Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Quản trị tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.68 KB, 22 trang )

Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
1 | P a g e
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
Đề tài: QUẢN TRỊ TÍNH THANH KHOẢN TRONG HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Tiểu luận môn học Quản trị ngân hàng
Nhóm 9 –TCDN Đêm 2
t p . h c m , t h á n g 4 / 2 0 1 4
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
LỜI MỞ ĐẦU 3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 4
I.Khái niệm 4
II.Cung cầu về thanh khoản 4
III.Các phương pháp quản lý rủi ro thanh khoản 6
Chương 2: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH QUẢN TRỊ TÍNH THANH KHOẢN
TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 8
I.Thực tiễn quản trị thanh khoản trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam 8
II.Tình hình quản trị thanh khoản ở một số ngân hàng tiêu biểu 11
1.Ngân hàng quốc tế ABBank 11
2.Sự kết hợp của 3 ngân hàng Đệ Nhất (Ficombank), Việt Nam Tín Nghĩa
(TinNghiaBank) và Ngân hàng Sài Gòn (SCB) 12
3.Ngân hàng Á Châu (ACB) 13
Chương 3: NGUYÊN NHÂN, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 15
I.Nguyên nhân 15
II.Giải pháp: 16
KẾT LUẬN 21
2 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
LỜI MỞ ĐẦU


Chưa bao giờ vấn đề nợ xấu và rủi ro thanh khoản lại thu hút sự quan tâm của các ngân
hàng, các nhà đầu tư và những nhà quản lý điều hành vĩ mô như hiện nay. Sau một thời
gian hệ thống ngân hàng tăng trưởng nóng về mặt số lượng, mạng lưới hoạt động, đa
dạng về hình thức sở hữu, phong phú về loại hình dịch vụ, thì nổi cộm một vấn đề là
khi phát triển các ngân hàng chỉ tập trung vào số lượng nhưng chất lượng lại bị bỏ ngỏ
hoặc cố tình bỏ qua để chạy theo mục tiêu lợi nhuận, giành giật thị phần vốn đã hạn
hẹp. Hậu quả có thể thấy trong giai đoạn từ 2008 đến nay mà đỉnh điểm là 2011 đã bộc
lộ những yếu kém như nợ xấu tăng lên, tính thanh khoản kém, chỉ số tín nhiệm ngân
hàng giảm sút,v.v…
Bài nghiên cứu với mục tiêu phân tích ba vấn đề chính của quản trị tính thanh khoản
trong hệ thống ngân hàng Việt Nam:
- Nắm vững kiến thức cơ bản về tính thanh khoản và việc quản trị tính thanh
khoản trong hệ thống ngân hàng thương mại.
- Làm rõ thực trạng rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trên cơ sở đó phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó.
- Đề xuất các biện pháp nhằm giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam làm tốt
hơn công tác quản trị rủi ro thanh khỏan trong điều kiện hiện nay.
3 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Khái niệm
1. Thanh khoản
Là khả năng tiếp cận các khoản tài sản hoặc nguồn vốn có thể dùng để chi trả
với chi phí hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát sinh.
Một nguồn vốn được gọi là có tính thanh khoản cao khi chi phí huy động thấp
và thời gian huy động nhanh.
Một tài sản được gọi là có tính thanh khoản cao khi chi phí chuyển hóa thành
tiền thấp và có khả năng chuyển hóa ra tiền nhanh.
2. Rủi ro thanh khoản
Loại rủi ro này xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả,

không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay mượn
để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán
3. Quản trị thanh khoản:
Là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh khoản của tài sản và cấu trúc
danh mục của nguồn vốn
Bản chất của công tác quản trị thanh khoản trong ngân hàng thể hiện:
+ Thứ nhất, rất ít khi điểm tổng cung bằng với tổng cầu thanh khoản. Do đó,
ngân hàng thường xuyên đối phó với tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư thanh
khoản.
+ Thứ hai, thanh khoản và khả năng sinh lời là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với
nhau: tài sản có tính thanh khoản càng cao thì khả năng sinh lời của nó càng
thấp và ngược lại, một nguồn vốn có tính thanh khoản cao thường có chi phí
huy động lớn.
II. Cung cầu về thanh khoản
1. Cung thanh khoản
4 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, là
nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng, bao gồm:
- Các khoản tiền gửi đang đến (S1)
- Doanh thu từ việc bán các khoản dịch vụ (S2)
- Thu hồi tín dụng đã cấp (S3)
- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng (S4)
- Vay mượn từ thị trường tiền tệ (S5)
2. Cầu thanh khoản:
Là nhu cầu vốn cho các mục đích hoạt động của ngân hàng, các khoản làm giảm
quỹ của ngân hàng, bao gồm:
- Khách hàng rút các khoản tiền gửi (D1).
- Yêu cầu cấp các khoản tín dụng có chất lượng cao (D2).
- Hoàn trả các khoản vay mượn phi tiền gửi (D3).

