Chương 1: TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG ĐÔ LA CHÂU ÂU.
1.1. Thị trường đô la châu Âu
1.1.1 Khái niệm
Đô la Châu Âu là khoản tiền gửi bằng đô la Mỹ trên tài khoản
ngân hàng nằm ngoài nước Mỹ.
Ngân hàng châu Âu (Eurobanks): là những ngân hàng nhận tiền
gửi và cho vay ngắn hạn đồng tiền của một quốc gia bất kỳ nhưng
không chịu sự chi phối của các quy định của ngân hàng trung ương
phát hành ra đồng tiền này.
Thị trường đô la châu Âu: đô la châu Âu tồn tại ngoài nước Mỹ,
tồn tại dưới hình thức là đồng tiền ghi sổ. Số tài khoản này được mua
bán, chuyển nhượng trên toàn thế giới và hình thành thị trường đô la
châu Âu.
1.1.2 Các nghiệp vụ cơ bản của thị trường đô la Châu Âu
1.1.2.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Các ngân hàng châu Âu (Eurobanks) sẽ nhận tiền gửi có kỳ hạn
bằng nhiều đồng tiền khác nhau và phát hành chứng chỉ tiền gửi khả
nhượng.
Lãi suất tiền gửi Euro được niêm yết tương ứng với các kỳ hạn từ
1 ngày tới vài năm, tuy nhiên kỳ hạn chuẩn mực là 1,2,3,6,9,và 12
tháng.
1.1.2.2. Nghiệp vụ tạo tiền
1
Thị trường đô la Châu Âu có khả năng tạo tiền ghi sổ trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng thông qua hoạt động tín
dụng và thanh toán.
1.1.2.3. Nghiệp vụ tín dụng
Các ngân hàng châu Âu cấp cho các công ty đa quốc gia, ngân
hàng, chính phủ, tổ chức quốc tế những khoản vay ngắn hạn được định
danh bằng đồng tiền khác với đồng bản tệ của quốc gia mà các ngân
hàng châu Âu trú đóng. Do các khoản vay này thường lớn đối với một
ngân hàng, nên các ngân hàng châu Âu thường liên kết nhau thành một
tổ chức đồng tài trợ để chia sẻ rủi ro.
Người đi vay sẽ chịu mức lãi suất : Lãi suất cho vay liên ngân
hàng tại London(LIBOR) + phần chênh lệch phụ thuộc vào hệ số tín
nhiệm người vay + chi phí giao dịch.
Ngoài ra, phổ biến hơn có lãi suất thả nổi với khoản tiền gửi hay
cho vay từ 6 tháng trở lên và được điều chỉnh định kỳ 3 hay 6 tháng/
lần.
1.2. Sự ra đời và phát triển của thị trường đô la châu Âu
Thị trường đô la châu Âu bắt đầu vào năm 1957 sau khi Liên Xô
ngày càng lo ngại rằng chính phủ Mỹ sẽ đóng băng tiền gửi USD trong
các ngân hàng Mỹ. Vì lý do này, họ bắt đầu chuyển đô la vào các ngân
hàng có sự hỗ trợ của London. Do đó, các ngân hàng này đang nắm
2
giữ đô la bên ngoài nước Mỹ và không phải chịu sự kiểm soát của Cục
dự trữ liên bang Mỹ.
Đô la châu Âu trở nên đáng kể trong những năm 1960 khi các
công ty đa quốc gia Mỹ bắt đầu đầu tư nhiều hơn và nhiều hơn nữa
bên ngoài nước Mỹ. Những khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài của các
công ty này chủ yếu ở châu Âu và Đông Nam Á. Vì các công ty đa
quốc gia bắt đầu đầu tư mạnh bên ngoài nước Mỹ, họ giữ nhiều khoản
tiền gửi của họ bằng đô la. Dòng vốn này di chuyển từ Mỹ đến châu
Âu đã dẫn đến việc nhiều ngân hàng Mỹ gia nhập thị trường đô la châu
Âu. Đến năm 1961, các ngân hàng Mỹ đã chiếm lĩnh 50% thị phần.
