nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế khác nhau, trong đó có lĩnh vực hoạt động
ngân hàng. Điều này dẫn đến việc xuất hiện một phương thức giao dịch mới
trong ngành ngân hàng, đó là giao dịch điện tử.
Là kết quả tất yếu của quá trình phát triển công nghệ thông tin, được ứng
dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các dịch vụ của ngân hàng điện
tử được các ngân hàng trên thế giới phát triển mạnh. Thuật ngữ "Ngân hàng
điện tử" đối với nhiều người có vẻ khó hiểu và xa lạ. Thực ra rất nhiều ứng
dụng của ngân hàng điện tử hiện đang được sử dụng, phục vụ khách hàng như
rút tiền từ một máy rút tiền tự động (ATM), trả tiền cho hàng hoá và dịch vụ
bằng thẻ tín dụng, kiểm tra số dư tài khoản qua mạng hay điện thoại…
Phát triển các dịch vụ của ngân hàng điện tử là xu hướng tất yếu, mang
tính khách quan trong nền kinh tế hiện đại, trong thời đại hội nhập kinh tế
quốc tế. Lợi ích đem lại của ngân hàng điện tử là rất lớn cho khách hàng,
ngân hàng và cho nền kinh tế, nhờ tính tiện ích, tiện lợi, nhanh chóng, chính
xác và bảo mật.
Các ngân hàng và các tổ chức tài chính trên thế giới ngày càng nhận thấy
vai trò quan trọng của phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong việc như
củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Ngân hàng điện tử tiếng Anh là Electronic Banking (e - banking). Có rất
7
nhiều cách diễn đạt khác nhau về ngân hàng điện tử, song nhìn chung ngân
hàng điện tử được hiểu là một loại hình thương mại về tài chính ngân hàng có
sự trợ giúp của công nghệ thông tin, đặc biệt là máy tính và công nghệ mạng.
Ngân hàng điện tử là hình thức thực hiện các giao dịch tài chính ngân
hàng thông qua các phương tiện điện tử.
Ngân hàng điện tử được định nghĩa như là một phương thức cung cấp
các sản phẩm mới và sản phẩm truyền thống đến người tiêu dùng thông qua
con đường điện tử và các kênh truyền thông tương tác.
Theo khoản 6 và khoản 10 điều 4 Luật giao dịch điện tử được Quốc hội
Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005, giao dịch điện tử là giao dịch được

thực hiện bằng phương tiện điện tử. Trong đó, phương tiện điện tử là phương
tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền
dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.
Nhận thấy khái niệm giao dịch điện tử không chỉ giới hạn trong phạm vi
mạng Internet và các mạng thông tin khác, mà còn mở rộng ra đối với tất cả
các giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử. Do đó, giao dịch điện
tử trong dịch vụ ngân hàng là giao dịch bằng phương tiện điện tử trong dịch
vụ ngân hàng, nói cách khác là dịch vụ ngân hàng được giao dịch bằng
phương tiện điện tử (gọi tắt là “dịch vụ ngân hàng điện tử”). Do đó, dịch vụ
ngân hàng điện tử là các dịch vụ ngân hàng được giao dịch bằng phương
tiện điện tử.
Các nghiên cứu về thị trường ngân hàng còn cho thấy rằng đối tượng
khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử là một thế hệ khách hàng mới,
có trình độ học vấn cao, và đòi hỏi cao về các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Người với máy tính điện tử
(mẫu biểu điện tử, Web)
Người với người
(Điện thoại, thư điện tử, Fax)
Máy tính điện tử với
máy tính điện tử
(Thẻ, ATM)
Máy tính điện tử với người
(Fax, thư điện tử)
8

Sơ đồ 1.1: Giao dịch ngân hàng điện tử
1.2. CÁC LOẠI HÌNH DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1.2.1. Thanh toán thẻ
Dịch vụ chấp nhận và thành toán thẻ bắt đầu xuất hiện từ năm 1992.
Xuất phát từ nhu cầu của khách du lịch tới Việt Nam. Họ mang theo thẻ tín

dụng quốc tế: Visa, Mastercard, Amex, JCB, Dinner Club Các ngân hàng
cung cấp dịch vụ rút tiền bằng thẻ tín dụng đầu tiên là Ngân hàng Thương mại
cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam (Vietinbank).
Tiếp theo là sự xuất hiện các đại lý ngân hàng thanh toán thẻ. Là những
địa điểm có liên quan tới dịch vụ du lịch như sân bay, phòng vé máy bay, nhà
hàng, khách sạn, cửa hàng bán đồ lưu niệm. Ngân hàng ký một hợp đồng
thanh toán thẻ với các doanh nghiệp này. Ngân hàng tiến hành lắp đặt tại các
đại lý thiết bị điện tử chấp nhận thanh toán thẻ. Nhờ vậy khách du lịch nước
ngoài có thể trả cho hàng hoá hoặc dịch vụ bằng thẻ tín dụng.
Máy thanh toán thẻ điện tử là một thiết bị đọc từ được kết nối với mạng
9
ngân hàng chấp nhận thẻ và các ngân hàng phát hành thẻ trên thế giới. Nó cho
phép đọc và truyền các thông tin của chủ sở hữu thẻ về tới các ngân hàng phát
hành thẻ. Các giao dịch tài chính nhờ vậy mà được thực hiện và ghi lại trên tài
khoản chủ sở hữu thẻ tại ngân hàng phát hành thẻ.
Các đại lý thanh toán thẻ chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn và các
địa điểm du lịch nổi tiếng như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Huế, Đà
Nẵng, Nha Trang, Thành Phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vũng Tàu.
Dịch vụ chấp nhận thẻ là dịch vụ bán lẻ, lợi nhuận không cao bằng dịch
vụ tín dụng, song tỷ lệ rủi ro rất thấp. Với lượng khách du lịch tới Việt Nam
ngày càng tăng, đây vẫn là loại hình dịch vụ đáng để các ngân hàng khai thác.
Sơ đồ 1.2: Giao dịch bằng thẻ
MẠNG RIÊNG
NGÂN HÀNG
HỆ THỐNG
TTDT
INTERNET
THANH TOÁN
CHỦ THẺ