- Chi phí phát sinh khi kinh doanh các sản phẩm và dịch (D4).
- Thanh toán cổ tức cho các cổ đông (D5).
3. Đánh giá rủi ro thanh khoản:
Trạng thái thanh khoản ròng được xác định như sau:
Trạng thái thanh khoản
ròng
=
Tổng cung thanh
khoản
-
Tổng cầu thanh
khoản
a. Thặng dư thanh khoản khi trạng thái thanh khoản ròng >0:
Ngân hàng trong tình trạng thừa thanh khoản, lúc này nhà quản trị đưa ra quyết
định cần phải sử dụng nguồn thanh khoản thừa để đầu tư kiếm lời cho đến khi
nguồn thanh khoản này được sử dụng để đáp ứng cho nhu cầu thanh khoản
trong tương lai, nguồn thanh khoản thừa này thường được ngân hàng sử dụng
5 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
như: mua bán chứng khoán dự trữ thứ cấp đã bán trước đó, cho vay trê thị
trường tiền tệ, hoặc gửi tiền tại các tổ chức tín dụng khác…
Thừa thanh khoản là một trạng thái mất cân bằng của ngân hàng thương mại,
xảy ra khi nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, ngân hàng không tiếp cận được
với khách hàng hoặc không lựa chọn được nhiều khách hàng để cho vay
b. Thiếu hụt thanh khoản khi trạng thái thanh khoản ròng <0:
Ngân hàng trong tình trạng thiếu vốn hoạt động. Khi ngân hàng không đủ vốn
đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng, nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp, của
nền kinh tế, có thể gọi là thiếu vốn trực tiếp. Lúc này, ngân hàng mất cơ hội đầu
tư mang lại lợi nhuận, và có thể dẫn đến tình trạng mất khách hàng.
Trong trường hợp thiếu hụt thanh khoản, nhà quản trị thường sử dụng dự trữ bắt

buộc dư ra nếu có, bán dự trữ thứ cấp, vay qua đêm, vay tái chiết khấu…
III. Các phương pháp quản lý rủi ro thanh khoản
1. Duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa vốn dùng cho dự trữ và vốn dùng cho kinh doanh
sao cho phù hợp với các đặc điểm hoạt động của ngân hàng.
2. Chú trọng yếu tố thời gian của vấn đề thanh khoản:
Xét về thời gian, nhu cầu thanh khoản của một ngân hàng bao gồm cả trong
ngắn hạn và dài hạn
+ Nhu cầu thanh khoản trong ngắn hạn bao gồm các khoản tiền gửi giao dịch
hoặc tiền gửi giao dịch có kỳ hạn đến hạn, các công cụ huy động thuộc thị
trường tiền tệ… nằm trong phạm vi nhu cầu thanh khoản ngắn hạn. Để đáp ứng
nhu cầu này, đòi hỏi ngân hàng phải duy trì ở mức độ khá lớn các loại tài sản có
tính thanh khoản cao như tiền mặt, tiền gửi tại NHTW,
+ Nhu cầu thanh khoản dài ha5ndo các nhân tố mang tính chất thời vụ, chu kỳ
và xu hướng tạo ra. Để đáp ứng nhu cầu này, đòi hỏi ngân hàng dự phòng trước
khả năng cung cấp vốn từ nhiều nguồn khác nhau, và mức độ cao hơn so với
nhu cầu thanh khoản trong ngắn hạn
6 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
3. Đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả
Tỷ lệ khả năng chi trả =
TSC có thể thanh toán ngay
TS nợ phải thanh toán ngay
Tổ chức tín dụng phải thường xuyên đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả đối với
từng loại tiền, vàng như sau:
+ Tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và tổng Nợ
phải trả
+ Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày
tiếp theo kể từ ngày hôm sau và tổng tài sản “ Nợ ” đến hạn thanh toán trong 7
ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam, Euro, đồng bảng
Anh, và đồng đô la Mỹ.

