Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

luận án tiến sĩ dạy học cơ kỹ thuật theo lý thuyết học tập kiến tạo trong đào tạo giáo viên công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.15 MB, 157 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học s phạm hà nội
====== o0o ======
TRN TUYN
DY HC C K THUT
THEO Lí THUYT HC TP KIN TO
TRONG O TO GIO VIấN CễNG NGH
Chuyờn ngnh : Lý lun v PPDH b mụn K thut
cụng nghip
Mó s : 62.14.01.11
LUậN áN tiến sĩ giáo dục học
Ngi hng dn khoa hc:
1. TS. Nguyn Th Thu H
2. PGS.TS Nguyn Vn Bớnh
H NI - 2014
LI CAM OAN
H Ni - 2009
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Xin trân trọng cảm ơn !
Tác giả
Trần Tuyến
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn trân trọng tới:
Quý thầy, cô hướng dẫn khoa học:
1) TS Nguyễn Thị Thu Hà
2) PGS.TS Nguyễn Văn Bính
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả nhiều năm để hoàn thành luận án này.
Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Bộ môn Phương pháp dạy học - Khoa
Sư phạm kỹ thuật Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Công nghệ Trường


Cao đẳng Sư phạm Trung ương đã tạo điều kiện cho tác giả trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Khoa Sư phạm Tự nhiên – Trường Cao đẳng Sơn La, Khoa Tự nhiên –
Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình và các giảng viên, các lớp sinh viên đã
nhiệt tình tham gia thực nghiệm sư phạm, chia sẻ kinh nghiệm dạy học giúp tác
giả hoàn thiện luận án.
Các cán bộ quản lý, chuyên gia, giảng viên, giáo viên một số trường đại
học, cao đẳng, cùng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, chia sẻ, tạo điều
kiện giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận án.
Tác giả
Trần Tuyến
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
BKBLP : Bốn khâu bản lề phẳng
CĐ : Cao đẳng
CĐSP : Cao đẳng sư phạm
CĐSPTW : Cao đẳng Sư phạm Trung ương
CKT : Cơ kỹ thuật
ĐC : Đối chứng
ĐH : Đại học
GV : Giảng viên
PPDH : Phương pháp dạy học
SBVL : Sức bền vật liệu
SV : Sinh viên
TH : Toán học
TN : Thực nghiệm
TQCT : Tay quay – Con trượt
VL : Vật lý
MỤC LỤC
Trang

Trang
Chương 1 6
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC 6
THEO LÝ THUYẾT HỌC TẬP KIẾN TẠO 6
DANH MỤC CÁC BẢNG
T
T
rang
rang
Bảng 1.1: Ý kiến của SV về sử dụng PPDH 36
Bảng 1.2: Ý kiến của SV học tập CKT 37
Bảng 1.3: Ý kiến của GV về sử dụng PPDH 40
Bảng 2.1: Đề cương môn Cơ kỹ thuật 47
Bảng 3.1: Bảng phân phối thực nghiệm 115
Bảng 3.2: Bảng tần số điểm 115
Bảng 3.3: Bảng tần suất điểm 116
Bảng 3.4: Bảng tần suất hội tụ tiến 117
Bảng 3.5: Bảng tổng hợp tính phương sai ở nhóm lớp ĐC 119
Bảng 3.6: Bảng tổng hợp tính phương sai ở nhóm lớp TN 119
Bảng 3.7: Bảng so sánh phương sai, phương sai hiệu chỉnh, độ lệch chuẩn
hiệu chỉnh và hệ số biến thiên của nhóm lớp ĐC và TN 122
Bảng 3.8: Danh sách chuyên gia 124
Bảng 3.9: Kết quả xin ý kiến chuyên gia 125
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
T
T
rang
rang
Hình 1.1: Sơ đồ quá trình đồng hóa và điều ứng trong học tập 23
Hình 2.1: Sơ đồ quy trình học tập kiến tạo CKT 53

Hình 3.1: Đồ thị tần số điểm 115
Hình 3.2: Đường tần suất của nhóm lớp ĐC và TN 116
Hình 3.3: Đường tần suất hội tụ tiến của nhóm lớp ĐC và TN 117
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
1.1. Quan điểm định hướng phát triển giáo dục và đào tạo của nước ta
Đất nước ta đang trong thời kỳ đầu hội nhập khu vực và quốc tế trên
tất cả các lĩnh vực. Để nước ta sớm trở thành nước công nghiệp thì trước
hết cần nhận thấy được nguồn nhân lực mang yếu tố quyết định. Để có
được nguồn nhân lực chất lượng tốt, Đảng ta đã xác định “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu”. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020
của văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế, trong đó, tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành,
khả năng lập nghiệp ” [99].
Luật giáo dục đại học 2012 cũng đã khẳng định dạy học ở các trường
cao đẳng luôn phải đổi mới bắt kịp với thời đại, đào tạo “sinh viên có kiến
thức chuyên môn cơ bản, kỹ năng thực hành thành thạo, hiểu biết được tác
động của các nguyên lý, quy luật tự nhiên – xã hội trong thực tiễn và có khả
năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc ngành đào tạo” [68].
Đảng và Nhà nước ta chưa bao giờ xem nhẹ, đánh giá thấp sự phát triển
của giáo dục. Nhiều cơ chế, chính sách ưu tiên phát triển giáo dục và những
ưu đãi trong đào tạo giáo viên, tạo điều kiện cho người dạy phát huy sáng
tạo, chủ động đổi mới phương pháp, tìm những hướng đi, quan điểm phù
hợp cho hoạt động dạy học. Nhà nước luôn động viên người học, tạo môi
trường học tập thuận lợi để người học chủ động tiếp nhận tri thức, làm chủ
quá trình nhận thức; khuyến khích đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng
tiếp nhận tri thức thụ động sang chủ động, phát huy tính tích cực chủ động