ĐẠI LÝ THANH
TOÁN THẺ
NGÂN HÀNG PHÁT
HÀNH THẺ
NGÂN HÀNG CHẤP
NHẬN THẺ
10
1.2.2. Dịch vụ phát hành thẻ và hệ thống máy ATM
Loại hình thẻ được các ngân hàng ở Việt Nam phát hành bao gồm 03
loại thẻ sau đây:
- Thẻ tín dụng là loại thẻ cho phép chủ thẻ thanh toán tiền hàng hóa, dịch
vụ, rút tiền mặt trong hạn mức tín dụng được ngân hàng phát hành thẻ chấp
thuận theo hợp đồng. Thẻ tín dụng được phân làm hai loại: tín chấp và thế
chấp (hoặc ký quĩ), dựa trên đó ngân hàng sẽ cấp hạn mức tín dụng cho chủ
thẻ. Ngân hàng sẽ không trừ dần các khoản chi tiêu của chủ thẻ vào số tiền ký
quĩ mà hằng tháng chủ thẻ sẽ sử dụng nguồn tiền khác của mình để thanh toán
lại cho ngân hàng, tối thiểu 20% số tiền sử dụng, phần còn lại trả lãi theo lãi
suất của ngân hàng.
- Thẻ thanh toán (thẻ ghi nợ) là loại thẻ được chủ thẻ sử dụng để thanh
toán tiền hàng hóa, dịch vụ, rút tiền mặt trong phạm vi số dư trên tài khoản
tiền gửi của mình tại ngân hàng phát hành thẻ.
- Thẻ quốc tế (thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng quốc tế) là thẻ do ngân hàng
phát hành thẻ tại Việt Nam phát hành, được sử dụng, thanh toán trong và
ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc thẻ phát hành ở nước ngoài nhưng sử dụng,
thanh toán tại Việt Nam. Ví dụ như thẻ Visa, MasterCard, American Express.
Thẻ ghi nợ ít rủi ro hơn cho cả ngân hàng lẫn chủ thẻ. Song có hạn chế
là: Nó chỉ có thể chấp nhận bởi các thiết bị thanh toán thẻ của chính ngân
hàng phát hành hoặc một số rất hạn chế các ngân hàng khác. Trong khi đó thẻ
tín dụng được chấp nhận phổ biến trên toàn thế giới.
Hệ thống chấp nhận thẻ được các ngân hàng xây dựng ở Việt Nam bao

gồm ATM (ATM), máy chấp nhận thẻ (POS). Máy ATM, POS được kết nối
mạng với các tổ chức thẻ và các ngân hàng, cho phép đọc và chuyển tải thông tin
của chủ thẻ tới ngân hàng phát hành thẻ. Nhờ vậy mà chủ thẻ có thể rút tiền từ
tài khoản tín dụng, vãng lai hay tiết kiệm hoặc thanh toán hoá đơn hàng hoá.
11
1.2.3. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại và internet
1.2.3.1. Dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home-banking)
Dịch vụ ngân hàng tại nhà là một loại hình dịch vụ của ngân hàng, phục
vụ tại nhà và được ứng dụng rộng rãi ở các nước phát triển. Ở Việt Nam, dịch
vụ này cho phép khách hàng xem bảng liệt kê giao dịch, kiểm tra số dư tài
khoản, đặc biệt là thực hiện các giao dịch quan trọng với ngân hàng như
chuyển khoản, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn
Dịch vụ ngân hàng tại nhà phát triển dựa trên mạng Intranet do ngân
hàng xây dựng riêng và khách hàng phải đăng ký số điện thoại để kết nối với
hệ thống này. Để được công nhận các giao dịch, giám đốc doanh nghiệp và kế
toán trưởng sẽ phải đăng ký chữ ký điện tử với ngân hàng.
Với dịch vụ này khách hàng chỉ cần ở nơi có số điện thoại đã đăng ký,
bằng vài thao tác trên máy tính có thể thực hiện một lệnh chuyển tiền đến
ngân hàng rất nhanh mà không phải cất công đến tận ngân hàng. Tại ngân
hàng, hệ thống dịch vụ ngân hàng tại nhà sẽ kiểm soát xem có đầy đủ 2 chữ
ký xác nhận rồi mới thực hiện lệnh giao dịch. Do những đặc thù của loại hình
này nên số khách hàng hiện nay chỉ mới thu hẹp trong phạm vi những tổ
chức, doanh nghiệp quy mô lớn có giao dịch thường xuyên với ngân hàng.
1.2.3.2. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Phone - banking)
Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại là hệ thống tự động trả lời hoạt động
24/24, khách hàng nhấn vào các phím trên bàn phím điện thoại theo mã do
ngân hàng quy định trước, để yêu cầu hệ thống trả lời thông tin cần thiết.
Dịch vụ ngân hàng được cung cấp qua một hệ thống máy chủ và phần
mềm quản lý đặt tại ngân hàng, liên kết với khách hàng thông qua tổng đài
của dịch vụ. Thông qua các phím chức năng được định nghĩa trước, khách