4. Sử dụng các biệp pháp dự báo thanh khoản:
Ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp gồm
- Phương pháp tiếp cận nguồn và sử dụng vốn
- Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn
- Phương pháp xác định xác suất mỗi tình huống
- Phương pháp tiếp cận các chỉ số thanh khoản
7 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Chương 2: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH QUẢN TRỊ TÍNH THANH
KHOẢN TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
I. Thực tiễn quản trị thanh khoản trong hệ thống ngân hàng tại Việt
Nam
• Bối cảnh kinh tế vĩ mô:
Theo Bản tin kinh tế vĩ mô số 7 báo cáo Tổng kết tình hình kinh tế thế giới và
Việt nam Quý II/2012 của Ủy ban kinh tế Quốc hội phát hành tháng 10/2012, trong 6
tháng đầu năm 2012, một trong những điểm sáng nổi bật đáng được ghi nhận là tình
hình kinh tế vĩ mô đã ổn định và vững chắc hơn, đặc biệt là việc kiềm chế thành công
lạm phát tới mức thấp 2,52% (so với tháng 12 năm trước). Bên cạnh đó còn phải kể
đến một số điểm sáng khác như nhập siêu giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong nhiều
năm qua (ước tính khoảng 0,685 tỷ USD) đã giúp duy trì thặng dư cán cân thanh toán
(ước tính trên 7 tỷ USD) và qua đó giúp gia tăng đáng kể lượng dự trữ ngoại hối quốc
gia (tiếp tục tăng thêm hơn 10 tỷ USD dự trữ ngoại hối trong 6 tháng đầu năm) cũng
như tăng cường ổn định thị trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái giữa VND so với USD đã
được giữ tương đối ổn định và thu hẹp đáng kể khoảng cách giữa thị trường ngoại hối
chính thức và thị trường tự do, thị trường vàng giảm đáng kể tình trạng đầu cơ tích trữ
vàng.
Mặc dù đã đạt được những điểm sáng tích cực như vậy nhưng trong những
tháng cuối năm 2012 nền kinh tế Việt nam vẫn sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách
thức như tình trạng tăng trưởng kinh tế diễn ra chậm chạp hơn kỳ vọng, lãi suất cho
vay phổ biến vẫn còn ở mức cao trong bối cảnh thanh khoản của hệ thống ngân hàng

còn chưa hoàn toàn hết căng thẳng và nợ xấu có chiều hướng gia tăng dẫn đến hoạt
động sản xuất và kinh doanh của nhiều doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn trầm
trọng bởi một loạt nguyên nhân: mặc dù đã có Nghị quyết 13/NQ-CP của Chính phủ về
một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và hỗ trợ thị trường song
các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều kho khăn trong việc tiếp cận tới vốn tín dụng với
lãi suất có thể chấp nhận được từ hệ thống ngân hàng thương mại; sức mua của thị
8 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
trường nội địa bị sụt giảm và vẫn chưa có dấu hiệu được khôi phục và dấu hiệu căng
thẳng trên thị trường lao động có xu hướng gia tăng.
• Thực trạng:
Với vai trò là cơ quan giám sát, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
(UBGSTCQG) cho rằng, trong những năm qua hệ thống ngân hàng của Việt Nam phát
triển khá nhanh nhưng đi kèm với đó cũng chưa đựng nhiều rủi ro cần sớm được khắc
phục.
- Nợ xấu không được xử lý tốt sẽ kéo theo rủi ro vỡ thanh khoản: Theo kết
quả công bố ngày 12/7/2012 của cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng (NHNN), tính
đến thời điểm 31/3/2012 thì nợ xấu của các tổ chức tín dụng là hơn 202.000 tỷ đồng,
chiếm tỷ lệ là 8,6% tổng dư nợ. Theo kết quả khảo sát báo cáo tài chính riêng lẻ của 6
ngân hàng niêm yết (gồm Vietcombank, Vietinbank, ACB, MB, Eximbank và
Navibank) thì tính đến thời điểm 30/6/2012, tổng nợ xấu của cả 6 ngân hàng này được
ghi nhận là khoảng 18.942 tỷ đồng và chiếm tỷ lệ 2,51% tổng dư nợ của 6 ngân hàng;
trong đó, Navibank có tỷ lệ nợ xấu cao nhất là 3,86%, Vietcombank là 3,47%,
Vietinbank 2,45%, MB 1,82%, Eximbank 1,73%, ACB 1,53%. Tỷ lệ nợ xấu như trên
đã gây tâm lý lo ngại cho công chúng và nhà đầu tư.
9 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
- Thanh khoản hệ thống luôn bấp bênh, căng thẳng: Theo báo cáo của Ủy ban
Giám sát Tài chính Quốc gia, tỷ lệ cho vay/huy động của các tổ chức tín dụng
tại Việt Nam nói chung luôn ở mức trên 90%. Đặc biệt tỷ lệ cho vay/huy động