nhận thức của người học.
1
1.2. Đổi mới phát triển giáo dục và đào tạo theo hướng phát huy tính
tích cực chủ động của người học
Trong giáo dục truyền thống, người dạy là “trung tâm” của mọi hoạt
động, chủ động truyền đạt kiến thức và kỹ năng đến người học. Nhưng hiện
nay Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới phát triển giáo dục và đào tạo
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Theo đó, giáo dục
phải phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người học phù hợp với đặc
điểm từng lớp học, môn học. Đặc biệt trong đào tạo bậc đại học, cần tạo cho
cho sinh viên môi trường thuận lợi để họ chủ động xây dựng kiến thức, làm
chủ tri thức dựa trên những hiểu biết của bản thân. Do đó, dạy học cần chú
trọng bồi dưỡng phương pháp tự học, quan tâm sự tương tác tích cực với môi
trường, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động vào tình
cảm, đem lại niềm vui cho người học.
Thế giới mỗi ngày một thay đổi, xã hội ngày một phát triển, khối lượng
kiến thức ngày càng tăng, để việc lĩnh hội kiến thức được hiệu quả và bắt kịp
với thời đại bên cạnh kiến thức thì vấn đề quan trọng là phải có phương pháp
chiếm lĩnh tri thức. Do đó, dạy phương pháp chiếm lĩnh tri thức là bước quan
trọng tiên quyết hiện nay; dạy người học cách giải quyết vấn đề bằng kiến tạo
kiến thức để họ có kỹ năng trong cuộc sống hiện đại; cần hình thành năng lực
kiến tạo tri thức khi người học còn ngồi trên ghế nhà trường.
1.3. Lý thuyết học tập kiến tạo đối với đổi mới phương pháp dạy học
môn học Cơ kỹ thuật
Tạo môi trường học tập thích hợp để người học chủ động kiến tạo tri
thức đó là tư tưởng cốt lõi của Lý thuyết học tập kiến tạo. Trong khi đó, dạy
học Cơ kỹ thuật cần được đổi mới theo hướng tích cực hóa hoạt động của sinh
viên. Và thực tế cho thấy có thể vận dụng lý thuyết học tập kiến tạo trong dạy
học Cơ kỹ thuật góp phần đổi mới phương pháp dạy học, phát triển giáo dục
theo hướng hiện đại.

2
Dạy học theo lý thuyết học tập kiến tạo là cách tiếp cận các phương pháp
dạy học tích cực; người dạy không phải là người truyền đạt kiến thức có sẵn,
cung cấp chân lý mà là người đảm nhiệm vai trò định hướng, đạo diễn hoặc
tạo tiền đề cho người học khám phá ra chân lý, tương tác, tự tìm ra kiến thức.
Thực tiễn đòi hỏi cần phải trang bị cho sinh viên sư phạm những kiến thức
mới về các phương pháp dạy học, trong đó có vận dụng lý thuyết học tập kiến
tạo để khi ra trường họ áp dụng vào dạy học, hiện thực hóa những kiến thức
đã học trong trường sư phạm.
Thực trạng dạy và học môn Cơ kỹ thuật cho thấy cần phải đổi mới hơn
nữa phương pháp dạy học để đáp ứng sự phát triển của giáo dục trong thời đại
mới. Hiện nay, việc dạy học nói chung và dạy học Cơ kỹ thuật nói riêng ở các
trường đại học vẫn diễn ra tình trạng đọc chép; hoạt động dạy học chủ yếu là
hoạt động của giảng viên, còn sinh viên thường ghi chép và tiếp thu bài thụ
động, thiếu tính sáng tạo, không chủ động, chưa làm chủ hoạt động học tập.
Chính vì vậy việc tạo cho sinh viên một môi trường học tập để họ chủ động
trong các hoạt động nhận thức là rất cần thiết. Nhận thấy khả năng vận dụng
lý thuyết học tập kiến tạo vào dạy học để phát huy những yếu tố tích cực của
người học, tác giả tập trung nghiên cứu đề tài “Dạy học Cơ kỹ thuật theo lý
thuyết học tập kiến tạo trong đào tạo giáo viên Công nghệ” nhằm tìm ra
những biện pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên Công nghệ,
góp phần vào sự phát triển giáo dục của đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp dạy học môn Cơ kỹ thuật trong chương trình đào
tạo CĐSP theo lý thuyết học tập kiến tạo nhằm dạy SV nắm vững kiến thức
và cả phương pháp chiến lĩnh kiến thức đó (phương pháp nghiên cứu), giúp
họ có khả năng học tập suốt đời.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học Cơ kỹ thuật cho sinh viên ngành Sư phạm công nghệ

trình độ cao đẳng.
3
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Khả năng ứng dụng lý thuyết học tập kiến tạo vào dạy học và vận dụng
vào dạy học môn Cơ kỹ thuật.
- Các biện pháp dạy học môn Cơ kỹ thuật theo lý thuyết học tập kiến tạo.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu lý thuyết học tập kiến tạo và vận dụng vào
dạy học môn Cơ kỹ thuật trong chương trình đào tạo giáo viên Công nghệ
trình độ cao đẳng.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và vận dụng hợp lý các biện pháp dạy học môn Cơ kỹ
thuật (trong chương trình đào tạo CĐSP) theo lý thuyết học tập kiến tạo thì
sẽ dạy được cho SV không chỉ nắm vững kiến thức mà cả phương pháp
chiễn lĩnh (phương pháp nghiên cứu) kiến thức đó, giúp cho họ có khả
năng học tập suốt đời.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng cơ sở lý luận về lý thuyết học tập kiến tạo, và ứng dụng
trong dạy học nói chung và trong dạy học Cơ kỹ thuật của chương trình đào
tạo giáo viên Công nghệ trung học cơ sở.
5.2. Tìm hiểu thực trạng dạy học Cơ kỹ thuật ở trường cao đẳng sư phạm
trên quan điểm của lý thuyết học tập kiến tạo.
5.3. Phân tích logic kiến thức Cơ kỹ thuật trong chương trình đào tạo
giáo viên trung học cơ sở làm cơ sở cho dạy học các nội dung của môn học
theo lý thuyết học tập kiến tạo; xây dựng quy trình dạy học theo lý thuyết học
tập kiến tạo cho môn Cơ kỹ thuật.
5.4. Kiểm nghiệm và đánh giá dạy học Cơ kỹ thuật theo lý thuyết học tập
kiến tạo để kiểm chứng giả thuyết của đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phối hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu sau:

