Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

316 Giải pháp phát triển ngân hàng điện tử trong hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.99 KB, 81 trang )

1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ - SỰ CẦN THIẾT
PHẢI PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TRONG HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.

1.1
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
1.1.1. Sự phát triển của ngân hàng điện tử trên thế giới.
Ngày nay, Thương mại điện tử đang là một xu thế phát triển tất yếu trên thế giới.
Thương mại điện tử đang phát triển nhanh và làm biến đổi sâu sắc các phương thức
kinh doanh, thay đổi hình thức, nội dung hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của loài
người.
Để thúc đẩy quá trình hội nhập, thu hút khách hàng cũng như giành giật cơ hội
trong kinh doanh, hầu hết các ngân hàng trên thế giới đang không ngừng tăng cường và
đưa ra các dịch vụ tiện lợi, nhanh gọn và được hỗ trợ mạnh mẽ của các công nghệ hiện
đại như máy giao dịch tự động (ATM), máy thanh toán tại các điểm bán hàng (POS),
mạng lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua mạng điện thoại, máy tính cá nhân…
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông, của khoa học kỹ
thuật, của công nghệ mới như Internet, mạng điện thoại di động, Web…, mô hình ngân
hàng với hệ thống quầy làm việc, những tòa nhà cao ốc, giờ làm việc hành chính 7, 8
giờ sáng đến 4, 5 giờ chiều (“brick and mortar” Banking) đang dần được cải tiến và
thay thế bằng mô hình ngân hàng mới – ngân hàng điện tử (“ click and mortar”
Banking). Khẳng định bằng những thành công trong những năm qua, ngân hàng điện tử
đã có những bước phát triển vượt bậc và trở thành mô hình tất yếu cho hệ thống ngân
hàng trong thế kỷ 21.
Tại các nước đi đầu như Mỹ, các nước Châu Âu, Australia và tiếp sau đó là các
quốc gia và vùng lãnh thổ như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Đài
Loan… các ngân hàng ngoài việc đẩy mạnh phát triển hệ thống thanh toán điện tử còn
mở rộng phát triển các kênh giao dịch điện tử (E – Banking) như các loại thẻ giao dịch
qua máy rút tiền tự động ATM, các loại thẻ tín dụng Smart Card, Visa, Master card…
và các dịch vụ ngân hàng trực tuyến như: Internet Banking, Mobile banking,


Telephone Banking, Home Banking. Theo thống kê của Stegman, năm 2001 ở Mỹ có
2
trên 14 triệu khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Ở Anh, theo khảo
sát của BACS (Bankers Automated Clearing Services), số người sử dụng dịch vụ này
đã tăng từ 3,5 triệu lên 7,8 triệu trong vòng hai năm. Số người thanh toán hóa đơn và
chuyển tiền qua internet hoặc qua điện thoại cũng tăng mạnh. Trong năm 2002 đã có
7,2 triệu người thanh toán các loại chi phí và chuyển khoản theo đường này tăng 44%
so năm 2001 và đã có tổng cộng 72 triệu lượt thanh toán trực tuyến, trong đó số người
sử dụng thẻ tín dụng chiếm hơn một nửa. Ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương,
Singapore và Hồng Kông đã phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử từ rất sớm. Tại
Hồng Kông, dịch vụ ngân hàng điện tử có từ năm 1990, còn các ngân hàng ở Singapore
cung cấp dịch vụ ngân hàng qua Internet từ năm 1997. Dịch vụ Internet Banking ở
Thái Lan hoạt động từ năm 2001. Trung Quốc mới tham gia hoạt động ngân hàng trực
tuyến từ năm 2000 nhưng đã có rất nhiều cải cách về chính sách cũng như chiến lược
để phát triển lĩnh vực này. Theo một khảo sát mới đây của IDC, đến hết năm 2002, có
16,8 triệu khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến ở tám nước và vùng
lãnh thổ là Trung Quốc, Australia, Hồng Kông, Ấn Độ, Malaysia, Singapore, Đài
Loan.
Tại Mỹ, những ngân hàng lớn tham gia kinh doanh trực tuyến ngày càng nhiều,
theo báo cáo của FDIC, số ngân hàng có tài sản dưới 100 triệu USD có cung cấp dịch
vụ ngân hàng điện tử chỉ chiếm khoảng 5%, trong khi đó số ngân hàng có tài sản lớn
hơn 10 tỷ USD có dịch vụ ngân hàng điện tử chiếm tới 84% (Bảng 1.1)
Bảng 1.1: Số lượng ngân hàng có mặt trên mạng Internet

Tổng tài sản (triệu USD) Số ngân hàng Có mặt trên mạng (%)
Ít hơn 100 5,912 5
Từ 100 đến 500 3,403 16
Từ 500 đến 1000 418 34
Từ 1000 đến 3000 312 42
Từ 3000 tới 10.000 132 52

Trên 10.000 94 84
(Nguồn: [FDIC01])
3
Kể từ giai đoạn có mặt trên mạng tới khi cung cấp đầy đủ dịch vụ trực tuyến là cả
một quá trình. Vào thời điểm năm 2000, trong số Top 100 ngân hàng của Mỹ thì có
36% không có mặt trên mạng, 41% chỉ cung cấp thông tin và còn lại 23% là cung cấp
đầy đủ dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Trong năm 2000 đã có khoảng 1.100 ngân hàng
lớn nhỏ tại Mỹ cung cấp đầy đủ mọi dịch vụ ngân hàng qua mạng, con số này tăng lên
1.200 vào cuối năm 2003 và sẽ đạt tới 3.000 vào cuối năm 2005.
Trong những năm vừa qua, ngân hàng điện tử đã phát triển lớn mạnh và nhanh
chóng. Theo nghiên cứu của Jupiter Media, tổng số các giao dịch qua mạng của toàn
bộ các ngân hàng tại Mỹ đã tăng 77,6% chỉ trong vòng một năm từ tháng 07/2000 tới
tháng 07/2001, trong khi đó, cùng thời gian, lưu lượng giao thông trao đổi thông tin
qua hệ thống World Wide Web chỉ tăng 19,8% trong cùng kỳ. Một cơ quan nghiên cứu
trên mạng: Datamonitor đã báo cáo cho giai đoạn 2002 cho đến hết năm 2003: số
lượng tài khoản ngân hàng điện tử tại Châu Âu tăng trung bình 34%/năm và tăng từ
14,3 triệu tài khoản năm 2002 lên xấp xỉ 43,2 triệu tài khoản vào cuối năm 2005, và số
lượng người sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử sẽ tăng lên nhanh chóng.
Giao dịch qua ngân hàng điện tử hoạt động hiện nay chiếm từ 5 – 10% tổng khối
lượng giao dịch của các ngân hàng bán lẻ ở Mỹ và Châu Âu. Tại Pháp, số lượng tài
khoản ngân hàng điện tử đã tăng 75%/năm và dự đoán sẽ đạt con số 30.000 vào năm
2006.

Đồ thị 1.1: Số lượng khách hàng của dịch vụ ngân hàng trực tuyến của các nước
Châu Âu năm 2000 – 2004
4
1.1.2. Khái niệm dịch vụ ngân hàng điện tử.
- Dịch vụ ngân hàng điện tử được giải thích như là khả năng của một khách hàng
có thể truy cập từ xa vào một ngân hàng nhằm: thu thập thông tin, thực hiện các giao
dịch thanh toán, tài chính dựa trên các tài khoản lưu ký tại ngân hàng đó, đăng ký sử

dụng các dịch vụ mới
1
.
- Dịch vụ ngân hàng điện tử là một hệ thống phần mềm vi tính cho phép khách
hàng tìm hiểu hay mua dịch vụ ngân hàng thông qua việc nối mạng máy vi tính của
mình với ngân hàng
2
.
- Các khái niệm trên đều định nghĩa ngân hàng điện tử thông qua các dịch vụ
cung cấp hoặc qua kênh phân phối điện tử. Định nghĩa này có thể đúng ở từng thời
điểm nhưng không thể khái quát hết được cả quá trình lịch sử phát triển cũng như
tương lai phát triển của ngân hàng điện tử, một định nghĩa tổng quát nhất về ngân hàng
điện tử có thể được diễn đạt như sau: NHĐT bao gồm tất cả các dạng của giao dịch
giữa ngân hàng và khách hàng (cá nhân và tổ chức) dựa trên quá trình xử lý và chuyển
giao dữ liệu số hoá nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
1.1.3. Các giai đoạn phát triển của Ngân hàng điện tử
Kể từ ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ ngân hàng qua mạng đầu tiên tại Mỹ
vào năm 1989 – ngân hàng WellFargo. Từ đó đến nay có rất nhiều tìm tòi, thử nghiệm,
thành công cũng như thất bại trên con đường xây dựng một hệ thống ngân hàng điện tử
hoàn hảo, phục vụ tốt nhất cho khách hàng. Tổng kết những mô hình đó, nhìn chung hệ
thống ngân hàng điện tử được phát triển qua những giai đoạn sau đây:






1. Trương Đức Bảo, Ngân hàng điện tử và các phương tiện giao dịch điện tử, Tạp chí Tin học Ngân hàng số 4
(58), 7/2003.
2. How the Internet redefines banking, Tạp chí the Australian Banker, tuyển tập 133, số 3, 6/1999.