hàng sẽ được phục vụ một cách tự động hoặc thông qua nhân viên tổng đài.
Khi đăng ký sử dụng dịch vụ ngân hàng qua điện thoại, khách hàng sẽ
12
được cung cấp một mã khách hàng, hoặc mã tài khoản và tuỳ theo dịch vụ
đăng ký, khách hàng có thể sử dụng nhiều dịch vụ khác nhau.
1.2.3.3. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động (Mobile - banking)
Cùng với sự phát triển của mạng thông tin di động, các ngân hàng tại Việt
Nam đã nhanh chóng ứng dụng công nghệ mới này vào hoạt động trong ngân
hàng. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động là một kênh phân phối sản
phẩm dịch vụ ngân hàng qua hệ thống mạng điện thoại di động. Về nguyên tắc,
dịch vụ này chính là quy trình thông tin được mã hoá, bảo mật và trao đổi giữa
trung tâm xử lý của ngân hàng và thiết bị di động của khách hàng.
Dịch vụ này hiện chủ yếu cung cấp một số thông tin cho khách hàng như
số dư tài khoản, liệt kê giao dịch, các điểm đặt ATM
1.2.3.4. Dịch vụ ngân hàng qua internet (Internet - banking)
Dịch vụ ngân hàng qua internet là loại hình phục vụ giúp khách hàng
giao dịch với ngân hàng tại nhà 24/24 giờ trong ngày. Để có thể sử dụng dịch
vụ, khách hàng đăng ký với ngân hàng để được cấp mật khẩu và mã truy cập.
Qua internet, khách hàng truy cập trang chủ của ngân hàng và thực hiện các
giao dịch tài chính, tìm kiếm các thông tin, liệt kê các giao dịch, thực hiện các
thanh toán tiền điện, nước, tiền bưu điện, đóng các khoản thuế Khi các điều
kiện kỹ thuật và tính pháp lý thông qua các giao dịch điện tử được thừa nhận
và được thực hiện, dịch vụ này giúp việc minh bạch hóa tài chính, và chống
thất thoát, tham nhũng tốt hơn.
Dịch vụ này ở nước ta hiện mới có các giao dịch như: thông tin về tiền
gừi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, các sản phẩm tín dụng, các dịch vụ thanh
toán, dịch vụ thẻ, chuyển tiền cùng với các mục thông tin về lãi suất, tỷ giá,
các loại phí dịch vụ giao dịch ngân hàng.
1.2.4. Thị trường điện tử liên ngân hàng
13

1.2.4.1. Hệ thống liên ngân hàng trung ương - Interbank
Trong nỗ lực cải thiện hệ thống thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã đưa vào hoạt động hệ thống thanh toán liên ngân hàng, cho phép kết
nối 100 chi nhánh các ngân hàng trong cả nước. Hệ thống này có rất nhiều
điểm tiến bộ so với hệ thống bù trừ giấy tờ trì trệ và cồng kềnh Tốc độ giao
dịch nhanh hơn, an toàn và thuận tiện hơn. Với hệ thống này, thời gian thực
hiện một giao dịch rút ngắn chỉ còn 10 giây. Trong thời gian ngắn ngủi đó,
lệnh phải chuyển qua trung gian là Ngân hàng Nhà nước để thanh toán bù trừ,
xong mới được chuyển đến từng ngân hàng và rồi chia về từng tài khoản của
người nhận. Trước đây các thủ tục này được làm thủ công thì chuyển một
món tiền trong phạm vi thành phố Hồ Chí Minh mất 2 - 3 ngày. Chuyển tiền
ngoài tỉnh thời gian còn lâu hơn.
Tuy nhiên, còn nhiều khó khăn. Đó là vẫn chưa có một quy định vận
hành, nhằm đảm bảo cho hệ thống này hoạt động hoàn hảo. Hơn thế nữa, vấn
đề thiếu nhân viên chuyên nghiệp vận hành hệ thống đang được đặt ra.
1.2.4.2. Hệ thống thanh toán ngân hàng nội bộ - Intrabank
Song song với hệ thống liên ngân hàng trung ương, các ngân hàng
thương mại cũng tiến hành hiện đại hoá hệ thanh toán nội bộ, cho phép giao
dịch trực tuyến trên toàn hệ thống ngân hàng. Dẫn đầu là các ngân hàng
thương mại nhà nước. Đến nay, hầu hết các ngân hàng đô thị đã hoàn thành
xây dựng hệ thống thanh toán nội bộ, cho phép khách hàng kiểm tra, thanh
toán trên toàn khoản của họ qua các chi nhánh khác nhau. Tuy nhiên, đó chỉ là
những hệ thống thanh toán biệt lập. Các tiện ích mới trong thanh toán còn hạn
chế, các tiện ích thiết thực và phổ biến (như thanh toán tiền điện nước, điện
thoại) chưa được khai thác mạnh trên thực tế.
1.2.4.3. Hệ thống liên ngân hàng quốc tế - SWIFT
14
Đây là hệ thống, nơi diễn ra hàng ngàn trao đổi thông tin, hoạt động có
liên quan đến chuyển tiền qua các quốc gia, mở thư tín dụng cho xuất nhập
khẩu hàng hoá. Hiện tại có 36 ngân hàng (bao gồm 151 chi nhánh) tham gia