Năm 1967, thị trường đô la Châu âu phát triển mạnh. Các số liệu dưới
đây cho thấy thị trường đô la châu Âu đã phát triển một cách ấn tượng
như thế nào.
Công ty Tổng khối lượng
(triệu đô la)
Banque de Paris et des Pays-
Bas
490
Banca Commerciale Italiana 445
S.G. Warburg & Co 385,7
Deutsche Bank A.G 367,5
N.M. Rothschild & Sons 260
Morgan & Cie International
S.A
260
Lehman Brothers 250
Banca Nazionale del Lavoro 194
3
(Nguồn: The Times, the Euro-dollar bond league 29 December 1967)
Một giai đoạn quan trọng là trong những năm 1970, Mỹ tìm cách
làm giảm giá trị nợ nước ngoài của mình bằng một đồng đôla mất giá,
và buộc các nước khác gia tăng hập thụ hang xuất khẩu của Mỹ (đây là
chiến lược năm 1971, được lặp đi lặp lại trong năm 1985 và một lần
nữa trong năm 1992). Các quốc gia khác đã buộc phải chấp nhận
những tác động của chủ nghĩa đơn phương mới của Mỹ, bởi vì vị trí
trung tâm mới của Mỹ trong nền kinh tế chính trị toàn cầu. Đặc biệt, vị
trí trung tâm trong hệ thống tài chính quốc tế, bởi vai trò quốc tế của
đồng USD là đồng tiền dự trữ chính và bởi độ sâu và tính thanh khoản
của thị trường tài chính Hoa Kỳ.
Năm 1985, thị trường đô la châu Âu được ước tính có khối lượng
khoảng 1.668 tỷ đô la, trong đó hoạt động của Eurodollar chiếm
khoảng 75% tổng doanh số toàn thị trường. Thị trường đô la châu Âu
là nguồn vốn lớn nhất của thị trường tài chính toàn cầu. Năm 1997,
gần 90% của tất cả các khoản vay quốc tế đã được thực hiện trên thị
trường này.
Những sự kiện như tiền gửi chảy ra nước ngoài để tránh Quy chế
Q –Ngân hàng Trung ương Mỹ khống chế trần lãi suất tối đa đối với
các khoản tiền gửi tại ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi của Mỹ,
các ngân hàng chuyển hướng sang họat động ở nước ngoài, các nhu
cầu USD chuyển hướng sang vay ở nước ngoài để tránh quy chế về
thuế thu nhập (IET), chương trình kiểm soát tín dụng và đầu tư trực
4
tiếp đã kích thích thị trường đô la châu Âu tăng trưởng một cách
nhanh chóng. Ngoài ra, cho dù hầu hết những quy chế nêu trên, thuế
thu nhập, cũng như các kiểm soát khác được dỡ bỏ vào những năm 70,
nhưng thị trường đô la châu Âu vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
Chương 2: KHẢ NĂNG TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG ĐÔ LA
CHÂU ÂU CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
2.1. Lợi ích của các NHTM VN khi tham gia thị trường đô la
châu Âu
Khi tham gia thị trường đô la Châu Âu các ngân hàng sẽ có
những lợi ích sau:
- Thị trường tiền tệ châu Âu là nơi gặp gỡ của các ngân hàng
trung ương (NHTW), NHTM và các công ty lớn toàn cầu, là cầu nối
tài chính giữa nội địa châu Âu và thế giới. Điển hình là các khoản tiền
gửi bằng USD tại Mỹ, luân chuyển nhanh chóng qua London và từ
London phân bổ đi khắp nơi có nhu cầu tại châu Âu hoặc từ châu Âu
đi nơi khác. Do đó, khi có sự thiếu hụt vốn tạm thời về tài chính, các
NHTM Việt Nam có thể có được nguồn vốn để bù đắp thiếu hụt một
cách nhanh chóng, kịp thời từ thị trường này.