5
- Brochure – ware: Là hình thái đơn giản nhất của ngân hàng điện tử. Hầu hết
các ngân hàng khi mới bắt đầu xây dựng ngân hàng điện tử là thực hiện theo mô hình
này. Việc đầu tiên chính là xây dựng một website chứa những thông tin về ngân hàng,
về sản phẩm lên trên mạng nhằm quảng cáo, giới thiệu, chỉ dẫn, liên lạc…, thực chất ở
đây chỉ là một kênh quảng cáo mới ngoài những kênh thông tin truyền thống khác như
báo chí, truyền hình… mọi giao dịch của ngân hàng vẫn thực hiện qua hệ thống phân
phối truyền thống, đó là các chi nhánh ngân hàng.
- E – commerce: Trong hình thái thương mại điện tử , ngân hàng sử dụng Internet
như một kênh phân phối mới cho những dịch vụ truyền thống như xem thông tin tài
khoản, nhận thông tin giao dịch chứng khoán… Internet ở dây chỉ đóng vai trò như một
dịch vụ cộng thêm vào để tạo sự thuận lợi thêm cho khách hàng. Hầu hết các ngân
hàng vừa và nhỏ đang ở hình thái này.
- E – business: Trong hình thái này, các xử lý cơ bản cả ở phía khách hàng (front-
end) và phía người quản lý (back-end) đều được tích hợp với Internet và các kênh phân
phối khác. Giai đoạn này được phân biệt bởi sự gia tăng về sản phẩm và chức năng của
ngân hàng với sự phân biệt sản phẩm theo nhu cầu và quan hệ của khách hàng đối với
ngân hàng. Hơn thế nữa, sự phối hợp, chia sẻ dữ liệu giữa hội sở ngân hàng và các
kênh phân phối như chi nhánh, mạng Internet, mạng không dây… giúp cho việc xử lý
yêu cầu và phục vụ khách hàng được nhanh chóng và chính xác hơn. Internet và khoa
học công nghệ đã tăng sự liên kết, chia sẻ thông tin giữa ngân hàng, đối tác, khách
hàng, cơ quan quản lý… Một vài ngân hàng tiên tiến trên thế giới đã xây dựng được
mô hình này và hướng tới xây dựng được một ngân hàng điện tử hoàn chỉnh.
- E – bank (E – enterprise): chính là mô hình lý tưởng của một ngân hàng trực
tuyến trong nền kinh tế điện tử, một sự thay đổi hoàn toàn trong mô hình kinh doanh và
phong cách quản lý. Những ngân hàng này sẽ tận dụng sức mạnh thực sự của mạng
toàn cầu nhằm cung cấp toàn bộ các giải pháp tài chính cho khách hàng với chất lượng
tốt nhất. Từ những bước ban đầu là cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hiện hữu thông
qua nhiều kênh riêng biệt, ngân hàng có thể sử dụng nhiều kênh liên lạc này nhằm

cung cấp nhiều giải pháp khác nhau cho từng đối tượng khách hàng chuyên biệt.

6
1.1.4 Hệ thống thanh toán điện tử.
Thanh toán điện tử được hiểu như là việc ứng dụng những công nghệ mới, đặc
biệt là công nghệ internet vào những phương tiện thanh toán truyền thống hoặc xây
dựng những hệ thống mới nhằm phục vụ cho những nhu cầu thanh toán (giao dịch
truyền thống trước đây và giao dịch qua mạng sau này). Thanh toán điện tử ra đời đã
chứng tỏ được ưu thế của mình khi tiết kiệm được thời gian, chi phí, giảm thiểu rủi ro
và công việc hành chính so với những phương tiện truyền thống. Tuy nhiên, việc xây
dựng một hệ thống thanh toán điện tử vừa dễ dàng sử dụng vừa đạt được chuẩn chung
nhất cho mọi yêu cầu đã gặp phải rất nhiều khó khăn, thậm chí thất bại. Xét về tổng
thể, hệ thống thanh toán điện tử gồm hai thành phần chính, đó là thanh toán doanh
nghiệp với cá nhân B2C (Business to Consumer) và thanh toán giữa các doanh nghiệp
B2B (Business to Business).
1.1.4.1. Thanh toán B2C – Doanh nghiệp và cá nhân
Sự phát triển của TMĐT không thể nào không gắn với sự phát triển của hệ thống
thanh toán điện tử và sẽ không có sự thịnh vượng của TMĐT nếu như không có một
cơ sở hạ tầng thanh toán nhanh chóng, an toàn và có chuẩn chung thống nhất. Tuy
nhiên, trong thời gian đầu, hệ thống thanh toán dựa trên mạng internet đã phải vượt qua
nhiều thất bại rồi suy thoái. Rất nhiều hệ thống đã được đưa vào thử nghiệm rồi thất
bại. Ví dụ như tiền kỹ thuật số (digital cash), được coi là khởi nguồn của tiền điện tử
sau này (e-cash), được sử dụng đầu tiên tại Amsterdam sau đó được triển khai tại thung
lũng Silicon vào tháng 08/1997, sau khi đạt được một số ứng dụng tương đối, cuối
cùng phải thanh lý vào tháng 09/1998. Một ví dụ khác: Người dẫn đầu thị trường điện
tử - Cybercash đã phải thay đổi chiến lược kinh doanh và những nhà lãnh đạo chủ chốt
nhiều lần, và đã từng bị loại khỏi danh sách niêm yết trên sàn giao dịch NASDAQ vào
đầu năm 2001. Hay một công ty đầu tư mạo hiểm của Pháp: Cyber-com đã thuyết phục
được phần lớn những ngân hàng Pháp với quan điểm kết hợp công nghệ Internet và thẻ
thông minh, tuy nhiên, đã bị phá sản vào đầu năm 2001.

Hệ thống thanh toán nhỏ (Micro-payment) được triển khai vào những thập niên
90 thích hợp cho việc thanh toán của hàng hoá vô hình và có giá trị thấp như thông tin,
7
giải trí trực tuyến, băng đĩa nhạc, vé xem phim… cũng đạt được một vài thành công
nhưng vẫn chưa đạt được thị phần như mong muốn.
Một cố gắng khác nhằm xây dựng một hệ thống chuẩn chung và ứng dụng rộng
cũng đã đạt được một vài thành công. JEPI (Joint Electric Payment Initiative) được hậu
thuẫn lớn bởi CommerceNet và World Wide Web đã bị bỏ rơi bởi sự thiếu quan tâm
của những doanh nghiệp kinh doanh trên mạng. Hệ thống SET (Secure Electronic
Transaction) được tài trợ bởi hai tổ chức khổng lồ là Visa và MasterCard, cũng như hai
ông trùm công nghệ là IBM và Microsoft, là một hệ thống mã hoá phức tạp, sử dụng
công nghệ PKI (Public Key Infrastructure), đã gặp phải những vấn đề khi không được
sự chấp thuận của các thương gia, người tiêu dùng cuối cùng và các ngân hàng, do sự
phức tạp và ít được sự chấp thuận của khách hàng.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhằm thay thế hệ thống thanh toán thẻ và hệ thống
mạng thanh toán của chúng hiện tại vẫn đang là công cụ chính cho thanh toán B2C,
được sử dụng trên 95% các giao dịch. Tuy nhiên, rất nhiều cá nhân và tổ chức nhận ra
rằng thanh toán dựa trên thẻ không phải là phương thuốc trị bách bệnh cho tất cả các
giao dịch TMĐT. Chi phí hơi cao đối với các nhà bán lẻ và không được ủng hộ bởi các
ngân hàng do sự gia tăng rủi ro của tranh chấp và lừa dối khi thẻ không được kiểm tra
trực tiếp. Các nhà phát hành thẻ hàng đầu đang xúc tiến triển khai thẻ thông minh, kết
hợp giữa những tiện ích của thẻ và của mạng ngân hàng điện tử (một con chip thông
minh được gắn trên thẻ) đang hứa hẹn một tiềm năng sẽ phù hợp cho mọi loại giao
dịch.
Đánh giá lại mọi sự thất bại, nguyên nhân chính là sự xa vời với hành vi và tính
cách của người tiêu dùng. Những giải pháp mới thường rơi vào vòng luẩn quẩn. Những
thương nhân thường không sử dụng những hệ thống mới nếu chỉ có một số lượng ít
khách hàng sử dụng nó, và ngược lại khách hàng cũng không sử dụng hệ thống thanh
toán nếu chỉ rất ít thương gia chấp nhận nó.
Mặc dù đã trải qua những kinh nghiệm không mấy tốt đẹp khi xây dựng những