4
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Hệ thống hóa, phân tích, tổng
hợp, so sánh các tài liệu lý luận dạy học liên quan, đặc biệt là tài liệu về lý thuyết
học tập kiến tạo. Từ đó xây dựng cơ sở lý luận cho việc vận dụng lý thuyết học
tập kiến tạo vào dạy học Cơ kỹ thuật trong đào tạo giáo viên Công nghệ.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra cơ bản: Điều tra thực trạng dạy học Cơ kỹ
thuật ở trường cao đẳng sư phạm trên quan điểm của lý thuyết học tập kiến tạo.
6.2.2. Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của chuyên gia về vận dụng
lý thuyết học tập kiến tạo vào dạy học môn Cơ kỹ thuật trong đào tạo giáo
viên cao đẳng sư phạm công nghệ.
6.2.3. Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm
kiểm chứng giả thuyết khoa học.
6.2.4. Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học tập của sinh viên
để có những nhận xét, đánh giá thực tiễn ứng dụng lý thuyết học tập kiến tạo.
6.2.5. Phương pháp thống kê: Sử dụng thống kê Toán học để tính toán và
biểu thị các kết quả một cách định lượng.
7. Những đóng góp mới của luận án
7.1. Phát triển lý thuyết học tập kiến tạo trong dạy học Cơ kỹ thuật ở
trường cao đẳng sư phạm.
7.2. Đề xuất các nguyên tắc dạy và quy trình dạy học Cơ kỹ thuật theo lý
thuyết học tập kiến tạo ở trường cao đẳng sư phạm.
7.3. Đề xuất ba biện pháp (có thực nghiệm) vận dụng lý thuyết học tập
kiến tạo vào dạy học Cơ kỹ thuật.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của dạy học cơ kỹ thuật theo lý
thuyết học tập kiến tạo.
Chương 2: Biện pháp dạy học cơ kỹ thuật theo lý thuyết học tập kiến tạo.
Chương 3: Kiểm nghiệm và đánh giá.

5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC
THEO LÝ THUYẾT HỌC TẬP KIẾN TẠO
1.1. Tổng quan về lịch sử nghiên cứu lý thuyết học tập kiến tạo
1.1.1. Những nghiên cứu về lý thuyết học tập kiến tạo trên thế giới
Trên thế giới, lý thuyết học tập kiến tạo có từ cổ xưa, thời Socrate (một
triết gia thành Athènes). Cụ thể từ cuộc hội thoại của ông với những người
học trò, ông đã đưa ra những câu hỏi trực tiếp để dẫn dắt người học tự nhận ra
điểm yếu trong suy nghĩ của họ. Cách trao đổi này đến nay vẫn được coi là
công cụ quan trọng trong kiến tạo mà các nhà giáo dục vận dụng để kiểm tra
kiến thức của người học và chuẩn bị cho việc hình thành kiến thức mới. Đến
cuối thế kỷ 18, đánh dấu sự ra đời quan điểm kiến tạo trong dạy học xuất phát
từ tuyên bố của nhà triết học Giam Battista Vico với đại ý: con người chỉ hiểu
một cách rõ ràng những gì mà họ tự xây dựng nên cho chính mình [27].
Sau đó Jean Piaget và John Dewey đã phát triển quan điểm kiến tạo
thành các học thuyết về sự phát triển và giáo dục trẻ em - điều này đã tạo nên
bước tiến cho lý thuyết học tập kiến tạo.
Piaget cho rằng “nền tảng cơ bản của việc học là khám phá”. Nhà tâm lý
học người Thụy Sĩ này còn xây dựng lý thuyết học tập dựa trên quá trình
“đồng hóa” và “điều ứng” trong nhận thức của người học với nội dung: con
người học tập thông qua việc thiết lập nên chuỗi logic liên tiếp nhau, cái này
nối tiếp cái kia. Những kiến thức mà người học hôm nay biết được có mối
liên hệ với những kiến thức mà họ đã được học hôm qua, đây chính là cơ sở
của việc giáo dục dựa trên lý thuyết học tập kiến tạo [27, tr.24].
John Dewey, triết gia hàng đầu ở thế kỷ 20, nhà tâm lý học, nhà giáo dục
học người Mỹ yêu cầu giáo dục phải dựa trên kinh nghiệm thực tế. Ông cho
rằng việc học tập là một quá trình liên tiếp, những dữ liệu có được hôm nay là
6
bằng chứng cho quá trình học tập ở ngày mai. Đây là cơ sở ra đời của lý