Hệ thống liên ngân hàng quốc tế (SWIFT), trong đó có 15 ngân hàng Việt
Nam và 21 ngân hàng nước ngoài.
Bằng việc nâng các cấp hệ thống liên ngân hàng trong nước và quốc tế,
thanh toán của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã, đang được cải thiện theo
chiếu hướng nhanh, gọn và hiệu quả hơn.
1.2.4.4. Hệ thống chuyển mạnh thẻ, kết nối ATM
Việc thanh toán điện tử liên ngân hàng không chỉ thuận lợi cho doanh
nghiệp mà còn là tiết kiệm chi phí đầu tư cho bản thân các ngân hàng. Một ví
dụ, hiện nay việc dùng tài khoản bằng thẻ, nếu dùng của ngân hàng nào thì rút
tiền tại điểm có máy giao dịch thẻ của ngân hàng đó. Điều này dẫn đến sự đầu
tư tốn kém, trong khi vốn của các ngân hàng ở nước ta chưa cao.
Sau một quá trình phát triển tự phát đã hình thành 2 xu hướng liên minh,
liên kết mạng lưới thanh toán thẻ. Hiện tại Việt Nam có 3 đơn vị lớn nhất
đang làm dịch vụ chuyển mạch, thanh toán bù trừ và quyết toán các giao dịch
thẻ có tính chất đa phương, đó là Công ty cổ phần dịch vụ thẻ Smartlink; Liên
minh thẻ của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á (VNBC) và Công ty cổ
phần chuyển mạch tài chính quốc gia (Banknetvn). Việc tồn tại nhiều tổ chức
thực hiện chuyển mạnh và bù trừ các giao dịch thẻ một mặt tăng khả năng
cạnh tranh giữa các ngân hàng, nhưng mặt khác khiến tính thống nhất chưa
cao (đôi khi có những hình thức cạnh tranh không lành mạnh) làm giảm tốc
độ tăng trưởng về thẻ trong nền kinh tế và lãng phí trong đầu tư. Mặc dù,
Công ty cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia và Công ty cổ phần dịch vụ
thẻ Smartlink đã liên kết hệ thống ATM với nhau, nhưng tiến hành nhất thể
hoá hệ thống thanh toán thẻ trên cơ sở liên kết mạng cục bộ của các ngân
15
hàng thương mại trong quan hệ thanh toán, trao đổi hàng hoá dịch vụ trên thị
trường còn rất khó khăn, phức tạp. Vì vậy, việc triển khai thực hiện Đề án xây
dựng Trung tâm chuyển mạnh thẻ thống nhất là mục tiêu dài hạn để phát triển
và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, tạo điều kiện xây dựng nền tảng
kỹ thuật cho việc triển khai các phương tiện thanh toán hiện đại tại Việt Nam.

1.3. NHỮNG TIẾN BỘ DO DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ MANG LẠI
1.3.1. Lợi ích cho ngân hàng
1.3.1.1. Giảm chi phí tăng hiệu quả kinh doanh
Ngân hàng điện tử giúp giảm chi phí trước hết là chi phí văn phòng. Các
văn phòng ít giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều. Mạng, máy chủ và các
máy tính cá nhân giúp rút ngắn thời gian làm thủ tục, tìm kiếm và chuyển
giao tài liệu. Tiếp đến là chi phí nhân viên. Một ATM có thể làm việc 24h/7
ngày và thay cho rất nhiều nhân viên.
Thông qua trang chủ Ngân hàng, khách hàng có thể tìm hiểu thông tin,
giao dịch thường xuyên hơn, cập nhật hơn, do vậy làm giảm chi phí bán hàng
và tiếp thị.
Hệ thống mạng loại bỏ sự ràng buộc về không gian và thời gian. Các
ngân hàng có thể mở nhiều chi nhánh ở nhiều nơi khác nhau mà vẫn theo dõi
và quản lý tốt hoạt động của các chi nhánh.
1.3.1.2. Đa dạng hoá dịch vụ và sản phẩm
Nói đến dịch vụ ngân hàng, người ta nghĩ ngay đến việc vay, cho vay,
gửi tiền và các dịch vụ bán buôn khác như thanh toán xuất nhập khẩu và mua
bán ngoại tệ. Do vậy mà sự khác biệt giữa dịch vụ ngân hàng này với ngân
hàng khác là rất ít.
Ngày nay, dịch vụ ngân hàng đang vươn tới từng người dân. Đó là dịch
vụ ngân hàng tiêu dùng và bán lẻ. Lợi nhuận thu được từ dịch vụ bán lẻ không
thể bằng bán buôn. Hơn thế nữa, chi phí cho việc cung cấp một dịch vụ tài
16
khoản của một cá nhân cũng chẳng nhỏ hơn cho một công ty là bao. Ngân
hàng điện tử, với sự trợ giúp của công nghệ thông tin cho phép tiến hành các
giao dịch bán lẻ với tốc độc cao và liên tục. Nếu như trước kia các ngân hàng
chỉ phục vụ một số lượng nhất định các công ty, thì nay, một thị trường hàng
tỷ dân đang mở ra trước mắt họ. Và thế là các ngân hàng đua nhau hiện đại
hoá hệ thống tin học của họ, tung ra thị trường một loạt các dịch vụ mới như
dịch vụ ngân hàng qua điện thoại, dịch vụ ngân hàng qua internet, chuyển và