thế hệ đầu của việc thanh toán B2C, sự phát triển của hệ thống thanh toán dựa trên
mạng điện tử không những không giảm và đã được mở rộng và đạt được mục đích.
Thanh toán B2C đã thu hút nhiều thành viên mới, họ là những nhà kinh doanh qua
8
mạng, được đầu tư bởi những quỹ đầu tư mạo hiểm hoặc những nhà cung cấp công
nghệ nổi tiếng ví dụ như Microsoft hay Yahoo.
1.1.4.2. Thanh toán B2B – Doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Sự năng động của nền tài chính điện tử (e-finance) là sự thay đổi nhận thức từ
phản hồi sang chủ động của công nghệ ngân hàng. Nhiều công nghệ mới đã ra đời khi
cố gắng ứng dụng công nghệ Internet vào hạ tầng thanh toán hiện hữu. Hai hệ thống
được ứng dụng và có hiệu quả nhất là Identrus và SWIFTNET.
- Hệ thống SWIFTNET (
www.swift.com)
Hệ thống SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial
Telecommunications) bao gồm hơn 7.000 tổ chức tài chính của trên 190 nước, là
xương sống của hệ thống thanh toán giữa các tổ chức trên thế giới hiện nay. Vào tháng
12/2000, những nhà quản trị mạng SWIFT quyết định xây dựng mạng SWIFT dựa trên
hệ thống mạng IP (Internet Base Network): SWIFTNET, nhằm đưa mạng SWIFT trở
thành xương sống của hạ tầng thanh toán mạng trực tuyến toàn cầu. Ở Châu Âu,
SWIFT đã liên kết với hệ thống ngân hàng trung ương xây dựng hệ thống thanh toán
thời gian thực, phục vụ như một mạng trao đổi thông tin cho các giao dịch số lượng lớn
trên toàn Châu Âu. Vai trò của SWIFTNET ngày càng được mở rộng và trở thành
trung tâm trao đổi thông tin phục vụ cho thanh toán bù trừ và thanh toán chứng từ
(Global Straight Through Processing) và thanh toán quốc tế (CLS Bank) trên phạm vi
toàn thế giới.
Mạng SWIFTNET sẽ kết hợp chuẩn IP với khả năng bảo mật tốt, hiệu suất cao,
giao diện ứng dụng chính của SWIFT hiện nay SWIFT – FIN đã kết hợp với
SWIFTNET vào năm 2004 và đã cung cấp thêm các dịch vụ như cung cấp thông tin, hạ
tầng bảo mật, thanh toán… và nhiều dịch vụ khác.
Vào tháng 9/2000, Identrus đã công bố một kết hợp chiến lược kết hợp cùng

SWIFTNET, chuẩn IP sẽ giúp cho những thành viên của SWIFT và người sử dụng có
được những giao diện đơn giản hơn và hiệu quả. Tham vọng của SWIFTNET là trở
thành sự lựa chọn hàng đầu cho hạ tầng thanh toán thế hệ mới dựa trên công nghệ
Internet.
9
Mặc dù hệ thống thanh toán, chuyển tiền được sử dụng cho giao dịch của các tổ
chức tài chính đã được xây dựng trên hệ thống điện tử từ những năm 70, tuy nhiên
công nghệ Internet đã thổi một luồng sinh khí mới vào hệ thống cũ, chuyển thành một
hạ tầng thanh toán mở, thiết lập liên kết trực tiếp giữa khách hàng, người bán, các nhà
trung gian và những nhà cung cấp công nghệ. Mạng Internet đã xoá bỏ những khoảng
cách vật lý, xây dựng những tiêu chuẩn mới và với công nghệ bảo mật, chứng chỉ số và
thẻ thông minh, hạ tầng thanh toán hiện nay đủ khả năng cung cấp một mô hình thanh
toán linh hoạt, an toàn và xây dựng trên một mạng toàn cầu.
- BOLERO (
www.bolero.net)
Bolero International Ltd được thành lập vào tháng 08/1998 như một công ty cổ
phần của SWIFT và Throught Transport Group (TT Group), phục vụ cho công việc hậu
cần và vận chuyển (với khoảng 10.000 thành viên là khách hàng). Vào mùa thu 2000,
Bolero, được đầu tư thêm 50 triệu USD từ tập đoàn đầu tư mạo hiểm Ppax Partner.
Bolero xây dựng một nền tảng cho việc chuyển giao chứng từ điện tử trong
thương mại và dữ liệu một cách an toàn qua mạng Internet. Hệ thống đã được đưa vào
sử dụng tháng 10/1999, sử dụng công nghệ truyền tin của SWIFT và được đặt tên lại
là Bolero.net.
Bolero hoạt động như một bên thứ ba độc lập nhằm bảo đảm việc chuyển giao và
nhận thông tin một cách bảo mật theo suốt dây chuyền thương mại từ xử lý và quản lý
đơn hàng cho tới trao đổi chứng từ và thanh toán. Bolero.net cung cấp một cấu trúc
chuẩn chung cho tất cả các bên tham gia vào thương mại quốc tế (nhà xuất khẩu, nhà
nhập khẩu, đại lý hãng tàu, nhà vận chuyển, hải quan và ngân hàng quốc tế), lợi thế của
Bolero chính là sự kết hợp giữa công nghệ Internet và khung pháp lý. Sau nhiều năm tư
vấn Bolero.net đã xuất bản một cuốn Quy tắc chung dành cho mọi khách hàng, tạo sự

nhất quán và chính xác cho mọi dịch vụ mà Bolero cung cấp. Khách hàng, ví dụ như
Sanwa và Ottot Versand đã ước đoán rằng, xử lý chứng từ qua mạng Bolero sẽ giúp
giảm thời gian xử lý chứng từ từ 15 ngày xuống còn khoảng 2 ngày và giảm chi phí
xuống từ 30% đến 50%.
Hiện nay, Bolero đang hoạt động dựa trên mạng SWIFT, và dự định sẽ là người
đầu tiên tham gia mạng SWIFTNET. Để phát huy vai trò của công nghệ Internet,
10
Bolero đã và đang phát triển BoleroXML, một tập hợp các tiêu chuẩn kỹ thuật để mô tả
cấu trúc và nội dung của bản điện tử thay thế cho các chứng từ thanh toán thương mại
hiện hữu như hoá đơn, vận đơn, hối phiếu… Hơn 30 công ty trong đó có Sun
Microsystems AMS, Mercator, Neon, China System, Midas Kapiti và Surecomp… đã
trở thành đối tác của Bolero.net và trong tương lai, chứng từ điện tử có lẽ sẽ đóng vai
trò chính trong hệ thống thương mại hiện nay.
1.2.
CÁC SẢN PHẨM VÀ DỊCH VỤ CỦA NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
1.2.1 Các sản phẩm.
Sự phát triển như vũ bảo của công nghệ thông tin trong những năm gần đây đã
ảnh hưởng khá rõ nét đến sự phát triển của công nghệ ngân hàng. Hiện nay, ở nhiều
nước trên thế giới dịch vụ ngân hàng điện tử đã phát triển khá phổ biến, đa dạng về loại
hình sản phẩm và dịch vụ. Tập trung lại bao gồm các loại sau:
- Call centre
Do quản lý dữ liệu tập trung nên khách hàng có tài khoản tại bất kỳ chi nhánh nào
vẫn gọi về một số điện thoại cố định của trung tâm này để được cung cấp mọi thông tin
chung và cá nhân. Khác với phone banking chỉ cung cấp các loại thông tin lập trình
sẵn, Call centre có thể linh hoạt cung cấp thông tin hoặc trả lời các thắc mắc của khách
hàng. Nhược điểm của Call centre là phải có người trực 24/24 giờ.
- Phone banking
Đây là loại sản phẩm cung cấp thông tin ngân hàng qua điện thoại hoàn toàn tự
động. Do tự động nên các loại thông tin được ấn định trước, bao gồm thông tin về tỷ
giá hối đoái, lãi suất, giá chứng khoán, thông tin cá nhân cho khách hàng như số dư tài