thuyết học tập kiến tạo - việc học được dựa trên kinh nghiệm của người học.
Một người có ảnh hưởng lớn đến sự ra đời của lý thuyết học tập kiến tạo
là Vưgotski, ông cho rằng trẻ em học các khái niệm thông qua sự mâu thuẫn
giữa những quan niệm hàng ngày của họ với những khái niệm của người lớn.
Trẻ em cũng biết kiến tạo những hiểu biết riêng của mình chứ không hoàn
toàn phụ thuộc vào người lớn. Tất cả những hoạt động tác động vào môi
trường ngoài đều được trẻ em học hỏi và tạo thành kinh nghiệm của bản thân
qua quá trình tiếp xúc. Ban đầu có thể là những phép thử sai hoặc sự nhắc nhở
của người lớn nhưng kiến thức thực sự là của trẻ khi tự trẻ thực hiện những
tác động ra môi trường. Mặc dù được giới thiệu hoặc hướng dẫn những chuẩn
mực, nhưng trẻ em phải biết kiến tạo những hiểu biết riêng của mình về thế
giới xung quanh chứ không phải chấp nhận một cách cứng nhắc những gì mà
người lớn nói. Ông định nghĩa "vùng phát triển gần nhất" với quan niệm:
vùng phát triển gần hôm nay thì ngày mai sẽ trở thành trình độ hiện tại và
xuất hiện vùng phát triển gần mới [65, tr.106]. Điều này nói lên quá trình dạy
học thường được thực hiện dưới hình thức hợp tác của trẻ với người lớn là
một trường hợp riêng của sự tác động qua lại của cái lý tưởng và cái hiện có
[80, tr.50].
Việc nghiên cứu và hoàn thiện tư tưởng của Piaget và Vưgotski đã thu
hút nhiều nhà nghiên cứu, trong số đó đáng chú ý là Glaserfeld đã nghiên cứu
lý thuyết học tập kiến tạo dựa trên luận điểm: Tri thức được kiến tạo một cách
tích cực bởi chủ thể nhận thức chứ không phải tiếp thu một cách thụ động từ
môi trường bên ngoài. Ông cho rằng nhận thức của người học là một quá trình
thích nghi và tổ chức những hiểu biết của chính họ. Người học nhận thức
không phải khám phá một thế giới cho nhân loại mà là quá trình đi tìm cái
mới cho chính họ mà họ chưa từng biết tới. Điểm này khác biệt với nhận thức
của nhà khoa học - họ tìm ra cái mới cho nhân loại. Học là một quá trình
7
mang tính xã hội trong đó người học dần tự hòa mình vào các hoạt động trí
tuệ của những người xung quanh. Trong lớp học theo lý thuyết học tập kiến

tạo, người học không chỉ tham gia vào quá trình khám phá, phát minh mà còn
tham gia vào cả quá trình xã hội bao gồm việc giải thích trao đổi, đàm phán
và đánh giá. Những tri thức mới của người học nhận được từ việc điều chỉnh
lại thế giới quan của họ để cho tri thức đó phải đáp ứng yêu cầu mà thực tế tự
nhiên và thực trạng xã hội đặt ra [13].
Douglas H. Clementes và Michael T. Battista vận dụng lý thuyết học tập
kiến tạo vào dạy học Toán với quan điểm: Kiến thức được người học chủ
động và phát hiện chứ không phải thụ động tiếp nhận từ người khác mang đến
hay do môi trường đem lại. Người học tạo dựng nên kiến thức mới cho bản
thân thông qua hoạt động thể chất và trí tuệ. Sự biểu đạt thế giới và hiểu biết
về tri thức khoa học mang tính cá nhân của người học. Học là một hoạt động
xã hội trong đó người học dần hòa mình vào hoạt động trí tuệ của những
người xung quanh [13].
Trên con đường đi tìm lý thuyết kiến tạo cho dạy học, nhà nghiên cứu
Paul Ernest đã phân chia lý thuyết học tập kiến tạo thành hai loại: Kiến tạo cơ
bản và kiến tạo xã hội. Cùng quan điểm kiến tạo cơ bản, Nerida F. Ellerton
và M. A. Clementes cho rằng: tri thức được kiến tạo một cách cá nhân, thông
qua cách thức hoạt động của mỗi cá nhân. Quan điểm này giống với luận
điểm của Ernt Von Glaserfeld là: kiến thức là kết quả của hoạt động kiến tạo
của chính chủ thể nhận thức, không phải là thứ sản phẩm mà bằng cách này
hay cách khác tồn tại bên ngoài chủ thể nhận thức và có thể được truyền đạt
hoặc thấm nhuần bởi sự cần cù nhận thức hoặc giao tiếp. Về quan điểm kiến
tạo xã hội có nhà nghiên cứu Nor Joharudeen, ông nghiên cứu học tập ở góc
độ xã hội, nghiên cứu chỉ rõ sự kiến tạo kiến thức bằng việc nhấn mạnh đến
vai trò của các yếu tố văn hóa, các điều kiện xã hội và sự tác động của các yếu
tố xã hội đến nhận thức của người học [13].
8
Bruner, nhà tâm lý học người Mỹ trong quá trình nghiên cứu đã đề xuất
thay đổi chương trình dạy học dựa trên quan điểm học tập là một quá trình
tích cực và mang tính xã hội; trong đó, người học tổ chức nên những ý kiến

mới và các khái niệm dựa trên kiến thức hiện tại của họ.
Ngoài ra, những nhà giáo dục hiện đại đã nghiên cứu, viết, và áp dụng lý
thuyết học tập kiến tạo vào giáo dục như: John D. Bransford, Ernst Von
Glasersfeld, Eleanor Duckworth, George Forman, Roger Schank, Jacqueline
Grennon Brooks, và Martin G. Brooks,
Trên đây là một số nhà nghiên cứu về giáo dục trên thế giới, những
người tiên phong đi đầu trong nghiên cứu dạy học dựa trên lý thuyết học tập
kiến tạo. Những nghiên cứu cho thấy sự hoàn thiện và bước đầu vận dụng của
lý thuyết học tập kiến tạo với các quan điểm:
- Tri thức được xuất hiện thông qua việc chủ thể tự cấu trúc nhận thức
theo ý chủ quan của bản thân.
- Học là quá trình hình thành và phát triển các sơ đồ nhận thức thông qua
hoạt động đồng hóa và điều ứng nhằm tạo lập trạng thái cân bằng thích nghi
với môi trường.
- Người học tích cực, chủ động và sáng tạo xây dựng kiến thức của bản
thân dựa trên những kinh nghiệm đã có và tương tác với môi trường học tập.
Những nghiên cứu đã mở ra những hướng đi mới trong giáo dục, đặc
biệt là sự vận dụng các quan điểm của lý thuyết học tập kiến tạo vào quá trình
dạy học. Lý thuyết học tập kiến tạo cho thấy học không chỉ là khám phá mà
còn là sự giải thích, cấu trúc mới tri thức. Do đó, để dạy học tốt cần tổ chức
sự tương tác giữa người học và đối tượng học tập, giúp người học xây dựng
thông tin mới vào cấu trúc tư duy đã được chủ thể điều chỉnh.
Thành công của các nghiên cứu về lý thuyết học tập kiến tạo và vận
dụng trong dạy học cũng đã góp phần đưa giáo dục của một số quốc gia đạt
được những thành tựu nhất định và được xếp vào các nước có nền giáo dục
9
tiên tiến. Để có được hiệu quả cao trong dạy học, các nước tiêu biểu như Mỹ,
Nga, Hi lạp, Thụy Điển cũng đang dần thay đổi phương pháp dạy học.
Phương pháp dạy học chủ yếu được các nước này áp dụng là các phương
pháp dạy học lấy người học làm trung tâm mà nền tảng là vận dụng lý thuyết