ngoại tệ luôn ở mức trên 100%, có khi đạt xấp xỉ 130%. Thanh khoản hệ thống
luôn căng thẳng, thị trường liên ngân hàng ách tắc, một số TCTD rơi vào tình
trạng mất thanh khoản liên tục (luôn rơi vào tình trạng mất cân đối kỳ hạn, về
huy động và cho vay…).
- Số lượng ngân hàng nhiều, nhưng Việt Nam đã phát triển ngành ngân hàng theo
nghĩa mở rộng về chiều ngang mà không có sự tập trung cải tiến nâng cao chất
lượng dịch vụ cũng như chưa quan tâm tốt đến vấn đề quản trị rủi ro: Theo
thống kê, năm 1991 Việt Nam mới có 9 NHTM; năm 1999 tăng lên 57 NHTM
(5 NHQD, 48 NHTMCP bao gồm 7 NHTMCP nông thôn, 4 NHLD), 26
CNNHNg; đến năm 2011 có 52 NHTM (5 NHQD, 37 NHTMCP, 5 NHLD, 5
NH100% vốn NNg) và 54 CN NH nước ngoài (Sau sáp nhập 3 NHTMCP đến
10 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
nay chỉ còn 35 NHTMCP). Ngoài các NHTM, còn có các TCTD phi ngân hàng
(18 Cty tài chính, 13 Cty cho thuê tài chính, 1 TC vi mô), hệ thống quỹ TDND
(1 QTDND TW với 1073 Quỹ thành viên). Tính đến tháng 6/2011, Việt Nam có
xấp xỉ 9.670 chi nhánh – phòng giao dịch (CN&PGD. Trong đó, tập trung chủ
yếu tại khu vực thành thị (riêng Hà Nội và Tp HCM chiếm 35% các CN&PGD).
- Tăng trưởng tín dụng quá nhanh mà khả năng huy động vốn không kịp: với một
số lượng các tổ chức tín dụng không nhỏ như vậy, cùng với mạng lưới hoạt
động chủ yếu tập trung tại khu vực thành thị đã và đang tạo ra sự cạnh tranh gay
gắt giữa các tổ chức tín dụng, gây áp lực đến lợi nhuận, qua đó tạo sức ép buộc
các tổ chức tín dụng chấp nhận mức rủi ro cao, đe dọa đến an toàn hệ thống.
- Các TCTD chủ yếu tập trung cạnh tranh với nhau quyết liệt về mặt địa lý tại các
khu vực đô thị, về sản phẩm chủ yếu là huy động và cho vay truyền thống. Số
lượng ngân hàng, TCTD hoạt động tại Việt Nam khá lớn, nhưng có tình trạng
phân bố không đều, nơi thừa, nơi thiếu và chưa đảm bảo sự đa dạng về loại hình
và quy mô, đảm bảo phân bổ rủi ro.
- Ngoài ra, trước sức ép lạm phát cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện chính
sách thắt chặt tiền tệ gây khó khăn trong việc huy động vốn của các ngân hàng.

Điều này đã khiến cho vấn đề thanh khoản của các ngân hàng đã nóng nay càng
trở nên căng thẳng hơn.
II. Tình hình quản trị thanh khoản ở một số ngân hàng tiêu biểu
1. Ngân hàng quốc tế ABBank
Trong năm 2008 các ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính, chính sách thắt chặt tiền tệ, thị trường nội tệ và ngoại tệ có nhiều biến
động lớn, ít có thanh khoản, Bước sang năm 2009 với những tín hiệu tích cực từ nền
kinh tế, nguồn vốn huy động của các ngân hàng cũng chịu tác động nhất định, gây áp
lực về thanh khoản và cân đối vốn. Tuy nhiên, với sự phát triển ổn định, khả năng nắm
11 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
bắt và theo dõi kịp thời biến động vốn khả dụng, ABBANK vẫn đảm bảo tuyệt đối an
toàn thanh khoản, đáp ứng tối đa nhu cầu thanh toán của khách hàng. Sang năm 2010,
Ngân hàng đã khẳng định vị trí của mình khi đã phát hành thành công trái phiếu để
nâng mức vốn điều lệ lên 3.831 tỷ đồng, mức huy động vốn tăng 73% so với năm
2009. Lấy việc phát triển luôn gắn liền với việc đảm bảo an toàn trong hoạt động,
ABBANK luôn coi trọng công tác phòng ngừa rủi ro, đặc biệt là rủi ro thanh khoản.
Thêm vào đó, thông qua sự liên kết hợp tác với Maybank, Ngân hàng đã nhận được
những kinh nghiệm quản trị rủi ro chuyên nghiệp của những Ngân hàng nước ngoài
lớn. Kết quả là ABBANK luôn đảm bảo tình hình thanh khoản tốt qua các năm, tạo
được niềm tin vững chắc cho khách hàng.
Kết thúc năm 2011 khối quản lý rủi ro của ngân hàng ABBANK đã nổ lực thực
hiện và hoàn thành các kế hoạch đã đề ra nhằm hạn chế tối đa các tác động đến ngân
hàng. Đặc biệt việc quản lý rủi ro thanh khoản được ngân hàng đặc biệt quan tâm. Khối
phối hợp với TT Core đưa phân tích hành vi khách hàng và báo cáo quản lý thanh
khoản, áp dụng các mô hình quản lý rủi ro lãi suất trong báo cáo, đưa các kịch bản
phân tích cho báo các về các khả năng chịu áp lực về thanh khoản. Các nổ lực trong
năm 2011 của khối quản lý rủi ro giúp ngân hàng hạn chế rủi ro, đảm bảo quá trình
hoạt động ổn định của ngân hàng đồng thời có các quyết định tài chính, chiến lược đảm
bảo thanh khoản hợp lý cho năm 2012.