khoản, liệt kê năm giao dịch cuối cùng trên tài khoản, các thông báo mới nhất… Hệ
thống cũng tự động gửi fax khi khách hàng yêu cầu cho các loại thông tin nói trên.
Hiện nay, qua Phone banking, thông tin được cập nhật, khác với trước đây, khách hàng
chỉ có thông tin của cuối ngày hôm trước.
- Mobile banking
Là hình thức thanh toán trực tuyến qua mạng điện thoại di động, song hành với
phương thức thanh toán qua mạng Internet ra đời khi mạng lưới Internet phát triển đủ
mạnh vào khoảng thập niên 90. Phương thức này được ra đời nhằm giải quyết nhu cầu
11
thanh toán các giao dịch có giá trị nhỏ (Micro payment) hoặc những dịch vụ tự động
không có người phục vụ. Muốn tham gia dịch vụ, khách hàng đăng ký để trở thành
thành viên chính thức trong đó quan trọng là cung cấp những thông tin cơ bản như: số
điện thoại di động, tài khoản cá nhân dùng trong thanh toán. Sau đó, khách hàng được
nhà cung ứng dịch vụ thanh toán qua mạng này cung cấp một mã số định danh (ID).
Mã số này không phải số điện thoại và nó sẽ được chuyển thành mã vạch để dán lên
điện thoại di động, giúp cho việc cung cấp thông tin khách hàng khi thanh toán nhanh
chóng, chính xác và đơn giản hơn các thiết bị đầu cuối của điểm bán hàng hay cung
ứng dịch vụ. Cùng với mã số định danh khách hàng còn được cấp một mã số cá nhân
(PIN) để khách hàng xác nhận giao dịch thanh toán khi nhà cung cấp dịch vụ thanh
toán yêu cầu. Sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết thì khách hàng sẽ là thành viên
chính thức và đủ điều kiện để thanh toán thông qua điện thoại di động.
- Home banking
Với ngân hàng tại nhà, khách hàng giao dịch với ngân hàng qua mạng nhưng là
mạng nội bộ (Intranet) do ngân hàng xây dựng riêng. Các giao dịch được tiến hành tại
nhà thông qua hệ thống máy tính nối với hệ thống máy tính của Ngân hàng. Thông qua
dịch vụ Home banking, khách hàng có thể thực hiện các giao dịch về chuyển tiền, liệt
kê giao dịch, tỷ giá, lãi suất, báo nợ, báo có… Để sử dụng dịch vụ Home banking,
khách hàng chỉ cần có máy tính (tại nhà hoặc trụ sở) kết nối với hệ thống máy tính của
Ngân hàng thông qua modem – đường điện thoại quay số, khách hàng phải đăng ký số
điện thoại và chỉ những số điện thoại này mới được kết nối với hệ thống Home banking

của Ngân hàng.
- Internet banking
Dịch vụ Internet banking giúp khách hàng chuyển tiền trên mạng thông qua các
tài khoản cũng như kiểm soát hoạt động của các tài khoản này. Để tham gia, khách
hàng truy cập vào website của Ngân hàng và thực hiện giao dịch tài chính, truy vấn
thông tin cần thiết. Thông tin rất phong phú, đến từng chi tiết giao dịch của khách hàng
cũng như thông tin khác về ngân hàng. Khách hàng cũng có thể truy cập vào các
Website khác để mua hàng và thực hiện thanh toán với Ngân hàng. Tuy nhiên, khi kết
12
nối internet thì ngân hàng phải có hệ thống bảo mật đủ mạnh để đối phó với rủi ro trên
phạm vi toàn cầu. Đây là trở ngại lớn vì đầu tư hệ thống bảo mật rất tốn kém.
1.2.2 Phương tiện giao dịch thanh toán điện tử
- Tiền điện tử - Digital Cash
Tiền điện tử là một phương tiện thanh toán trên Internet. Người muốn sử dụng
tiền điện tử gửi yêu cầu tới Ngân hàng. Ngân hàng phát hành tiền điện tử sẽ phát hành
một bức điện được ký phát bởi mã cá nhân (private key) của ngân hàng và được mã
hoá bởi khoá công khai (public key) của khách hàng. Nội dung bức điện bao gồm
thông tin xác định người phát hành, địa chỉ Internet, số lượng tiền, số seri, ngày hết hạn
(nhằm tránh việc phát hành hoặc sử dụng hai lần). Ngân hàng sẽ phát hành tiền với
từng khách hàng cụ thể. Khách hàng cất giữ tiền điện tử trên máy tính cá nhân.
Khi thực hiện một giao dịch mua bán, khách hàng gửi tới nhà cung cấp một thông
điệp điện tử được mã hoá bởi khoá công khai của nhà cung cấp hàng hoá dịch vụ. Nhà
cung cấp dùng khoá riêng của mình để giải mã thông điệp đồng thời kiểm tra tính xác
thực của thông điệp thanh toán này với Ngân hàng phát hành cũng bằng mã khoá công
khai của Ngân hàng phát hành và kiểm tra số seri tiền điện tử.
- Séc điện tử - Digital Cheques
Cũng sử dụng kỹ thuật tương tự như trên để chuyển phát séc và hối phiếu điện tử
trên mạng Internet. Séc điện tử có nội dung giống như séc thường, chỉ khác biệt duy
nhất là séc này được ký điện tử (tức là việc mã hoá thông điệp bằng mật mã cá nhân
của người ký phát séc). Khi ngân hàng của người thụ hưởng thực hiện nghiệp vụ nhờ

thu séc, họ sẽ đánh dấu lên thông điệp điện tử và việc thông điệp này được mã hoá bởi
mã hoá công khai của Ngân hàng phát hành séc sẽ là cơ sở cho việc thanh toán séc điện
tử này.
- Thẻ thông minh – Ví điện tử - Stored Value smart Card.
Là một loại thẻ nhựa gắn với một bộ vi xử lý (micro – processor chip). Người sử
thẻ nạp tiền vào thẻ và sử dụng trong việc mua hàng. Số tiền được ghi trong thẻ sẽ
được trừ lùi cho tới zero. Lúc đó chủ sở hữu có thể nạp lại tiền hoặc vứt bỏ thẻ. Ví điện
tử được sử dụng trong rất nhiều các loại giao dịch như ATM, internet banking, home
13
banking, telephone banking hoặc mua hàng trên Internet với một đầu đọc thẻ thông
minh kết nối vào máy tính cá nhân.
1.3.
TÍNH TẤT YẾU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN NGÂN HÀNG
ĐIỆN TỬ TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.3.1 Vai trò của Ngân hàng điện tử trong xu thế hội nhập.
Hệ thống Ngân hàng điện tử ra đời gắn liền với nhu cầu của thị trường mới, lưu
thông tiền tệ và lưu thông thông hàng hoá không tách rời nhau. Chính vì thế, Ngân
hàng điện tử có một vai trò vô cùng to lớn đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam trong
xu thế hội nhập ngày nay.
Với các nguồn dữ liệu được truy cập kịp thời, chính xác qua hệ thống mạng thông
tin, Ngân hàng Trung Ương khai thác khả năng phân tích, lựa chọn các giải pháp tối ưu
để sử dụng các công cụ điều tiết, kiểm soát từ nguồn gốc cung ứng tiền tệ để đạt được
mục đích điều hoà giữ vững ổn định tiền tệ đối nội và đối ngoại theo mong muốn, có
đủ điều kiện để đánh giá tình hình thực hiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán và
diễn biến tốc độ phát triển kinh tế.
Như vậy, vai trò của Ngân hàng TW sẽ nâng cao hơn, phát huy hết chức năng của
mình nếu như việc ứng dụng ngân hàng điện tử ngày càng được đẩy mạnh trong hệ
thống ngân hàng.
Mạng thông tin giúp cho hoạt động thanh tra, giám sát Ngân hàng chặt chẽ, kịp
thời chấn chỉnh những vi phạm, giữ vững an toàn hệ thống. Việc quản lý hệ thống kho