học tập kiến tạo vào dạy học. Thực tế đã cho thấy nền giáo dục của các nước
này rất phát triển. Đó là kết quả của nhiều tác động trong đó các nước này đã
áp dụng các phương pháp dạy học tích cực theo lý thuyết học tập kiến tạo.
Trên thế giới tiêu biểu có Thụy Điển, đất nước thực hiện cuộc cải cách
giáo dục từ mẫu giáo cho đến hết trung học phổ thông theo “chủ thuyết xây
dựng kiến thức” (lý thuyết học tập kiến tạo) kết hợp với việc chuẩn bị cho lực
lượng lao động trong nền kinh tế toàn cầu. Đây là hướng cải cách mà Dewey
một nhà cải cách Giáo dục Mỹ đã khởi xướng từ cách đây gần một thế kỷ.
Đến nay, tiến trình cải cách giáo dục của Thụy Điển đã được hơn mười năm
và đạt được những thành công to lớn. Thừa nhận đây là đường lối giáo dục
tiên tiến nhất và cũng mong muốn áp dụng, Mỹ đã cử một phái đoàn điều tra
tại hiện trường tìm hiểu, xem xét các kết quả của công cuộc cải cách này.
Hiện nay, Thụy Điển được đánh giá là đất nước có “nền giáo dục tiên tiến
nhất trên thế giới” [102].
Ở Phần Lan, Bộ Giáo dục của nước Bắc Âu này cho rằng: “Nguyên tắc
chỉ đạo của nền giáo dục Phần Lan là sinh hoạt dân chủ, lấy học sinh làm gốc.
Các trường không hề thực hiện việc tuyển chọn học sinh trong bất cứ giai
đoạn nào. Tất cả học sinh được học chung một lớp và hoàn toàn không có
chuyện ở lại lớp hay học nhảy cóc lớp. Học sinh được tự do lựa chọn những
gì các em muốn học và tự quyết định việc nên học tiếp bậc Trung học đệ nhị
cấp hay vào học ở các trường Chuyên nghiệp. Giáo viên chỉ hướng dẫn các
em trong việc lựa chọn” [100].
Cùng với Thụy Điển, Phần Lan các nước Na Uy, Đan Mạch, cũng thực
hiện nền giáo dục mà người học được làm chủ việc học tập. Người học được
10
hướng dẫn, khuyến khích tự lập và triển khai kế hoạch học tập của riêng
mình. Người dạy là người hướng dẫn, chứ không chỉ thị, áp đặt, độc đoán; tuy
nhiên họ được sự tín nhiệm và giám sát hoạt động của người học. Đó là mô
hình của dạy học theo lý thuyết học tập kiến tạo, và thực tế cho thấy giáo dục
của các nước này đã đạt được những thành tựu nhất định đáng để nhiều nước

trong đó có nước ta vận dụng, học tập.
1.1.2. Những nghiên cứu về dạy học theo lý thuyết học tập kiến tạo ở
Việt Nam
Ở nước ta, giáo dục “tích cực” bắt đầu phát triển dưới ảnh hưởng của
quá trình đổi mới của đất nước, tư tưởng chủ yếu tập trung đến ý thức tích
cực, tự giác nhận thức của người học. Những nghiên cứu của Trần Bá Hoành,
Nguyễn Kỳ, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Bá Kim, Trần Kiều, Nguyễn Hữu
Châu, đều tập trung vào tính tự giác, tự kiến tạo kiến thức học tập của người
học. Trong các tài liệu tập huấn, tài liệu bồi dưỡng thường xuyên về đổi mới
giáo dục hiện nay có phần lớn nội dung chú trọng đến các phương pháp dạy
học tích cực được dựa trên các quan điểm như dạy học nêu vấn đề, dạy học
tương tác, dạy học kiến tạo. Trong một số dự án giáo dục hợp tác với nước
ngoài cũng có mục đích triển khai các phương pháp dạy học hiện đại, phổ
biến mang lại hiệu quả cao; trong đó có các phương pháp dựa trên lý thuyết
học tập kiến tạo.
Trong số các công trình nghiên cứu gần đây về dạy học kiến tạo có luận
án tiến sỹ của Dương Bạch Dương: “Nghiên cứu phương pháp giảng dạy một
số khái niệm, định luật trong chương trình Vật lý lớp 10 trung học phổ thông
theo quan điểm kiến tạo (xây dựng)”. Luận án đã bước đầu đề cập đến giảng
dạy một số nội dung của bài học Vật lý 10 theo lý thuyết học tập kiến tạo.
Luận án nhấn mạnh sử dụng phương pháp dạy học trên cơ sở vận dụng lý
thuyết học tập kiến tạo theo hướng để người học tự bộc lộ các quan niệm sai
và xây dựng các quan niệm đúng [21].
11
Cao Thị Hà, với luận án tiến sỹ: “Dạy học một số chủ đề hình học không
gian (hình học 11) theo quan điểm kiến tạo”. Luận án đã vận dụng lý thuyết
học tập kiến tạo vào dạy học khai thác triệt để các kiến thức và kinh nghiệm
đã có ở người học liên quan đến vấn đề cần dạy làm cơ sở cho việc kiến tạo
tri thức mới. Tác giả cũng tạo lập môi trường học tập mang tính cởi mở và
hợp tác trong quá trình dạy học. Đồng thời sử dụng quy trình kiến tạo tri thức