2. Sự kết hợp của 3 ngân hàng Đệ Nhất (Ficombank), Việt Nam Tín Nghĩa
(TinNghiaBank) và Ngân hàng Sài Gòn (SCB).
Sự kết hợp của 3 ngân hàng Đệ Nhất (Ficombank), Việt Nam Tín Nghĩa
(TinNghiaBank) và Ngân hàng Sài Gòn (SCB) là giả pháp khắc phụ rủi ro thanh khoản
đối với 3 ngân hàng này. Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, thị trường tài chính có
nhiều biến động thì nguồn vốn khó khăn thì ngân hàng mất khả năng thanh khoản tạm
thời. Trước tình hình này, NHNN đã có hỗ trợ trong thời gian và sự hỗ trợ này đã giúp
12 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
cải thiện đáng kể khả năng thanh khoản của các ngân hàng. Trong khi đó, HĐQT của 3
ngân hàng đã nhóm hợp và đi tới quyết định tự nguyện sáp nhập. Sự sáp nhập này cho
phép 3 ngân hàng hỗ trợ, bổ trợ cho nhau, tiết giảm chi chí khi sáp nhập 3 bộ máy
thành 1 bộ máy; nâng cao năng lực quản trị, lựa chọn được cán bộ tốt nhất. Việc sáp
nhập cũng giúp ngân hàng hợp nhất có tiềm lực lớn hơn, tiếp cận thị trường rộng lớn
hơn.
Trong quá trình hợp nhất 3 ngân hàng hàng Đệ Nhất (Ficombank), Việt Nam Tín
Nghĩa (TinNghiaBank) và Ngân hàng Sài Gòn (SCB) còn có sự tham gia của ngân
hàng nhà nước BIDV. Sự tham gia của ngân hàng nhà nước vào quá trình hợp nhất
nhằm đảm bảo tính thanh khoản và quyền lợi của khách hàng. Việc đảm bảo tính thanh
khoản cho các ngân hàng này là cực kỳ quan trọng vì đây là những ngân hàng nhỏ, tính
thanh khoản thấp, không đảm bảo thanh khoản sẽ dẫn đến việc ngân hàng bị phá sản.
Ngoài việc đảm bảo thanh khoản cho các ngân hàng hợp nhất, BIDV còn đảm bảo
quyền lợi cho khách hàng của ngân hàng, đảm bảo ổn định về mặt kinh tế vĩ mô và tình
hình tài chính trong nước.
3. Ngân hàng Á Châu (ACB)
Nói đến quản trị tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng Việt Nam không thể
không nhắc đến ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB). ACB tùng chịu hai cú
sốc lớn về thanh khoản. Lần đầu tiên vào tháng 10/2003, với tin đồn giám đốc ACB bỏ
trốn đã làm người dân đến rút tiền ào ạt nhưng được sự hỗ trợ chính từ ngân hàng nhà
nước, ACB đã vượt qua cuộc khủng hoảng và tiếp tực phát triển nhanh chóng.

Tuy nhiên đến 08/2012 với sự sai phạm pháp luật của chính Tổng giám đốc ACB
đã làm ngân hàng này một lần nữa rơi vào sóng gió. Người dân kéo nhau đến rút tiền ở
hầu như tất cả các chi nhánh ngân hàng. Tuy nhiên một lần nữa Ngân hàng nhà nước
lại đóng vai trò cứu cánh cuối cùng cho ACB bằng việc hỗ trợ cho ACB vay tiền. Đồng
thời hệ thống liên ngân hàng cũng đã hỗ trợ ACB không nhỏ. Trong ngày 22/8, ngân
13 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
hàng đã vay một khoản tiền lớn trên thị trường mở (OMO). Cụ thể, lượng tiền chảy vào
tài khoản của ACB từ OMO trong ngày là 7.000 tỷ đồng.
Ta thấy rằng trong những tình huống khó khăn chúng ta mới nhận ra tầm quan
trọng của việc quản trị thanh khoản. Trong những tình huống bất ngờ như của ngân
hàng ACB nếu không xử lý được thì ngân hàng sẽ mất thanh khoản, sẽ dẫn đến việc
phá sản. Tuy nhiên như chúng ta cũng biết, việc một ngân hàng phá sản sẽ dẫn đến
hiệu ứng lan truyền đến toàn hệ thống ngân hàng, gây mất niềm tin trong công chúng.
Vì lý do đó nên trong hai lần ACB gặp sự cố thanh khoản đều có sự trợ giúp rất lớn từ
ngân hàng nhà nước và rủi ro thanh khoản đã được hạn chế đến mức thấp nhất.
Từ sự kiện trên chúng ta nhận thấy rằng, tồn tại rủi ro thanh khoản rất lớn trong hệ
thống ngân hàng. Các ngân hàng đều chạy theo lợi nhuận và duy trì dự trữ rất thấp.
Ngân hàng cũng chỉ là một doanh nghiệp kinh doanh vì mục đích cuối cùng là lợi
nhuận, nên việc phải tạo ra càng nhiều lợi nhuận càng tốt là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên
cũng có thể các ngân hàng luôn có tâm lý ỷ lại vào vai trò là người cho vay, là cứu
cánh cuối cùng của ngân hàng nhà nước. Gặp sự cố sẽ dựa vào ngân hàng nhà nước,
nên các ngân hàng luôn kinh doanh mà không đặt nặng vai trò của quản trị tính thanh
khoản.
14 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Chương 3: NGUYÊN NHÂN, MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
I. Nguyên nhân
Theo các chuyên gia thì trong 36 loại rủi ro hoạt động tài chính ngân hàng thì rủi ro
thanh khoản được coi là rủi ro nguy hiểm nhất. Vì một khi ngân hàng mất khả năng