quỹ, in ấn tiền, tổ chức điều hành văn phòng, quản lý hồ sơ cán bộ, đào tạo huấn luyện
nghiệp vụ, hội họp từ xa trong nước và quốc tế… đều có thể ứng dụng qua mạng thông
tin sẽ rất thuận tiện, giảm được đáng kể chi phí đi lại, chi phí tổ chức, tiết kiệm thời
gian…
Việc thực hiện các giao dịch qua mạng làm thay đổi lớn đến công nghệ ngân hàng
tạo ra năng suất cao với chi phí giảm thiểu. Chính điều đó sẽ làm cho luồng tiền từ mọi
phía chảy vào Ngân hàng sẽ rất lớn, nó được điều hoà sử dụng với hệ số hữu ích cao,
làm thay đổi cơ cấu tiền lưu thông, chuyển từ nền kinh tế tiền mặt qua nền kinh tế
chuyển khoản.
14
Từ đó, Ngân hàng có thể kiểm soát các khoản thu chi qua hệ thống Ngân hàng
điện tử của mình, cũng từ đó có thể hạn chế được các vụ rửa tiền, chuyển tiền bất hợp
pháp, tham nhũng…
Đầu tư tín dụng cũng có sự thay đổi lớn. Các dự án đầu tư cũng có thể được đưa
lên trên mạng để chào mời các Ngân hàng thương mại. Máy tính điện tử phân tích các
dữ liệu truy cập, đưa ra các phương án để lựa chọn tối ưu. Ngân hàng thương mại thấy
rõ những điều cần tư vấn để bổ khuyết vào dự án đảm bảo khả năng thực thi.
Ngoài ra, mạng thông tin cung cấp cho các tổ chức tín dụng nắm được diễn biến
của các thị trường: tiền tệ, chứng khoán, hối đoái. Những diễn biến về lãi suất, giá cổ
phiếu, tỷ giá hối đoái. Các luồng vốn khả dụng được chào mời trên thị trường liên ngân
hàng phản ánh qua mạng sẽ giúp cho Ngân hàng có các chính sách đúng đắn và hoạch
định các phương án hoạt động phù hợp.
Có thể nói, Ngân hàng điện tử có vai trò vô cùng to lớn trong hệ thống ngân hàng,
nó đang tác động đến các ngân hàng, xúc tiến việc sáp nhập, hợp nhất, hình thành các
Ngân hàng lớn, nâng cao nguồn vốn tự có đủ sức trang bị công nghệ thông tin hiện đại
để đương đầu với cuộc cạnh tranh khốc liệt giành lợi thế về mình.
Mặt khác, nó cũng đẩy mạnh việc liên kết, hợp tác giữa các Ngân hàng ngày càng
chặt chẽ, phát triển đa dạng, mạnh mẽ, rộng khắp trong nước và thế giới… để thiết lập
các đề án phát triển nghiệp vụ kinh doanh sản phẩm và dịch vụ mới, sử dụng mạng lưới
thanh toán điện tử, thông tin rủi ro, tư vấn pháp luật, kiểm toán phòng ngừa, lập quỹ

bảo toàn tiền gửi, xây dụng các chương trình đồng tài trợ, lập chương trình phối hợp
đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ nhân viên, kể cả các hình thức hợp tác trong lĩnh vực
dịch vụ và văn hoá xã hội…
1.3.2 Tính tất yếu của việc phát triển Ngân hàng điện tử trong hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Thứ nhất, sự cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân hàng ngày càng gia tăng. Đặc biệt,
những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá, tự do phát triển mạnh mẽ làm cho sự phát
triển của các ngân hàng tuỳ thuộc vào lợi thế của mình để giành giật thị trường từ các
đối thủ.
15
Mặt khác, hệ thống Ngân hàng đa quốc gia đang mở rộng hoạt động đến các thị
trường mới một cách mạnh mẽ, làm tăng tốc độ hội nhập vào thị trường tài chính, ngân
hàng quốc tế. Đồng thời sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên gay
gắt cả về mức độ, phạm vi và cả về sản phẩm, dịch vụ cung ứng trên thị trường.
Thứ hai, sự biến đổi mạnh mẽ của môi trường hoạt động kinh doanh. Môi trường
kinh doanh Ngân hàng bao gồm nhiều yếu tố cơ bản như: môi trường địa lý, dân số,
kinh tế, văn hoá – xã hội, kỹ thuật công nghệ, chính trị, pháp luật… mà những nhân tố
này thì luôn luôn biến động theo sự thay đổi của xã hội.
Chính sự thay đổi của môi trường kinh doanh đã tạo ra những cơ hội và thách
thức đối với hoạt động của hệ thống Ngân hàng nước ta nói chung và việc đẩy mạnh
dịch vụ ngân hàng điện tử nói riêng.
Thứ ba, đó là nhu cầu và đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao trong sử dụng
dịch vụ Ngân hàng.
Ngày nay, họ luôn bận rộn vì ít thời gian, nhu cầu cuộc sống đa dạng và phức tạp,
họ rất nhạy cảm với sự biến động của thị trường và giá cả, nhu cầu tài chính trong cuộc
sống cao hơn rất nhiều, nên họ cần có quan hệ và dịch vụ thanh toán, họ có đủ trình độ
để tiếp nhận công nghệ cao và sử dụng các dịch vụ hiện đại, an toàn và tiện lợi.
Có thể nói rằng nhu cầu khách hàng của Ngân hàng hiện nay hết sức đa dạng,
phức tạp và yêu cầu, đòi hỏi của họ ngày càng cao trong việc lựa chọn, sử dụng sản
phẩm dịch vụ và Ngân hàng. Khách hàng đòi hỏi từ phía ngân hàng những sản phẩm

dịch vụ chất lượng cao với nhiều tiện ích. Đó là “áp lực” buộc hoạt động ngân hàng
phải thích ứng.
Sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử sẽ đáp ứng yêu cầu phục vụ nhanh, chính xác,
an toàn và tiện lợi cho “Thượng đế”, đẩy mạnh các hoạt động của ngân hàng.
Trong hội nhập quốc tế về ngân hàng, quốc gia nào có hệ thống ngân hàng đủ
mạnh, thì sẽ giành được nhiều ưu thế trong cạnh tranh và giảm thiểu những rủi ro quốc
tế trong quá trình hoạt động.
Mặt khác, một hệ thống ngân hàng đủ mạnh sẽ đảm bảo cho quốc gia tận dụng
được lợi thế và khắc phục được những hạn chế của quá trình toàn cầu hoá. Sức mạnh
chi phối quá trình toàn cầu hoá là sự chu chuyển nhanh các luồng vốn quốc tế ngắn và
16
dài hạn trên phạm vi toàn cầu với sự trợ giúp của thương mại điện tử toàn cầu và cụ thể
là phát triển ngân hàng điện tử.
Một khối lượng luồng vốn quốc tế sẽ đổ vào quốc gia có môi trường đầu tư và các
điều kiện khác liên quan hấp dẫn. Ngược lại, dòng vốn đó có thể lại “ào ào rút chạy”,
nếu như môi trường kinh doanh ở quốc gia đó kém với một hệ thống ngân hàng hoạt
động kém hiệu quả.
Phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử là một trong những điều kiện giúp cho hệ
thống ngân hàng nước ta trở nên mạnh hơn trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế về
ngân hàng.
Từ sự phân tích trên, có thể thấy muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi các ngân hàng
Việt Nam phải vươn lên mạnh mẽ để giải quyết nhiều vấn đề trong hoạt động của ngân
hàng. Một trong những vấn đề có tính quyết định trong xu thế cạnh tranh của hệ thống
ngân hàng Việt Nam ngày nay là phải phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trong hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
1.4.
DỊCH VỤ BẢO MẬT, CHỮ KÝ ĐIỆN TỬ VÀ CHỨNG CHỈ SỐ, CÔNG
NGHỆ BẢO MẬT
1.4.1. Công nghệ bảo mật.
SET (Secure Electronic Transaction): là một giao thức bảo mật do Microsoft phát