rút tiền tự động làm cho dịch vụ ngân hàng trở nên phong phú và phổ biến
rộng rãi.
Với mô hình ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa năng thì khả năng phát
triển, cung ứng các dịch vụ cho nhiều đối tượng khách hàng, nhiều lĩnh vực
kinh doanh là rất cao. Đặc biệt, ngân hàng điện tử có thể cung cấp dịch vụ
chéo. Theo đó các ngân hàng có thể liên kết với các công ty bảo hiểm, công ty
chứng khoán, công ty tài chính khác để đưa ra các sản phẩm tiện ích nhằm
đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng về các dịch vụ liên quan: ngân hàng,
bảo hiểm, đầu tư, chứng khoán Khả năng giữ và thu hút khách hàng của
ngân hàng điện tử cao. Chính nhờ những tiện ích có được từ công nghệ ứng
dụng (phần mềm tối ưu, nhà cung cấp dịch vụ mạng tốt, dịch vụ internet
thông thoáng) sẽ thu hút và giữ khách hàng sử dụng, quan hệ giao dịch với
ngân hàng, trở thành khách hàng truyền thống của ngân hàng.
1.3.1.3. Tăng cường khả năng cạnh tranh và tồn tại
Ngân hàng điện tử giúp các ngân hàng tạo và duy trì một hệ thống khách
hàng rộng rãi và bền vững. Khách hàng sẵn sàng từ bỏ một ngân hàng mà phải
xếp hàng rất lâu chờ rút tiền để đi tới một máy ATM của một ngân hàng khác và
thực hiện nhiệm vụ này trong vài phút. Khách hàng sẽ tới một ngân hàng sẵn
sàng giúp thực hiện giao dịch với đối tác nhanh gọn và chính xác.
Phát triển ngân hàng điện tử giúp các ngân hàng thích ứng nhanh chóng
17
với những thay đổi của thị trường, điều chỉnh kịp thời phí, lãi suất, tỷ giá phù
hợp với diễn biến của tình hình thị trường. Hạn chế rủi ro do biến động về giá
cả của thị trường gây ra, mang lại lợi ích kinh tế cho ngân hàng và khách hàng
tham gia sử dụng dịch vụ của ngân hàng điện tử. Đây là lợi ích vượt trội so
với ngân hàng truyền thống.
Sự kết hợp hài hoà trong quá trình phát triển các hoạt động dịch vụ ngân
hàng truyền thống và phát triển ngân hàng điện tử, cho phép các tổ chức tín
dụng tiếp cận nhanh với các phương pháp quản lý hiện đại giúp các tổ chức
tín dụng đa dạng hoá sản phẩm, tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả hoạt động

và đặc biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế hội nhập.
Xét về mặt kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng sẽ nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn. Thông qua các dịch vụ của ngân hàng điện tử, các lệnh về chi trả,
nhờ thu của khách hàng được thực hiện nhanh chóng, tạo điều kiện cho vốn
chu chuyển nhanh, thuận lợi, thực hiện tốt quan hệ giao dịch, trao đổi tiền -
hàng. Qua đó đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tiền tệ, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn. Đây là lợi ích mà các giao dịch kiểu ngân hàng truyền thống khó
có thể đạt được với tốc độ nhanh, chính xác so với một ngân hàng điện tử.
1.3.2. Lợi ích cho khách hàng
Ưu điểm lớn nhất của dịch vụ ngân hàng điện tử dành cho khách hàng
chính là sự tiện nghi và luôn sẵn sàng của dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng điện
tử với công cụ chủ yếu là internet/web và các thiết bị điện tử, đem lại sự hiện
diện toàn cầu cho người cung cấp và sự lựa chọn toàn cầu cho người tiêu
dùng, bỏ qua khoảng cách địa lý giữa các quốc gia. Một ngân hàng có thể
cung cấp dịch vụ cho nhiều người ở bất cứ nơi nào trên thế giới tại bất cứ thời
điểm nào. Một khách hàng có thể kiểm tra và quản lý tài khoản của mình vào
bất cứ lúc nào. Dĩ nhiên chi phí cho dịch vụ này rất rẻ, không chỉ vì số tiền
hợp lý phải trả cho dịch vụ mà còn vì tiết kiệm thời gian đi lại và hoàn tất các
18
thủ tục giấy tờ mà các giao dịch vẫn được thực hiện an toàn và chính xác.
Bây giờ, khách hàng chỉ cần gửi một tin nhắn vì phải ra ngoài trong giờ
làm việc chỉ để đóng tiền điện thoại là một ưu thế rõ rệt nhất của ngân hàng
điện tử. Khách hàng có thể tiếp cận với ngân hàng điện tử mọi lúc mọi nơi.
Bên cạnh đó, dịch vụ ngân hàng điện tử với công nghệ hiện đại đã tiết kiệm
được thời gian và giảm chi phí dịch vụ cho khách hàng. Ngoài ra, khách hàng
được ngân hàng phục vụ tận nơi với những thông tin nóng hổi nhất như biến
động tỷ giá, tra cứu thông tin tài chính của đối tác … Và hơn nữa, với những
tiêu chuẩn chuẩn hoá, khách hàng được phục vụ tận tuỵ và chính xác thay vì
phải tuỳ thuộc vào thái độ phục vụ khác nhau của các nhân viên ngân hàng.
1.3.3. Lợi ích đối với nền kinh tế