để thiết kế các hoạt động dạy học [27].
Luận án tiến sỹ của Lương Việt Thái, “Nghiên cứu tổ chức quá trình dạy
học một số nội dung vật lí trong môn Khoa học ở tiểu học và môn Vật lí ở
trung học cơ sở trên cơ sở vận dụng tư tưởng của lí thuyết kiến tạo”. Là luận
án về dạy học theo lý thuyết học tập kiến tạo dựa trên quan niệm của học sinh
lớp 4 và lớp 7 về ánh sáng và âm thanh [71].
Trong những năm gần đây, cùng với phong trào đổi mới phương pháp
dạy học, nước ta có nhiều nghiên cứu đã đề cập đến lý thuyết học tập kiến tạo
với những góc độ khác nhau. Tiêu biểu có Nguyễn Hữu Châu, Thái Duy
Tuyên, Đỗ Tiến Đạt, Đào Tam, Nguyễn Quang Lạc, Bùi Phương Nga, …các
nghiên cứu đã tìm hiểu lịch sử dạy học kiến tạo và tổng kết những đặc điểm
cơ bản của việc vận dụng lý thuyết học tập kiến tạo vào dạy học [13],[14],
[69], [78]. Tuy chưa được nhiều và chưa được triển khai rộng rãi, nhưng công
trình của các tác giả ở Việt Nam trong thời gian gần đây đã cho thấy quá trình
đổi mới giáo dục ở nước ta đang được các nhà sư phạm hưởng ứng mạnh mẽ,
đặc biệt là việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào dạy học,
trong đó bước đầu vận dụng lý thuyết học tập kiến tạo vào dạy học.
Nghiên cứu của các tác giả trong nước cho người đọc cách tiếp cận lý
thuyết học tập kiến tạo ở nhiều phương diện khác nhau. Các nghiên cứu cho
thấy có thể vận dụng lý thuyết học tập kiến tạo trong dạy học với quan điểm
kiến tạo nhận thức, kiến tạo cơ bản, kiến tạo xã hội. Điều này nói lên giáo dục
Việt Nam trong những năm gần đây đang dần thay đổi theo hướng dạy học
12
tập trung vào người học. Đây là sự đổi mới dạy học, trong đó có sự vận dụng
tư tưởng của lý thuyết học tập kiến tạo. Tuy mới ở bước đầu, kết quả chưa rõ
ràng nhưng công trình của các tác giả đã chứng tỏ nghiên cứu phát triển lý
thuyết học tập kiến tạo phù hợp với thực tế hoàn cảnh và điều kiện giáo dục
của nước ta.
Một số tác giả nghiên cứu lý thuyết học tập kiến tạo theo hướng vận
dụng vào dạy học bộ môn đặc trưng. Như nghiên cứu đổi mới dạy học Hóa

học theo lý thuyết kiến tạo của Đào Thị Việt Anh, Võ Văn Duyên Em [1], [2],
[24]. Môn Sinh học, tiêu biểu có Trần Thị Mai Lan [60], bước đầu đưa ra quy
trình và có ví dụ cụ thể tổ chức dạy học dựa trên lý thuyết học tập kiến tạo.
Trong môn Toán có nhiều nghiên cứu và vận dụng lý thuyết học tập kiến tạo;
tiêu biểu có Nguyễn Hữu Châu [12], Đỗ Tiến Đạt [23], Cao Thị Hà [26], [27],
Đào Tam [69], Nguyễn Thùy Vân [80]; những nghiên cứu đã phân tích những
ưu nhược điểm khi vận dụng dạy học theo lý thuyết học tập kiến tạo và bước
đầu vận dụng vào quá trình tổ chức dạy một số nội dung cụ thể của Toán học.
Môn Vật lý tiêu biểu có Dương Bạch Dương [21], Lương Việt Thái [71] là
hai công trình tiêu biểu trong vận dụng lý thuyết học tập kiến tạo ở môn Vật
lý góp phần vào sự đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và
học Vật lý.
Qua đây có thể thấy việc nâng cao chất lượng dạy học theo hướng tiếp
cận các quan điểm dạy học mới đã và đang được nghiên cứu sâu rộng cả về
phương diện lý thuyết cơ bản cũng như vận dụng vào từng nội dung dạy học
cụ thể. Lý thuyết học tập kiến tạo có từ lâu trên thế giới, đã được cụ thể hóa
bằng hiệu quả trong đào tạo của giáo dục một số nước, hiện đang được quan
tâm nhiều ở Việt Nam. Do vậy, xu hướng nghiên cứu triển khai lý thuyết học
tập kiến tạo vào dạy học trong chương trình đào tạo giáo viên là khả thi, đáp
ứng yêu cầu đổi mới của giáo dục đại học.
13
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến dạy học theo lý thuyết
học tập kiến tạo
1.2.1. Kiến tạo
Từ Tiếng Anh là Constructivism – Với nghĩa kiến tạo, tạo dựng. Trong
một số trường hợp được dùng theo nghĩa xây dựng, kiến trúc. Tuy nhiên,
trong đề tài này tác giả thống nhất sử dụng nghĩa Tiếng Việt là kiến tạo.
Theo từ điển Tiếng Việt, “kiến tạo” là xây dựng nên. Ở góc độ nhận
thức, kiến tạo là hoạt động của con người chinh phục thế giới dựa vào những
khả năng hiện có và mối quan hệ với môi trường xung quanh [66].