thanh khoản đồng nghĩa với việc đánh mất lòng tin của người gửi tiền, làm sụt giảm
lượng tiền gửi vào ngân hàng, gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt, ảnh hưởng đến uy
tín cũng như hoạt động của ngân hàng, xa hơn có thể ảnh hưởng đến toàn hệ thống
ngân hàng do hiệu ứng lan truyền. Rủi ro thanh khoản xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau như:
- Do chênh lệch về thời gian giữa một bên là khoản nợ phải trả sớm trong khi khoản cho
vay lại chưa đến hạn. Điều này xuất phát từ cơ cấu hoạt động của các ngân hàng
thương mại (NHTM). Do sức ép tăng trưởng và lợi nhuận khi hoạt động của NH chủ
yếu dựa vào tín dụng, các NHTM chủ yếu “bóc ngắn cắn dài”: huy động ít cho vay
nhiều, sử dụng quá nhiều vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Mặc dù, NHNN
quy định chỉ được sử dụng tối đa 30% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn,nhưng
theo thống đốc NHNH thì ở nhiều tổ chức tín dụng tỷ lệ này lên tới 60 -70%, cá biệt
lên tới 100%. Nguy hiểm hơn, vì chạy theo lợi nhuận trước mắt, nhiều NHTM đẩy
mạnh cho vay bất động sản và chứng khoán. Và khi 2 thị trường này đóng băng đã
khiến một lượng vốn không nhỏ của các NHTM cũng bị đóng băng và trở thành nợ
xấu.
- Do lạm phát tăng cao, kéo dài nhiều năm khiến cho người dân chưa tin tưởng và việc
nắm giữ đồng nội tệ. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kìm chế lạm phát
đã đẩy mặt bằng lãi suất tăng cao, cả lãi suất huy động và cho vay. Hơn nữa NHNN áp
đặt trần lãi suất huy động nhưng lại thả trần lãi suất cho vay đã đẩy tỷ lệ tín dụng trên
tổng huy động lên mức rủi ro hơn.
- Mặt khác, xuất phát từ chính yếu kém của hệ thống ngân hàng. Do sự phát triển một
cách ồ ạt của các ngân hàng, trong khi miếng bánh thị phần có giới hạn đã khiến cho
15 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
các ngân hàng cạnh tranh nhau rất khốc liệt. Để cạnh tranh huy động vốn trong khi lãi
suất bị đặt trần, các NH này đã không ngần ngại cho lãi suất tiền gửi kỳ hạn ngắn gần
bằng với kỳ hạn dài. Do đó, người dân sẽ không dại gì để lựa chọn kỳ hạn dài.
- Tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách
quản lý rủi ro làm mất cân đối một số tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không

đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Cùng với trách nhiệm của ngân hàng thương mại thì quản lý rủi ro thanh khoản còn có
một phần trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là người mua bán cuối
cùng trên thị trường ngân hàng, nhằm ổn định tính thanh khoản cho cả hệ thống. Do đó
đã tạo ra tâm lý ỷ lại của các ngân hàng thương mại, luôn có ngân hàng nhà nước là
cứu cánh cuối cùng khi gặp rủi ro thanh khoản.
- Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như : sự sụt giảm mạnh giá cổ phiếu của
ngân hàng, chỉ số tín nhiệm tín dụng của ngân hàng giảm sút cũng ảnh hưởng đến tâm
lý của người gửi tiền và các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vốn vào các ngân hàng.
II. Giải pháp:
Trước tình hình nền kinh tế đang khó khăn và suy thoái như hiện nay, vấn đề tính
thanh khoản đang là một chủ đề rất phức tạp và thường xuyên được nhắc đến vì sự
nghiêm trọng và việc giải quyết cấp bách vấn đề thanh khoản hiện nay. Để nâng cao
quản trị trong hệ thống Ngân hàng, việc này phải được thực hiện từ Nhà nước, Ngân
hàng nhà nước và các Ngân hàng thương mại .
1/ Đối với Chính phủ:
Chính phủ cần phải hoàn thiện hệ thống luật pháp đáp ứng yêu cầu hội nhập vào
nền kinh tế khu vực và thế giới. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng hệ
thống Ngân hàng thương mại lành mạnh, minh bạch, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước.
16 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
Cần phải đảm bảo tính độc lập của Ngân hàng nhà nướcđể thực hiện các chính
sách tiền tệ hiệu quả và nhanh chóng.
2/ Đối với Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước phải thực hiện các chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng,
phối hợp chặt chẽ với các chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác
nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Lãi suất và tỷ giá được điều hành ở
mức phù hợp với các cân đối kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống và nâng cao hiệu
quả quản lý của Ngân hàng nhà nước.