triển, SET có tính riêng tư, được chứng thực và rất khó thâm nhập nên tạo được độ an
toàn cao, tuy nhiên, SET ít được sử dụng do tính phức tạp và sự đòi hỏi phải có các bộ
đọc card đặc biệt cho người sử dụng.
SSL (Secure Socket Layer): là công nghệ bảo mật do hãng Nescape phát triển,
tích hợp sẵn trong bộ trình duyệt của khách hàng, đó là một cơ chế mã hóa (encryption)
và thiết lập một đường truyền bảo mật từ máy của Ngân hàng đến khách hàng (https).
SSL đơn giản và được ứng dụng rộng rãi.
Ngoài ra còn nhiều công nghệ khác cũng đạt được những thành công nhất định.
1.4.2. Chữ ký điện tử và cấp phát chứng nhận điện tử (CA):
Chữ ký điện tử: là một thuật toán mã hóa với một khóa riêng biệt (Private Key)
dùng để mã hóa dữ liệu. Khi một văn bản hay một thông điệp cần gửi đi, trình duyệt
Internet (Browser), sử dụng thuật toán của chữ ký điện tử, mã hóa văn bản và đính kèm
17
vào văn bản gốc tạo thành chữ ký điện tử cho văn bản đó. Thuật toán này là duy nhất
và đảm bảo an toàn với khóa 128 bit và có thể lên đến 1.024 bit.
Khi người nhận nhận được văn bản kèm chữ ký điện tử, người này dùng khóa
công cộng (một thuật toán mã hóa chung) tạo ra văn bản mã hóa (Digest) và gửi yêu
cầu chứng nhận tới tổ chức chứng nhận (bên thứ 3 như Entrust, Verigin…), tổ chức
chứng nhận (CA) dễ dàng dùng bản sao của khóa riêng (private key) giải mã chữ ký
điện tử thành văn bản mã hóa (digest), trình duyệt Internet (browser) sẽ so sánh hai tập
tin này (một do khóa công tạo ra và một do tổ chức chứng nhận tạo ra), khi hai tập tin
này trùng khớp hoàn toàn tức là chữ ký điện tử được xác nhận.
Chứng nhận điện tử: Là một tổ chức (bên thứ 3) cung cấp những thuật toán và
quản lý chữ ký điện tử (Ví dụ như Verisign, e-Trust), chuyên cung cấp, xử lý và chứng
nhận chữ ký điện tử trong các giao dịch trên mạng. Trước đây, chữ ký điện tử chỉ có
giá trị quy ước giữa các tổ chức cá nhân tham gia giao dịch trên mạng. Tất cả những
quá trình tạo chữ ký điện tử, chứng nhận chữ ký điện tử được thực hiện tự động giữa
Web server và trình duyệt Web.
1.4.3. Bảo hiểm cho giao dịch điện tử.
Hoạt động của các ngân hàng Mỹ chịu sự quản lý của ba tổ chức thuộc chính phủ

là Văn phòng quản lý tiền tệ (Office of the comptroller of Currency, Treasury), Cty bảo
lãnh tiền gửi liên bang (Federal Deposit Insurance Corporation FDIC), và hệ thống quỹ
dự trữ liên bang (Federal Reserve System). Những tổ chức này có trách nhiệm quản lý,
điều hành hoạt động của các ngân hàng, kiểm soát tiền tệ và giảm thiểu rủi ro trong
hoạt động ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng.
Sau khi kiểm tra, đánh giá, FDIC sẽ tiến hành xếp hạng ngân hàng và cung cấp
chứng nhận bảo lãnh, cụ thể, trên những trang Web có biểu tượng FDIC, tức là được
chứng nhận về danh tiếng và được bảo đảm. Những ngân hàng nổi tiếng khi cung cấp
những dịch vụ cộng thêm như quỹ đầu tư, thường nêu rõ trên chú thích, ví dụ như trang
Web này không được bảo đảm bởi FDIC, và có rủi ro cao.
Trong ba quý đầu năm 2006, FDIC đã tăng thêm 1,4 tỷ USD, đưa số dư của quỹ
lên đến 50 tỷ USD tính tới 30/10/2006. Đây là con số đáng kể so với cùng kỳ năm
ngoái khi FDIC sáp nhập Quỹ bảo hiểm ngân hàng (Bank Insurance Fund) với Quỹ bảo
18
hiểm tiết kiệm (Savings Association Insurance Fund) với tổng giá trị quỹ là 866 triệu
USD và đã thanh toán tới 134 triệu USD cho các rủi ro mà khách hàng và các tổ chức
tín dụng gặp phải.
1.4.4 Phát triển hạ tầng công nghệ, phần cứng phục vụ cho bảo mật.
Năm 2005, thị trường CNTT toàn cầu tăng trưởng là 8,4% tính theo giá trị đồng
USD (Ghi chú: Gartner Dataquest, 2005). Tổng giá trị toàn thị trường CNTT toàn cầu
(không kể viễn thông đã vượt qua ngưỡng 1.000 tỷ USD). Trong đó, mảng dịch vụ
CNTT có giá trị thị trường là 624 tỷ USD năm 2005. Chi tiêu cho phần cứng vẫn tăng
trưởng mạnh hơn cho chi tiêu cho phần mềm, dịch vụ.
Công nghệ bảo mật trong nhiều năm qua đã có những bước phát triển vượt bậc.
Ngoài hệ thống máy chủ hiện đại với tốc độ xử lý theo cấp số nhân. Những công nghệ
bảo mật hiện đại liên tiếp ra đời với sự tham gia của nhiều tập đoàn lớn như thẻ thông
minh, hệ thống nhận dạng sinh trắc học, hệ thống backup dữ liệu, hệ thống tường lửa,
các chương trình phòng chống virus được cập nhật thường xuyên. Có thể kể tên nhiều
thương hiệu tên tuổi trong lĩnh vực CNTT cung cấp dịch vụ bảo mật như Microsoft,
Verisign, HP, Fujitsu, IBM, Compaq, Visa, Master, Symantec, Oracle…

Do tính chất nhạy cảm của lĩnh vực tài chính, ngân hàng, mặc dù còn một vài lỗ
hổng nhưng nhanh chóng được khắc phục, những công nghệ, hạ tầng phần cứng hiện
đại và cập nhật thường xuyên đã tạo nên lòng tin vững chắc của khách hàng đối với
dịch vụ NHĐT.










19
Kết luận chương 1:

Chương 1 đã nêu một cách khái quát những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử,
sự hình thành và phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử trên thế giới như thế nào. Thật
vậy, ngân hàng điện tử, hiểu theo nghĩa đơn giản và trực quan nhất đó là sự kết hợp
hoạt động ngân hàng với Internet – Là kết quả tất yếu của quá trình phát triển công
nghệ thông tin, điện tử và tin học, được ứng dụng trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Các ngân hàng trên thế giới đã và đang phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ
của ngân hàng điện tử. Đối với nước ta, đây là lĩnh vực hoạt động mới, hầu hết các tổ
chức tín dụng và các văn bản pháp quy của Ngân hàng Nhà nước và một số Bộ, ngành
chưa đáp ứng để ứng dụng hoạt động dịch vụ của ngân hàng điện tử, ngoại trừ một số
phần trong nghiệp vụ tín dụng ngân hàng phát triển riêng biệt và một số dịch vụ nhất
định như: xây dựng và phát triển trang Web cho ngân hàng mình; home banking; ngân
hàng qua mạng điện thoại di động (Mobile banking). Để hiểu rõ hơn các dịch vụ ngân
hàng điện tử, sang chương 2 sẽ giới thiệu cụ thể về sự phát triển các dịch vụ ngân hàng

điện tử tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.