Trong đời sống, kiến tạo được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực liên
quan đến những hoạt động. Động từ kiến tạo chỉ hoạt động của con người tác
động lên một đối tượng, hiện tượng, quan hệ nhằm mục đích hiểu chúng và sử
dụng chúng như những công cụ ký hiệu để xây dựng nên các đối tượng, các
hiện tượng, các quan hệ mới hơn.
Thực tiễn lịch sử loài người đã chứng tỏ con người không bao giờ khuất
phục trước thiên nhiên; trái lại luôn chinh phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên
phục vụ cuộc sống con người. Chính điều này đã làm cho con người khác với
các động vật khác; từ thế hệ này qua thế hệ khác những kinh nghiệm được
con người đúc rút và truyền cho thế hệ sau; để rồi càng ngày con người càng
chinh phục được thiên nhiên làm cho họ càng khác xa với động vật. Quá trình
đó còn gọi là sự kiến tạo trong đời sống để con người tồn tại và phát triển.
Tóm lại, kiến tạo là hoạt động của con người dựa vào khả năng hiện có
của mình để chinh phục thế giới quan tồn tại xung quanh cá nhân và trở thành
kỹ năng.
Trong những nghiên cứu về dạy học, người ta xem xét kiến tạo là một
học thuyết mà mô hình lý thuyết của nó chính là cơ sở tâm sinh học để giải
thích cơ chế học tập [83]. Tư tưởng nền tảng cơ bản của thuyết kiến tạo là đặt
vai trò của chủ thể nhận thức lên vị trí hàng đầu của quá trình nhận thức.
14
Thực tiễn cho thấy mỗi người hình thành thế giới quan riêng của mình. Tất cả
những gì mà mỗi người trải nghiệm thì sẽ được sắp xếp chúng vào trong "bức
tranh toàn cảnh về thế giới" của người đó, tức là tự kiến tạo riêng cho mình
một bức tranh thế giới. Điều đó cho thấy cơ chế học tập theo thuyết kiến tạo
khác thuyết hành vi, thuyết phản xạ, thuyết nhận thức.
Lý thuyết về kiến tạo khá phong phú cho việc nghiên cứu và vận dụng.
Trong đề tài này, tác giả nghiên cứu kiến tạo và vận dụng vào dạy học dựa
trên quan điểm nhận thức (kiến tạo nhận thức). Nghiên cứu về lý thuyết học
tập kiến tạo và quá trình tổ chức dạy học trên cơ sở lý thuyết của Piaget. Đó là
lý thuyết về quá trình nhận thức của người học mà hoạt động học tập (học tập

kiến tạo) bao gồm quá trình đồng hóa và điều ứng.
1.2.2. Học tập kiến tạo
Học là khái niệm được nhiều tác giả đề cập đến khi nghiên cứu về quá
trình dạy học. Bởi vì học là một trong những thành tố cơ bản trong quá trình
dạy học, mặt khác học chính là khởi nguồn của quá trình dạy học, là mục đích
và cũng là kết quả mà dạy học mang đến.
Phạm Minh Hạc xem xét học dưới góc độ đặc điểm tâm lý của người
học: “là hoạt động của học sinh nhằm tiếp nhận các tri thức, thái độ, kỹ năng
(kinh nghiệm xã hội) và chuyển chúng thành vốn liếng kinh nghiệm của bản
thân” [29, tr.189]. Nghiên cứu này cho thấy học tập là sự kiến tạo trong nhận
thức, sự lĩnh hội tri thức, lĩnh hội các phương thức hành động và phương thức
tư duy. Đó là sự hòa nhập kinh nghiệm mới với kinh nghiệm đã có trước đây,
hòa nhập thông tin mới với thông tin đã biết.
Phan Trọng Ngọ cho rằng “học là quá trình tương tác giữa cá thể với môi
trường”. Thực chất của quá trình tương tác với môi trường cũng là sự kiến tạo
của con người để tồn tại và phát triển. Sự tương tác này dẫn đến kết quả có sự
biến đổi về nhận thức, thái độ hay hành vi của cá thể đó [64, tr.15]. Như vậy,
học tập cũng là quá trình kiến tạo trong môi trường xung quanh.
15
Nguyễn Quang Uẩn xem học tập là sự diễn ra bền vững, hợp lý của
người học khi có đối tượng cụ thể xác định. “Sự học là sự biến đổi hoạt động
vững chắc hợp lý nhờ một hoạt động xảy ra trước đó, chứ không phải do các
phản ứng sinh học bẩm sinh của cơ thể”. Thực chất sự học là quá trình đồng
hóa hay điều ứng những kiến thức đã có của người học [79, tr.137]. Do đó có
thể gọi học tập là học tập kiến tạo.
Theo Nguyễn Cảnh Toàn, “Học là quá trình biến đổi và cân bằng cấu
trúc nhận thức để thích nghi với môi trường” và “Học là tích hợp, đồng hóa,
điều ứng, “nhập nội” những dữ liệu mới làm biến đổi cấu trúc nhận thức nội
tại hiện có”. Với quan điểm này, học tập tạo ra sự biến đổi nhận thức để hiểu
biết thế giới bằng cách lý giải và thông hiểu thực tiễn, qua đó người học xác