Ngoài những lợi ích chính đối với các bên tham gia ngân hàng điện tử nói
trên, ngân hàng điện tử còn đem lại những lợi ích to lớn tiềm tàng đối với toàn
thể nền kinh tế.
Việc tiêu dùng chủ yếu bằng tiền mặt có rất nhiều hạn chế. Nhà nước
phải bỏ ra một chi phí nhất định hàng năm để in ấn và quản lý số lượng tiền in
ra. Việc khó xác định chính xác lượng tiền lưu hành trong dân khiến chính
phủ gặp nhiều khó khăn trong việc đưa ra các chính sách tài khoá nhằm đảm
bảo một thị trường tài chính ổn định. Ngân hàng điện tử với sự phổ biến sử
dụng tài khoản cá nhân và tiền điện tử sẽ góp phần không nhỏ trong việc tháo
gỡ khó khăn này. Chính tiền điện tử và giao dịch tài khoản làm cải thiện khả
năng thanh toán trong thị trường tài chính.
Ngân hàng điện tử giúp cho nhà nước có thông tin đầy đủ về việc thực
hiện thu nộp thuế một cách nhanh chóng và cập nhật, đồng thời kiểm soát tốt
thu nhập của cá nhân, tổ chức, từ đó giúp chống tham nhũng có hiệu quả.
Cùng với xu hướng toàn cầu hoá và sự phát triển rộng khắp trên toàn thế
giới của thương mại điện tử, ngân hàng điện tử chính là chiếc cầu nối cho sự
19
hội nhập của nền kinh tế trong nước với nền kinh tế quốc tế. Ngân hàng điện
tử góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế thương mại, dịch vụ và du lịch
phát triển, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với khu vực và
thế giới, đặc biệt là thương mại điện tử phát triển.
Phát triển ngân hàng điện tử đã tạo ra một phương thức hợp tác kinh
doanh mới trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính: Các hãng viễn thông cung
cấp các thiết bị cầm tay cùng với đầy đủ các dịch vụ mạng còn các ngân hàng
sẽ quản lý tiền, quản lý các hiệp hội thẻ và cung cấp dịch vụ trực tuyến. Ngân
hàng sẽ thu được nhiều phí giao dịch và lãi từ việc cung cấp tín dụng qua thẻ;
các hãng viễn thông lại thu được phí sử dụng dịch vụ viễn thông.
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN
HÀNG ĐIỆN TỬ
Tham gia dịch vụ ngân hàng điện tử có ba thành phần chính. Đó là hệ

thống ngân hàng thương mại, người tiêu dùng và các quy định của nhà nước.
Đây chính là ba nhân tố ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử.
1.4.1. Ngân hàng
1.4.1.1. Vai trò của các ngân hàng thương mại
Hệ thống ngân hàng thương mại là người cung cấp dịch vụ ngân hàng
điện tử. Do vậy họ giữ vai trò chính. Dịch vụ ngân hàng điện tử như là một
cuộc cải cách tài chính do các ngân hàng tiến hành. Nó đã mang lại nhiều dịch
vụ có khả năng sinh lời lớn.
Rất nhiều các ngân hàng và các tổ chức tài chính đã nhận ra rằng phương
thức cũ mà họ đang sử dụng trong kinh doanh không còn có khả năng mang
lại lợi nhuận cao. Các dịch vụ tài chính mà họ bán ra trên thị trường không
còn hấp dẫn người tiêu dùng. Thêm vào đó, các quy định về thủ tục tài chính
đã trở nên nặng nề. Để tồn tại trong môi trường tài chính mới, các ngân hàng
đã phải tìm kiếm và phát triển những sản phẩm dịch vụ mới. Cải cách trong
20
ngân hàng là tất yếu nhằm đáp lại sự thay đổi của nhu cầu khách hàng.
Trong khi đó, sự phát triển công nghệ thông tin đang mang lại cho
thương mại nói chung và ngành ngân hàng nói riêng những cơ hội lớn lao.
Mạng và hệ thống máy tính không những giúp cho ngân hàng giảm chi phí
giao dịch mà còn tạo điều kiện cho họ có khả năng đưa ra những dịch vụ mới.
Do vậy, cải cách ngân hàng cũng là sự đáp lại sự thay đổi của cung.
1.4.1.2. Hạ tầng cơ sở công nghệ
Một trong những yếu tố dẫn đến thành công của ngân hàng điện tử là
phải xây dựng một cơ sở hạ tầng hiện đại ở một mức nhất định. Cơ sở này
dựa trên tiến bộ của công nghệ máy tính, công nghệ thông tin viễn thông.
Ngân hàng điện tử phát triển trên cơ sở kỹ thuật số hoá, công nghệ thông
tin, mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vì thế chỉ có thể thực sự có và
thực sự tiến hành ngân hàng điện tử hiệu quả khi đã có một hạ tầng cơ sở
công nghệ thông tin vững chắc.
Ngân hàng điện tử bao gồm hệ thống điện thoại, máy tính, máy chủ, mạng