- Các NHTW Việt Nam có thể tham gia vào thị trường
Eurobanks khi có nhu cầu lớn về dự trữ ngoại tệ đặc biệt là USD. Bởi
vì thị trường này không hạn chế cho vay USD do có sự tồn tại một bên
là một nhóm các nước có thặng dư cán cân thanh toán và một bên là
nhóm các nước có thâm hụt các cân thanh toán thường xuyên. Nó
5
được xem như chiếc cầu nối chuyển vốn từ những nước thặng dư sang
những nước thâm hụt. Trong những năm gần đây, Việt Nam là nước
thâm hụt thương mại dai dẳng và quy mô nhập siêu đang có xu hướng
tăng, dự trữ ngoại hối mỏng. Điều này khiến tỷ giá hối đoái luôn chịu
áp lực phá giá trong khi tiềm lực can thiệp của các ngân hàng trung
ương hạn chế. Do đó, khi tham gia vào thị trường đô la châu Âu, ngân
hàng trung ương Việt Nam có thể bổ sung nguồn dự trữ ngoại tệ tạo
điều kiện cho thuận lợi khi thực thi các chính sách tiền tệ.
- Sự tiện lợi của tiền gửi đô la châu Âu: đô la châu Âu tiện lợi
hơn nhiều so với những USD nằm trên tài khoản tại các ngân hàng ở
Mỹ. Những công dân Châu Âu và những công dân khác không phải
công dân Mỹ có những khoản phụ trội USD có thể bán để lấy nội tệ và
ngược lại họ có thể phải mua USD bằng đồng nội tệ khi có sự thiếu hụt
USD. Và như vậy họ phải chịu chi phí giao dịch (chênh lệch giữa tỷ
giá mua vào và bán ra) và phải đối mặt với tiềm ẩn rủi ro tỷ giá. Để
tránh được chi phí giao dịch và rủi ro tỷ giá, họ có thể chọn phương án
ký gửi USD tại các ngân hàng ở Mỹ. Tuy nhiên, những vấn đề phức
tạp trong tập quán giao dịch cùng với khoảng cách về địa lý của các
ngân hàng Mỹ là một bất lợi khi họ quyết định lựa chọn phương án
này. Vì vậy, việc lựa chọn việc ký gửi USD tại các ngân hàng châu Âu
sẽ thuận lợi hơn các ngân hàng này ở gần xung quanh họ hay ở nước
bản địa. Và ngân hàng này sẽ đáp ứng nhanh hơn những yêu cầu của
6
khách hàng. Do vậy, các kiều bào nước ngoài có thể gởi kiều hối về
Việt Nam một cách nhanh chóng và dễ dàng qua hệ thống ngân hàng
nhằm tạo điều kiện cho kiều bào trở về Việt Nam đầu tư.
- Các ngân hàng sẽ nhận tiền gửi và cho vay ngắn hạn đồng tiền
của một quốc gia bất kỳ, nhưng không chịu sự chi phối bởi các quy
định của NHTW phát hành đồng tiền này (bởi lẽ thị trường tiền tệ châu
Âu sẽ di chuyển đến bất kỳ nơi đầu có điều kiện pháp lý thích hợp và
rủi ro chính trị thấp nhất). Khác với các ngân hàng kinh doanh nội địa,
các ngân hàng châu Âu được độc lập với những quy chế kiểm soát của
chính phủ, đặc biệt là không phải tham gia dự trữ bắt buộc. Trong khi
đó, các ngân hàng nội địa phải trích một phần tài sản Có của mình để
đáp ứng nhu cầu dự trữ bắt buộc không có lãi suất hoặc lãi suất rất
thấp. Trong khi đó, do các ngân hàng châu Âu không phải là đối tượng
phải tham gia dự trữ bắt buộc, cho nên chúng có khả năng chỉ duy trì
một lượng tài sản tối ưu có mức lãi suất thấp làm tài sản dự trữ, chính
vì vậy mà các ngân hàng châu Âu có thể trả lãi suất tiền gửi cao hơn
và thu lãi suất cho vay thấp hơn so với các ngân hàng ở nước bản địa
mà cụ thể là các ngân hàng ở Mỹ. Điều này tạo lợi thế cạnh tranh cho
các Eurobanks và là nguyên nhân cơ bản giúp cho các hoạt động của
Eurobanks tồn tại, được ưa chuộng và phát triển. .