20
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.

2.1.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1.1. Các yếu tố cần thiết cho dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Việt Nam.
Sự phát triển như vũ bảo của công nghệ thông tin và xu thế toàn cầu hoá hiện nay
luôn đặt cho các doanh nghiệp dù thuộc bất kỳ lĩnh vực nào cũng phải đối mặt với
những thách thức để tồn tại và phát triển. Ngành ngân hàng Việt Nam cũng không
tránh khỏi những thách thức đó và có sự phản ứng cần thiết để đương đầu là điều tất
yếu xảy ra. Dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam ra đời là một trong những dấu mốc
quan trọng đánh dấu sự chuyển mình đó của hệ thống ngân hàng nước ta. Các yếu tố
nền tảng cho sự ra đời của dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt Nam bao gồm:

2.1.1.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin.
Đây là cơ sở nền tảng cần thiết ban đầu cho sự ra đời của dịch vụ ngân hàng điện
tử, bao gồm công nghệ tính toán và công nghệ truyền thông.
- Công nghệ tính toán: Từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, những chiếc máy
tính đầu tiên đã xuất hiện tại Việt Nam, một số ở miền Bắc do Liên Xô viện trợ, một số
khác do Mỹ trang bị ở miền Nam. Đến cuối những năm 70, có khoảng 40 dàn máy tính
lớn bao gồm các máy Minsk, EC và IBM. Đây có thể được xem như những bước khởi
đầu đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp tính toán ở Việt Nam.
Vào đầu những năm 1980, máy vi tính đầu tiên ra đời và bắt đầu được nhập vào
Việt Nam, mở đầu thời kỳ phát triển nhanh chóng tin học ở Việt Nam. Từ cuối năm
1994, đầu năm 1995, Việt Nam bắt đầu triển khai chương trình quốc gia về CNTT, các
công ty tin học hàng đầu thế giới như IBM, Compaq, Digital… bắt đầu tham gia thị
trường Việt Nam, số lượng máy vi tính PC nhập khẩu tăng vọt với tốc độ 50%/năm.
Cũng theo số liệu thống kê, máy tính lắp ráp trong nước cũng có xu hướng tăng nhanh,
khoảng 80 đến 100 nghìn chiếc một năm, chiếm khoảng 70% thị phần. Trong nhiều
doanh nghiệp, dữ liệu đã được tổ chức thành các kho thông tin có cấu trúc (cơ sở dữ
liệu) và chuẩn hoá dựa trên các phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu nền mạng như Fox,
21
Access, Oracle, SQL server… Các phần mềm nhóm như MS Office, Lotus Notes… đã
và đang được sử dụng nhiều. Nhiều mạng máy tính dạng LAN, INTRANET chạy trên
các hệ điều hành mạng khác nhau như Unix, Window NT, Nowell Netware… đã được
triển khai như mạng Văn phòng Chính phủ, mạng của Bộ Quốc Phòng, mạng của Bộ
Tài Chính, mạng ngân hàng… Tháng 11/1997, Việt Nam tham gia mạng toàn cầu,
internet được kết nối, giữa năm 1999 mới có khoảng 20 nghìn thuê bao, chủ yếu là
khách hàng của các nhà cung cấp dịch vụ lớn như VDC (Công ty dịch vụ gia tăng và
truyền số liệu, FPT (Công ty Phát triển đầu tư công nghệ), NetNam (Viện công nghệ
thông tin). Lĩnh vực này đang phát triển nhanh dần, số thuê bao đang tăng với tốc độ
600 đến 700 một tháng. Dịch vụ Internet đang mở rộng đến từng doanh nghiệp, từng
gia đình, từng cá nhân.
- Công nghệ truyền thông: là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến

chất lượng và sự thành công của các giao dịch điện tử. Năm 1993, Tổng cục Bưu chính
Viễn thông đã thiết lập mạng truyền số liệu quốc gia dựa trên công nghệ X.25, gọi là
mạng VIETPAC, nối 32 tỉnh và thành phố. Sau khi đưa vào sử dụng, mạng này tỏ ra
không đáp ứng được nhu cầu truyền dữ liệu ngày càng tăng. Đáp ứng tình hình đó,
Tổng cục Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã phát triển mạng toàn quốc VNN kết nối
Internet và các mạng nội bộ của các cơ quan nhà nước và cá nhân. VNN là một mạng
quốc gia đường dài, có hai cổng kết nối mạng trục quốc tế, một ở Hà Nội, một ở TP.
HCM. Cổng Hà Nội có hai đường quốc tế, một đường với vận tốc 256 Kb/sec nối với
Úc bằng vệ tinh, một với vận tốc 2Mb/sec nối với Hồng Kông bằng cáp quang. Cổng
TP. HCM cũng có hai đường quốc tế nối với Mỹ, một có vận tốc 64 Kb/sec qua vệ
tinh, một với vận tốc 2 Mb/sec qua cáp quang. Mạng trục Bắc – Nam có hai đường
truyền vận tốc 2 Mb/sec và một đường truyền dự phòng 192 Kb/sec nối với mạng trục
cho khoảng 30 mạng thiết lập và các dịch vụ nối mạng Internet với vận tốc 64 Kb/sec.
- Vai trò của công nghệ thông tin trong đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ và hiện
đại hoá công nghệ ngân hàng.
Ngân hàng được biết đến như một trong những Bộ, Ngành ứng dụng công nghệ
thông tin mạnh mẽ và hiệu quả nhất ở nước ta thời gian qua. Với phương châm từng
bước đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hoá, tự động hoá phục vụ sự nghiệp đổi
22
mới hoạt động ngân hàng, đến nay hơn 80% nghiệp vụ ngân hàng đã được xử lý bằng
máy tính ở các mức độ khác nhau. Hầu hết các nghiệp vụ đã được chuyển từ xử lý trên
các máy tính đơn lẻ sang phương thức xử lý trên mạng. Nhiều nghiệp vụ đã được xử lý
tức thời như thanh toán điện tử ngân hàng luồng giá trị cao, giao dịch kế toán tức
thời… Một số dịch vụ như ATM, Home banking, Internet banking… đang từng bước
được nghiên cứu và triển khai trên diện rộng. Cùng với sự phát triển vượt bậc của
CNTT, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có những bước phát triển vượt bậc: phong
phú đa dạng về sản phẩm, mang đến cho người sử dụng cả sự tiện và lợi.
Sau quá trình ứng dụng công nghệ mạng viễn thông hiện đại trong ngành ngân
hàng, hệ thống mạng cục bộ (LAN) đã được triển khai tại Ngân hàng Trung Ương, một
số đơn vị trực thuộc và các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành, tại Hội sở

chính và các chi nhánh của Ngân hàng thương mại. Các thiết bị mạng thông minh, tốc
độ cao và cấu trúc mạng hình sao đã từng bước thay thế các thiết bị mạng lạc hậu và
cấu trúc mạng cũ. Các mạng nội bộ (Intranet), các phương tiện và dịch vụ dựa trên
mạng Internet đã được mở rộng, ứng dụng ngày càng hiệu quả. Từng bước hiện đại hoá
công nghệ ngân hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam.
2.1.1.2. Chứng từ điện tử.
Chứng từ điện tử là một trong những yếu tố quan trọng trong giao dịch thanh toán
điện tử, đây còn là nhu cầu của nền kinh tế đang chuyển đổi, phát triển và là xu thế của
thời đại kỹ thuật số.
Chứng từ - theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản khoa học xã hội
– Trung tâm từ điển học, năm 1994): là giấy tờ làm bằng chứng về việc thu chi, xuất
nhập. Nhưng chứng từ kế toán lại được khái niệm một cách rất tỉ mỉ, chặt chẽ như
chính nghiệp vụ của nó: “Chứng từ kế toán là văn bản chứng minh về pháp lý việc
hoàn thành một nghiệp vụ kinh tế, hoặc luật pháp cho phép hoàn thành nghiệp vụ đó tại
các pháp nhân kinh tế” (Hạch toán kế toán và xử lý thông tin trong hệ thống ngân hàng
– do Trung tâm đào tạo và nghiên cứu Ngân hàng xuất bản năm 1994). Còn chứng từ
điện tử, theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 196/QĐ-TTg, ngày 01/04/1997,
khái quát: “Cho phép sử dụng các dữ liệu thông tin trên vật mang tin như băng từ, đĩa
từ, các loại thẻ thanh toán về nghiệp vụ kinh tế tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn
23
thành và là cơ sở để ghi chép vào sổ sách kế toán của các Ngân hàng và tổ chức tín
dụng”. Tiếp đó, theo quyết định 44/2002/QĐ-TTg, ngày 21/03/2002 của Thủ tướng
chính phủ nói rõ hơn về chức năng của chứng từ điện tử: “Chứng từ điện tử làm chứng
từ kế toán mà các yếu tố của nó được thể hiện dưới dạng dữ liệu điện tử đã được mã
hóa mà không có sự thay đổi trong quá trình truyền qua mạng máy tính hoặc trên vật
mang tin như băng từ, đĩa từ, các loại thẻ thanh toán”. Nghĩa là, chứng từ điện tử phải
có đủ các yếu tố quy định cho chứng từ kế toán, đảm bảo tính pháp lý của chứng từ kế
toán và phải được mã hóa bảo đảm an toàn trong quá trình xử lý, truyền tin và lưu trữ.
Có thể thấy rằng, để chứng từ giấy chuyển sang chứng từ điện tử là công nghệ
hoàn toàn mới, không có tiền lệ, mỗi bước chuyển đổi nhỏ trong công nghệ này đều