nội bộ, mạng liên nội bộ, thiết bị thanh toán điện tử (ATM, POS) và các dịch
vụ truyền thông (thuê bao điện thoại, phí nối mạng, truy cập mạng).
Chi phí phần cứng cho một hệ thống máy tính văn phòng, máy chủ,
mạng nội bộ khoảng 100.000 USD. Một máy POS đặt tại các điểm bán hàng
giá khoảng 50 USD. Một máy ATM giá khoảng 40.000 USD. Chi phí phần
mềm cho hệ thống này khoảng 300.000 USD. Còn phải kể đến chi phí tham
gia các tổ chức thanh toán quốc tế, chi phí bảo dưõng, nâng cấp hệ thống.
Ước tính tổng vốn đầu tư ban đầu lên tới 10 triệu USD cho một ngân hàng.
Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin này chỉ có thể có và hoạt động tin cậy
trên nền tảng một nền công nghiệp điện năng, bưu chính viễn thông đảm bảo
cung cấp điện năng, thông tin liên lạc đầy đủ, ổn định với mức giá hợp lý.
Thiết lập một nền công nghiệp như vậy năm ngoài tầm kiểm soát của các
21
ngân hàng. Nó đòi hỏi sự đầu tư cả về vốn lẫn thời gian của nhà nước. Điều
này đặc biệt khó khăn với các nước đang và kém phát triển.
1.4.1.3. Vấn đề an toàn và bảo mật
Giao dịch bằng phương tiện điện tử đòi hỏi rất cao về bảo mật và an toàn, nhất
là hoạt động qua mạng. Nhiều người sợ không dám mua bán qua mạng, thanh toán
bằng thẻ qua máy điện tử, máy rút tiền. Người mua thì lo các chi tiết của thẻ tín
dụng của mình bị lộ, và kẻ xấu sẽ lợi dụng mà rút tiền, người bán thì lo người mua
không thanh toán cho các hợp đồng hay giao dịch đã được ký kết theo kiểu điện tử.
Điều lo sợ ấy là có căn cứ, vì số vụ tấn công vào Internet hay các vụ làm
và sử dụng thẻ giả ngày càng gia tăng. "Giặc máy tính" dùng nhiều thủ đoạn
khác nhau: mạo quan hệ, bẻ mật khẩu, tạo vi rút máy tính, giả mạo địa chỉ
Internet, dập thẻ giả, móc nối với người bán hàng tạo ra các giao dịch "ảo"
Kỹ thuật mã hoá hiện đại, với khoá dài tối thiểu 1024 bit thậm chí 2048
bit cộng với các công nghệ SSL (Secure Socket Layer), SET (Secure
Electronic Transaction) đang giúp giải quyết vấn đề này. Các ngân hàng phát
hành thẻ đang khuyến khích phát hành và sử dụng thẻ có các "chip" điện tử
thay thế cho các dải từ. Một chiến lược về mã hoá và giải mã kèm theo các

chương trình bảo vệ an toàn thông tin cho ngân hàng và khách hàng luôn
được đặt ra và cập nhật.
1.4.1.4. Hệ thống tuyên truyền giáo dục khách hàng
Một nhân tố quan trọng khác dẫn đến phát triển ngân hàng điện tử thành
công là hệ thống phân phối sản phẩm, tuyên truyền và giáo dục khách hàng.
Điều này đòi hỏi một đội ngũ nhân viên tiếp thị chuyên nghiệp trang bị
với các kiến thức nhất định về tin học.
Với mục tiêu "giành lấy lòng tin của khách hàng", các ngân hàng phải
đặt ra một chiến lược tuyên truyền, quảng cáo, thực hiện, từng bước thuyết
phục khách hàng về tính an toàn và tiện lợi của dịch vụ ngân hàng điện tử.
22
1.4.2. Người tiêu dùng
1.4.2.1. Đặc điểm chung của người tiêu dùng sử dụng dịch vụ ngân hàng
điện tử
Ngân hàng điện tử chủ yếu phục vụ cho hệ thống khách hàng cá nhân
hay nói cách khác nó là hệ thống dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Những khảo sát gần đây cho thấy điển hình của khách hàng sử dụng dịch
vụ ngân hàng điện tử là những người có trình độ học vấn cao, trẻ và có thu
nhập tương đối cao. Với kiến thức tin học cao, khả năng tiếp thu nhanh những
vấn đề tiến bộ, họ là những người tham gia dịch vụ ngân hàng điện tử đầu
tiên. Đa phần trong số họ thuộc thành phần trí thức, những người thành đạt
trong sự nghiệp, những doanh nhân, tầng lớp trung lưu trong xã hội.
Giao dịch với họ thường có giá trị tương đối cao, rủi ro ít vì họ có học và có
thu nhập cao. Thứ nữa là cơ hội cung cấp dịch vụ trong một thời gian dài vì họ là
những người trẻ tuổi. Cuối cùng là họ là những người năng động, giao dịch
nhiều, cơ hội đi lại qua các quốc gia, nên ở điểm này, ngân hàng điện tử có thể
chứng minh tính ưu việt của nó đó là cung cấp dịch vụ liên tục và toàn cầu.
1.4.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới quyết định của người tiêu dùng
Trong quá trình sử dụng dịch vụ mới đưa vào thị trường, người tiêu dùng
phải trải qua các giai đoạn từ chỗ nhận thức sự sẵn có của sản phẩm, dịch vụ