- Quy mô giao dịch trên thị trường đô la châu Âu rất lớn. Nhìn
chung, mức trung bình của mỗi khoản tiền gửi và mỗi khoản cho vay
từ hàng trăm đến hàng triệu nghìn USD, lớn hơn rất nhiều với giao
7
dịch nội địa. Điều này cho thấy chi phí hoạt động trung bình liên quan
đến nhận tiền gửi hay cho vay là rất thấp đối với các ngân hàng châu
Âu.
- Các ngân hàng châu Âu tránh được những chi phí phụ trội liên
quan đến tổ chức cán bộ hành chính và sự chậm trễ phát sinh do phải
tuân thủ theo các quy định tại mỗi ngân hàng nội địa. Các Eurobanks
không phải duy trì một hệ thống chi nhánh cồng kềnh như các ngân
hàng nội địa. Hơn nữa, những ngân hàng nội địa cần một cơ chế kiểm
soát nội bộ chặt chẽ và thường là phải chịu chi phí khá lớn cho những
họat động liên quan đến pháp lý, trong khi đó, các ngân hàng châu Âu
giảm được đáng kể những chi phí này. Mặt khác các ngân hàng châu
Âu tiết kiệm được khoản chi cho bảo hiểm tiền gửi do không phải trả
phí này, trong khi các ngân hàng Mỹ phải trả phí này. Vì thế , các
NHTM Việt Nam khi được gia nhập vào thị trường này sẽ được hưởng
lợi từ chi phí sử dụng vốn thấp.
- Những hoạt động của các ngân hàng châu Âu chịu sự cạnh
tranh quốc tế mạnh mẽ và những điều kiện tham gia hoạt động trên thị
trường này tương đối dễ dàng so với những hoạt động ngân hàng nội
địa. Vì thế các NHTM Việt Nam với quy mô nhỏ, hoạt động chưa cao
có thể từng bước tiếp cận được thị trường vốn này.
- Đội ngũ khách hàng được các ngân hàng châu Âu cho vay đều
là những khách hàng có chất lượng cao, có tỷ lệ vỡ nợ không đáng kể
8
vì khi tham gia thị trường này đòi hỏi khách hàng là phải có uy tín, có
mức độ tín nhiệm tốt. Do vậy, để được tham gia vào thị trường này,
các NHTM Việt Nam có chiến lược kinh doanh và bộ máy hoạt động
hiệu quả. Và hiện nay, tình hình nợ xấu tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam tương đối cao dẫn đến mức độ tín nhiệm của các ngân hàng
không cao. Vì thế, các ngân hàng thương mại phải đáp ứng các điều
kiện của các chuẩn mực basel cũng như phải chủ động phân loại các
khoản nợ vào các nhóm theo quy định để tránh được các rủi ro vỡ nợ
cho ngân hàng thương mại nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung.
Từ đó cải thiện được niềm tin về chất lượng của các dịch vụ ngân hàng
với khách hàng và các tốt chức xếp hạng như Moody, Standard &
Poor…
2.2. Kênh tiếp cận thị trường đô la châu Âu của các NHTM Việt
Nam
Nền sản xuất của Việt Nam có giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc
phần lớn vào nguồn máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu nhập
khẩu. Ví dụ như ngành hàng dệt may hiện đang là ngành xuất khẩu chủ
lực của nước ta thì cũng phải nhập khẩu đến 90% nguyên liệu. Hay các
sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, thủy sản xuất khẩu nhưng các
nguồn liệu đầu vào để sản xuất các sản phẩm thế mạnh trên (phân bón,
thuôc trừ sâu, thức ăn chăn nuôi) cũng phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Với một nền kinh tế phụ thuộc vào bên ngoài lớn như vậy nên tác
9
động của việc tăng tỷ giá ảnh hưởng lớn đến nhập khẩu hàng tiêu dùng
cũng như tăng chi phí sản xuất do tăng giá nhập khẩu nguyên nhiên vật
liệu. Do vậy, việc tiếp cân nguồn vốn đô la từ nhiều nguồn khác nhau
để đáp ứng nhu cầu thanh toán cũng như dự trữ ngoại tệ cho nền kinh
tế.