liên quan đến tiền bạc, tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Thực chất, việc chuyển đổi
từ mẫu biểu, con số và những thông tin trên một chứng từ bằng giấy sang dạng thông
tin số hóa để truyền đi trên hệ thống mạng là không khó, nhưng làm thế nào để toàn bộ
thông tin ấy tuyệt đối an toàn khi truyền dẫn trên mạng, hoặc “cất” trong các vật mang
tin (băng từ, đĩa từ…) là cả một vấn đề. Chứng từ điện tử phải được công nhận như
chứng từ giấy thường dùng trong thanh toán, kế toán, là loại chứng từ được pháp luật
bảo vệ. Quy trình vận hành chứng từ điện tử như thế nào để nó có thể hoàn toàn thay
thế chứng từ giấy trong quá trình hoạt động và lưu trữ là việc làm không dễ, nhất là khi
các giao dịch điện tử dần đi vào hoạt động phổ biến.
2.1.1.3. An toàn thông tin trên mạng.
Giao dịch dựa trên các phương tiện điện tử đặt ra các đòi hỏi rất cao về bảo mật
và an toàn. Khi làm việc với thế giới của các máy tính nối mạng, chúng ta phải đối mặt
với các hiểm họa liên quan đến việc bảo mật các luồng thông tin truyền trên đó. Phần
này không đi vào nghiên cứu kỹ thuật mà mục đích trình bày các kiến thức cơ bản về
an ninh dữ liệu trên mạng – một trong những yếu tố quan trọng của dịch vụ ngân hàng
điện tử.




24
Bảng 2.1 : Một số hiểm họa an toàn dữ liệu và giải pháp

Hiểm họa Giải pháp an toàn Chức năng Mã hóa
đường truyền
Dữ liệu bị chặn
lại, đọc trộm hoặc sửa
bất hợp pháp
Mã hóa Mã hóa để
ngăn chặn làm thay

đổi bất hợp pháp
Mã hóa
đường truyền
Người dùng thay
đổi đặc điểm của họ để
gian lận
Xác nhận Xác nhận đặc
điểm nhận dạng
Chữ ký
điện tử
Người dùng bất
hợp pháp trên một
mạng truy cập một
mạng khác
Bức tường lửa Lọc và ngăn
chặn các luồng
thông tin thâm nhập
mạng hoặc máy chủ
Bức
tường lửa


a. Mã hóa đường truyền: để giữ bí mật khi truyền tải thông tin giữa hai thực thể
nào đó người ta tiến hành mã hóa chúng. Mã hóa thông tin là chuyển thông tin sang
một dạng mới khác dạng ban đầu, dạng mới này gọi chung là văn bản mã hóa. Việc mã
hóa được thực hiện dựa trên một tập các quy tắc mà thực thể gửi và nhận quy ước sử
dụng, tập các quy tắc đó gọi là mật mã.
b. Chữ ký điện tử: Trong giao dịch truyền thống, khi một khách hàng đặt quan hệ
giao dịch với ngân hàng, trước hết yêu cầu khách hàng khai báo họ, tên, xuất trình
CMND, Passport nhằm kiểm tra thông tin, tổ chức cấp phát để xác thực khách hàng.

Khi thực hiện giao dịch thì yêu cầu khách hàng ghi yêu cầu vào giấy và ký tên, việc
làm này nhằm đảm bảo: đối với ngân hàng đảm bảo khách hàng không thể từ chối giao
dịch mà mình đã yêu cầu thực hiện; đối với khách hàng, đảm bảo nội dung giao dịch
mà mình yêu cầu thực hiện được toàn vẹn. Để giao dịch trên mạng được đảm bảo thì
chữ ký điện tử phải đảm bảo được các yêu cầu như thực hiện một giao dịch truyền
thống. Chữ ký điện tử là công cụ điện tử ký vào tài liệu điện tử mà có tác dụng xác
thực tính trung thực của tài liệu điện tử đã ký. Khi đưa chữ ký điện tử vào một văn bản
25
nào đó đồng nghĩa rằng người thực hiện đã ký vào văn bản đó, chấp nhận nội dung
trên văn bản đó.
Chữ ký điện tử có thể được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như xuất
trình username, password và nhấn nút submit cũng có thể xem là đã thực hiện một chữ
ký điện tử. Nhưng để đảm bảo được tất cả các yêu cầu để thực hiện một giao dịch điện
tử, hiện nay các giao dịch trên mạng sử dụng công nghệ chứng chỉ số gọi tắt là CA
(Certificate Authorities). Chứng chỉ số phải đảm bảo các quy tắc:
- Tính duy nhất: chứng chỉ số là duy nhất trên toàn thế giới.
- Xác thực được nguồn gốc: kiểm tra được nguồn gốc, chứng chỉ số đảm bảo
không bị giả mạo, thời hạn hiệu lực.
- Xác thực được thông tin cá nhân khách hàng sở hữu chứng chỉ số.
- Đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu: toàn vẹn dữ liệu trên đường truyền không bị
nghe trộm, đánh cắp, giả lập…, toàn vẹn dữ liệu cho khách hàng và với cả ngân hàng
cũng không thể chỉnh sửa dữ liệu, xác thực chữ ký khách hàng trên dữ liệu do đó khách
hàng không thể từ chối được giao dịch mà mình đã thực hiện.
Với dịch vụ ngân hàng điện tử, người sử dụng khi truy cập vào mạng sẽ có khả
năng thanh toán hoặc chuyển tiền trong hệ thống. Do đó, người dùng đều được quản lý
chặt và hệ thống phải đảm bảo an toàn bảo mật cho từng người, nhằm tránh việc giả
mạo để ăn cắp tiền từ tài khoản của họ. Đồng thời hệ thống cũng phải đảm bảo an ninh
dữ liệu trên đường truyền. Nếu chỉ dùng user/password hoặc các giải pháp an toàn bảo
mật thông thường thì sẽ không đủ khả năng bảo mật cho người dùng. Để đảm bảo độ
an toàn, bảo mật thông tin trên đường truyền cũng như cho từng người dùng cụ thể,

người ta sử dụng công nghệ PKI (Public Key Infrastructure). Công nghệ PKI cung cấp
một phương thức bảo mật hai lần, đó là sự phối hợp giữa hai công nghệ mã hoá đường
truyền và chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử dùng để giữ sự riêng tư của thông tin còn việc
mã hoá đường truyền sẽ bao bên ngoài để đảm bảo thông tin được an toàn. Ví dụ, khi
A gửi cho B một thông điệp, A sẽ dùng khoá riêng của A để “ký” vào thông điệp và
dùng khoá công cộng của B để mã hoá thông điệp đó. Khi B nhận, B sẽ dùng khoá
riêng của B để giải mã thông điệp và dùng khoá công cộng của A để thẩm định chữ ký
của A.

×