tới việc sử dụng thử và cuối cùng là chấp nhận sản phẩm và dịch vụ đó.
Ngân hàng điện tử là một khái niệm rất mới đối với đại bộ phận người
tiêu dùng. Không phải ai cũng có cái nhìn đầy đủ về ngân hàng điện tử. Một
trong những trở ngại lớn nhất của ngân hàng điện tử là thái độ hoài nghi, lưỡng
lự khi chuyển đổi từ hình thức giao dịch cũ truyền thống sang hình thức mới.
Khách hàng sau khi đã nhận thức được ngân hàng điện tử họ sẵn lòng
dùng thử. Song, sẽ trở nên khó khăn cho họ khi hệ thống thanh toán ngân
hàng điện tử không ổn định và sẵn có. Một khách hàng sau khi mua thẻ tín
23
dụng sẽ thấy nghi ngờ dịch vụ ngân hàng điện tử nếu thẻ của họ thường xuyên
bị từ chối vì lý do trục trặc kỹ thuật của thiết bị thanh toán điện tử hay chán
nản vì không phải địa điểm bán hàng nào cũng sẵn có thiết bị chấp nhận thẻ
tín dụng. Họ sẽ rất bực mình khi kiểm tra số dư tài khoản qua điện thoại mà
điện thoại ngân hàng bị hỏng và vô cùng hoang mang số thẻ tín dụng bị đánh
cắp sau một lần mua hàng qua internet.
1.4.3. Các quy định của Nhà nước
Nhà nước đóng vai trò thiết lập "luật chơi". Do vậy, việc tạo ra một môi
trường canh tranh lành mạnh, một hành lang pháp lý và các quy định khung
có ảnh hưởng lớn tới các thành viên tham gia dịch vụ này, từ đó quyết định sự
phát triển nhanh và đúng hướng của dịch vụ ngân hàng điện tử.
Ngân hàng điện tử chỉ có thể thành công khi nhà nước đồng ý cho phép
tạo điều kiện và bảo vệ loại hình dịch vụ này
Trước hết chính phủ phải quyết định xem xét thương mại điện tử nói
chung và ngân hàng điện tử nói riêng là cơ hội hay hiểm họa. Điều đó không
dễ vì không phải quốc gia nào cũng đồng ý với ý tưởng "toàn cầu hoá". Ngay
như Pháp phải tới năm 1998 mới quyết định tuyên bố internet là một cơ hội.
Để thúc đẩy phát triển ngân hàng điện tử, những việc đầu tiên mà chính
phủ các nước phải làm là:
- Thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch ngân hàng điện tử;
- Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử (tức chữ ký dưới dạng số đặt

vào một thông điệp dữ liệu), chữ ký số hoá (tức biện pháp biến đổi nội dung
một thông điệp dữ liệu, khi dùng mã khoá để giải mới thu được nội dung thật
của thông điệp dữ liệu) và có các thiết chế pháp lý, cơ quan pháp lý thích hợp
cho việc xác nhận chữ ký điện tử và chữ ký số hoá.
- Bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử (bao gồm cả pháp chế hoá các tổ
chức phát hành và chấp nhận các loại thẻ thanh toán).
24
- Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm, chống gian lận.
Nhà nước sẽ phải định hình một chiến lược chung về hình thành phát
triển ngân hàng điện tử, tiếp đó là các chính sách, đạo luật và các quy định cụ
thể tương ứng được phản ảnh trong toàn bộ chỉnh thể của hệ thống luật.
1.5. PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI
1.5.1. Ngân hàng điện tử trên thế giới
Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin cùng với tiến trình
toàn cầu hoá đã tác động lớn tới ngành tài chính ngân hàng. Ngành ngân hàng
đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cho ra đời một loạt các dịch vụ sản
phẩm mới như tiền điện tử, ví điện tử. Đến lượt ngân hàng điện tử lại giúp
cho ngành ngân hàng vượt qua những hạn chế mà hình thức dịch vụ ngân
hàng truyền thống không thể làm được. Ngân hàng điện tử là một xu hướng
tất yếu nhằm tạo cho các ngân hàng sức cạnh tranh trong kỷ nguyên bùng nổ
công nghệ thông tin này. Ngân hàng điện tử chính là cuộc cách mạng trong
ngành ngân hàng.
Ngân hàng điện tử đã tìm ra thị trường đầy tiềm năng do những tiến bộ
của nó mang lại. Ngày nay, mỗi người mua hàng hoá hay dịch vụ, nhận tiền
lương thưởng chỉ cần ghi lại trong tài khoản của họ. Đồng tiền ngày nay đơn
giản chỉ là những thông tin được truyền tự động. Sự thống trị của đồng tiền
điện tử trên thị trường thương mại điện tử thế giới chính là bằng chứng của sự
phát triển ngân hàng điện tử.
Theo thống kê của International Data Corp (IDC), có tới 40 triệu người sử
dụng ngân hàng điện tử. Con số này dự tính lên tới 80 triệu người trong vòng vài

năm tới. Doanh số dịch vụ ngân hàng điện tử năm 1997 là 8 tỷ USD, 1998 là 14
tỷ USD, 1999 là 31 tỷ USD và tới 2002 là 90 tỷ USD, hiện 200 tỷ USD.
1.5.2. Dịch vụ ngân hàng điện tử ở một số nước
1.5.2.1. Mỹ
25

×