- Với vai trò kiểm soát tài sản có và tài sản nợ của mình, Ngân hàng nhà
nướchàng ngày cung cấp cho thị trường các thông tin liên quan đến tiền tệ (tiền mặt và
các tài khoản vãng lai tại Ngân hàng nhà nước), và tác động tới quy mô thanh khoản
trên toàn bộ thị trường tài chính cũng như vị thế thanh khoản của từng định chế tài
chính. Thông qua các biện pháp đó, Ngân hàng nhà nướccó thể tác động vào lãi suất và
tổng nguồn vốn của thị trường tài chính để ổn định tình hình tài chính và hỗ trợ tính
thanh khoản cho các Ngân hàng nhà nước.
- Thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng: Trong trường hợp định chế tài chính
thiếu thanh khoản vì lý do bất thường, Ngân hàng nhà nước có thể cung cấp khoản tín
dụng (thanh khoản) cho định chế đó với tư cách là người cho vay cuối cùng nếu thấy
cần thiết trên cơ sở duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính.
Ngân hàng nhà nước phải tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giám sát hoạt
động của các Ngân hàng thương mại ; thường xuyên kiểm tra và thu thập dữ liệu liên
quan đến tính thanh khoản của các Ngân hàng thương mại để đánh giá tình hình quản
trị thanh khoản ở các Ngân hàng thương mại để đảm bảo các Ngân hàng không chỉ
tuân thủ chặt chẽ các luật định, mà còn phải xem liệu có những khó khăn tiềm ẩn nào
mà các Ngân hàng phải đối mặt để Ngân hàng nhà nước có thể có những giải pháp
17 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
ngăn chặn vấn đề trước khi nó xảy ra, góp phần tăng cường sự ổn định của hệ thống tài
chính.
Chính phủ và Ngân hàng nhà nước cần phải mạnh tay trong việc tái cấu trúc hệ
thống Ngân hàng bằng cách kiểm soát việc thành lập các Ngân hàng thương mại , nâng
dần các tiêu chuẩn khi thành lập Ngân hàng mới. Đối với những Ngân hàng thương
mại hoạt động yếu kém, không hiệu quả thì nên cho các Ngân hàng này phá sản, hoặc
sáp nhập giữa các Ngân hàng nhỏ để có được một hệ thống ngân hàng lành mạnh,
trong sạch và công bằng.
3/ Đối với các Ngân hàng thương mại
Trong những năm gần đây, các Ngân hàng thương mại đã không chú ý tới việc
quản trị thanh khoản, yếu tố then chốt quyết định sự an toàn trong hoạt động Ngân

hàng. Một số giải pháp để khắc phục tình trạng này:
Các Ngân hàng thương mại cần phải xem Quản trị rủi ro thanh khoản là một ưu
tiên hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Việc đảm bảo và quản lý
tính thanh khoản ngân hàng không phải chỉ là nhiệm vụ hỗ trợ phía sau. Điều này cần
được thực hiện từ ban quản lý cấp cao. Chỉ có ở cấp quản lý này mới có thể quyết định
chính xác cần phải áp dụng những biện pháp nào, đến mức độ nào và với chi phí bao
nhiêu, để có thể ứng phó với bất kỳ tình huống nào đe dọa đến khả năng thanh khoản
của ngân hàng. Do đó, các Ngân hàng cần nâng cao năng lực quản trị của ban điều
hành , nâng cao năng lực hoạch định và dự báo để có kế hoạch chủ động đối phó kịp
thời.
Các Ngân hàng thương mại cần cân đối cơ cấu và tỷ trọng tài sản nợ, tài sản có
cho phù hợp với năng lực. Đây là việc làm cực kỳ quan trọng trong việc giữ vững
thanh khoản cho Ngân hàng.
18 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
- Thực hiện cơ cấu huy động và cho vay, đặt ra một tỷ lệ phù hợp về huy động
ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, nên đưa ra một tỷ lệ nhất định về việc lấy nguồn
huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn phù hợp với từng Ngân hàng, từng thời
kỳ, tránh tỷ lệ quá cao.
- Ngân hàng cũng nên tăng cường huy động nguồn vốn với kỳ hạn dài nhằm tạo
sự ổn định thanh khoản trong dài hạn, đặc biệt là nhu cầu thanh khoản trong các dịp
đặc biệt như dịp tết âm lịch.
- Hạn chế cho vay tập trung vào một số khách hàng lớn, hạn chế tín dụng vào một
số ngành nghề hay địa phương cụ thể, đa dạng khách hàng và ngành nghề để tối ưu hóa
và hạn chế rủi ro danh mục cho vay. Hạn chế cho vay vào những lĩnh vực có độ rủi ro
và có tính đầu cơ như bất động sản.
Ngân hàng thương mại phải nghiêm túc thực hiện các Quy định về dự trữ bắt
buộc và dự trữ thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước. Thực hiện việc quản lý tốt chất
lượng tín dụng, kỳ hạn tín dụng, rủi ro lãi suất và khe hở lãi suất: Giảm tối thiểu tỷ lệ
nợ xấu, nợ quá hạn, có kế hoạch tìm hiểu khách hàng và dự trù cho những tình huống