định mô hình thông tin và liên kết mô hình đó với thông tin từ các tình huống
và hoàn cảnh khác nhau. Hệ quả của việc xác định các mối quan hệ mới chưa
được thừa nhận trước đây là người học thay đổi nhận thức của mình, do đó
học làm biến đổi con người. Có thể xem học là sự thông hiểu thế giới bằng
nhiều con đường khác nhau mà kết quả làm biến đổi bản thân con người. Mặt
khác, học là quá trình tự tạo ra sự tiến hóa tổng hợp về tri thức, kỹ năng, thái
độ và giá trị của một con người, nên xét về chiều sâu, học có bản chất cốt lõi
là tự học [75, tr.62]. Như vậy, học là quá trình thông hiểu bản chất thông tin,
liên kết thông tin cũ và mới, lý giải và kiểm nghiệm các giá trị trong thực tiễn,
là quá trình kiến tạo nhận thức, biến đổi nhận thức, biến đổi con người.
Học chính là quá trình người học chiếm lĩnh kiến thức mới bằng nhiều
cách khác nhau. Người học chiếm lĩnh kiến thức mới (học được cái mới) có
thể do người khác (thầy, chuyên gia, bạn bè, ) truyền thụ, giảng giải cho; có
thể do thầy giáo hướng dẫn cho cách thức hành động (cách thức sử dụng công
cụ Toán học, cách thức làm thí nghiệm, ), theo đó mà hành động để chiếm
lĩnh kiến thức. Người học có thể được hướng dẫn sử dụng quy trình giải quyết
vấn đề mà nhà khoa học đã sử dụng khi giải quyết một vấn đề do thực tiễn đặt
16
ra. Các cách học mà người học chiếm lĩnh kiến thức mới từ kinh nghiệm của
mình (kiến thức, kỹ năng đã có) chứ không phải do giáo viên giới thiệu,
truyền thụ cho một cách thụ động đều mang tính chất học tập kiến tạo.
Học tập kiến tạo là hoạt động xã hội được tổ chức và kiểm soát chặt chẽ.
Học tập kiến tạo là hoạt động kiến tạo kiến thức của người học. Người học
diễn ra quá trình đồng hóa và điều ứng kiến thức và kinh nghiệm để xây dựng
nên kiến thức và kinh nghiệm mới, kiến thức và kinh nghiệm này sẽ là
nguyên liệu để người học tiếp tục kiến tạo kiến thức mới hơn. Học tập kiến
tạo đã góp phần làm cho nền văn hóa loài người được giữ gìn và phát triển.
Người học chiếm lĩnh tri thức được thể hiện qua các hình thức:
- Cá nhân kiến tạo hay tự nghiên cứu: Quan sát, đọc, viết, tự hỏi, ghi
chép, nghe băng, xem băng hình, xem tivi, làm việc với máy tính, vẽ biểu đồ,

làm sơ đồ, lập bảng, thu thập thông tin, tra từ điển, điều tra, nghiên cứu v.v
- Học tập kiến tạo với bạn, qua thầy hay hợp tác các bạn: Nghe giảng,
hỏi, học nhóm, cắm trại, trò chơi, sắm vai, mô phỏng, báo cáo, trình bày, giới
thiệu, tranh luận, động não, xâu chuỗi, v.v
- Học tập kiến tạo từ thông tin phản hồi hay tự kiểm tra, tự điều chỉnh:
Tự phê bình, tự đánh giá, tự kiểm tra, phân tích, phê phán, tổng hợp, điều
chỉnh, rút kinh nghiệm v.v
Học tập kiến tạo cũng như học tập nói chung của con người được xuất
phát từ nhiều khía cạnh khác nhau như: động cơ, nhu cầu, hứng thú học tập,
Nhưng kinh nghiệm đã có của người học mới là điểm xuất phát và quyết định
rất lớn trong quá trình nhận thức của người học tập kiến tạo. Người học sử
dụng vốn nhận thức đã được tích lũy từ trước để học tập, để tiếp tục xây dựng
kiến thức mới. Đặc biệt ở bậc đại học, học tập kiến tạo thể hiện khi SV sử
dụng kiến thức đã có làm phát triển nhận thức và giúp họ sửa chữa những gì
đã có nhưng chưa phù hợp, sai với tình huống mới. Học tập kiến tạo làm thay
đổi quan điểm sai chưa hoàn chỉnh, là quá trình vượt qua khó khăn nhận thức
17
của SV. Những khó khăn nhận thức có vai trò thúc đẩy quá trình xây dựng
kiến thức của SV, tạo ra động cơ bên trong chính SV, làm cho nhận thức trở
nên có ý nghĩa và giúp SV có được niềm vui trong quá trình học tập.
Học tập kiến tạo là hoạt động của chính cá nhân người học. Tính cá nhân
biểu hiện rõ nhất qua quá trình tự học. Tự học sẽ mang lại hiệu quả cao vì
“Tri thức được kiến tạo nên bởi mỗi cá nhân người học sẽ trở nên vững chắc
hơn rất nhiều so với nó được nhận từ người khác” [13]. Khi người học tự
mình khám phá và xây dựng nên quan điểm, nhận thức cho bản thân thì quan
điểm đó là của chính họ, mang ý nghĩa cá nhân chủ quan và sẽ luôn tồn tại
bên họ. Mặt khác, trong học tập kiến tạo có sự hợp tác giữa người học với bạn
học và với người dạy. Sự hợp tác này có được vì tư duy có tính xã hội và có
mối quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Người học trao đổi, tranh luận, cộng tác
với nhau, cùng giải quyết nhiệm vụ trong quá trình học tập kiến tạo. Người

học sẽ biết cách trình bày, bảo vệ ý kiến của mình, có tinh thần hợp tác, xây
dựng cộng đồng nhỏ học tập của mình. Trong quá trình tương tác do va chạm
với nhiều quan điểm khác nhau, trình độ nhận thức khác nhau, người học sẽ
phát triển được ngôn ngữ, mở rộng chiều sâu khái quát, tổng hợp của tư duy.
Tóm lại, học tập kiến tạo là hoạt động của người học được diễn ra bằng
chính hoạt động của chủ thể nhận thức. Người học xây dựng kiến thức cho
chính mình trên cơ sở những kiến thức vốn có và sự tương tác với môi trường
nhằm sửa đổi hoặc mở rộng kiến thức của bản thân.
1.2.3. Đồng hóa
Tiếng Anh là Assimilation, có nghĩa là sự tiêu hóa, hấp thu được, sự
đồng hóa. Trong giáo dục, Assimilation được xem xét với nghĩa đồng hóa, là
chủ thể tái lập lại một số đặc điểm của khách thể được nhận thức, đưa chúng
vào trong các sơ đồ đã có. Thuật ngữ đồng hóa sử dụng trong đề tài nhằm mô
tả một sự thay đổi trong nhận thức người học có kết quả từ những nhận thức
cũ bằng sự tương tác giữa các thành viên học tập.
18

×