xấu nhất.
Ưu tiên đầu tư vào các tài sản dễ dàng chuyển đồi thành tiền mặt một cách nhanh
chóng nhưng vẫn đảm bảo có hiệu quả kinh doanh.
Các Ngân hàng nên tham gia nhiều hơn vào thị trường các công cụ phái sinh. Bởi
vì đó là các công cụ khá hiệu quả trong việc tạo ra tính thanh khoản cao cho các chứng
khoán nợ nhằm hạn chế rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá , từ đó hạn chế rủi ro thanh
khoản.
Xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp. Việc
phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu hàng đầu của mọi tổ chức, doanh nghiệp. Ngân
hàng cần có kế hoạch tuyển dụng, đào tạo và sử dụng nhân viên một cách khoa học,
19 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
minh bạch và bình đẳng nhằm giúp họ phát huy được năng lực của bản thân và nỗ lực
cao để góp phần vào thành công của ngân hàng.
Xây dựng và hoàn thiện tốt hệ thống đánh giá nội bộ, hoàn thiện các Qui chế, qui
trình để giải quyết một cách khoa học và hiệu quả việc hạn chế rủi ro lãi suất và khe hở
lãi suất.
Ngân hàng cần nâng cao hơn nữa khả năng dự báo với độ chính xác cao các luồng
tiền vào, luồng tiền ra, đặc biệt là các luồng tiền liên quan tới các cam kết ngoại bảng
và các nghĩa vụ tài sản nợ để chủ động đưa ra kế hoạch hoạt động trong các tình huống
bất ngờ.
Tuy nhiên, “giải quyết vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng không phải là
bài toán đơn giản vì phải tập trung vào củng cố niềm tin của người dân với VND, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và tạo ra một môi trường sáp nhập, giải
thể, phá sản doanh nghiệp lành mạnh và hiệu quả. Đây là bài toán dài hơn và không
giải quyết được một sớm một chiều”. (Nguyễn Hồng Hải - Nguyên PTGĐ Oceanbank).
Do đó, chúng ta phải kết hợp linh hoạt các chính sách tài khóa, những quy định của
chính phủ cũng như hệ thống luật kinh doanh nhằm đảm bảo tính công bằng và trong
sạch, có như vậy mới có thể đảm bảo sự ổn định thị trường tài chính và tính thanh
khoản của các ngân hàng Việt Nam.

20 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
KẾT LUẬN
Quản trị tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng là yếu tố quan trọng hàng
đầu đảm bảo tính an toàn cho hệ thống Ngân hàng. Đây không phải là vấn đề mới
nhưng trong giai đoạn tình hình nợ xấu đang có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ trọng
lớn, vấn đề nâng cao tính thanh khoản trong hệ thống ngân hàng ngày càng trở nên
quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết. Tình hình thanh khoản của các Ngân hàng đã
được xem xét đồng thời nhiều giải pháp đã được đưa ra, bao gồm cả vai trò của Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước và trong bản thân các ngân hàng. Trong thời gian tới, cùng
với việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, mà mở đầu là ba ngân hàng Đệ Nhất
(Ficombank), Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) và Sài Gòn (SCB), hệ thống tài
chính sẽ trở nên ổn định và mạnh mẽ hơn, tính thanh khoản của các ngân hàng sẽ được
chú trọng và cải thiện đáng kể.
Tài liệu tham khảo
21 | P a g e
Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trần Huy Hoàng
− Nguyễn Duy Sinh, “Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản trong các
ngân hàng thương mại Việt Nam”, Luận văn TP.HCM, 7/2009
− />ngan-hang.htm
− />−
− Website các Ngân hàng thương mại VN
− Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2011 của ngân hàng ABBank


− ngan - hang /
− www.baomoi.com › Kinh tế › Tài chính

− Website một số bài nghiên cứu:
22 | P a g e

×