Các kênh tiếp cận thị trường đô la châu Âu của các NHTM Việt
Nam
- Mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại thị trường châu Âu, qua
đó có thể tiếp cận được nguồn vốn đô la dồi dào từ thị trường này.
Thêm vào đó, tạo điều kiện cho các ngân hàng đẩy mạnh kế hoạch
phát triển và tận dụng các cơ hội kinh doanh.
- Mở rộng mối quan hệ với các ngân hàng tại thị trường này, qua
đó tạo được thêm nhiều ngân hàng đại lý để khi có các khoản ngoại tệ
có thể chuyển đổi sang USD. Và các ngân hàng mở thêm đại lý ở các
nước có đối tượng quan hệ với Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
giao dịch với khách hàng trong nước và nước ngoài nhanh chóng và
tiện lợi. Từ đó, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển nhiều hơn.
- Các NHTM lớn tại Việt Nam mở rộng mối quan hệ với các
ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Việt Nam để họ có thể biết
được năng lực tài chính của các NHTM lớn ở Việt Nam. Nhu cầu giao
thương của Việt Nam với các nước trên thế giới và ngược lại là rất lớn.
Việc ngân hàng Việt mở rộng sự hiện diện ở nước ngoài càng nhiều
10
cùng làn sóng đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài là điều tích cực. Qua
đó cơ hội quan hệ hợp tác của các NHTM Việt Nam với các ngân hàng
lớn tại châu Âu ngày càng mở rộng hơn.
- Ngoài ra các NHTM Việt Nam có thể tiếp cận thông qua
phương thức vay vốn từ các tổ chức tài chính, tổ chức kinh tế thông
qua sự bảo lãnh và làm đầu mối của NHNN. Bên cạnh đó, cũng có thể
tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức trên thế giới như WB, IMF, ADB,
các NHTW của các nước từ sự phân bổ và giới thiệu của NHNN
2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc tiếp cận thị trường
đô la Châu Âu của NHTM Việt Nam.
2.3.1.Thuận lợi
- Việt Nam là nước đang phát triển, có hệ thống chính trị ổn định,
là một nơi có nhiều tiềm năng để đầu tư, kinh doanh do đó đã thu hút
được nhiều nguồn vốn từ các tổ chức nước ngoài. Đặc biệt là dòng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI trong những năm qua luôn cao và có
xu hướng gia tăng. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, số
vốn đầu tư của khu vực nước ngoài năm 2011 theo giá thực tế là 227
nghìn tỷ đồng gấp 4 lần so với năm 2005, chiếm tỷ trọng 26% tổng
vốn đầu tư. Khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng phản ánh
niềm tin của các nhà đầu tư quốc tế vào triển vọng phát triển kinh tế
của Việt Nam từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các NHTM Việt
Nam tiếp cận và tham gia vào thị trường vốn quốc tế.
11
- Hiện nay Mỹ đang ngày càng mở rộng hợp tác kinh doanh với
Việt Nam. Đây cũng là cơ hội để Chính phủ là cầu nối cho các NHTM
tại Việt Nam mở rộng quan hệ với các ngân hàng Mỹ.
- Các ngân hàng nước ngoài lớn đã mở chi nhánh tại Việt Nam là
nhân tố quan trọng có thể đam bảo uy tín của các NHTM Việt Nam
khi tiếp cận nguồn vốn nước ngoài cũng như phát hành các trái phiếu
ra thị trường nước ngoài. Theo số liệu từ NHNN Việt Nam, đến ngày
15/06/2012 đã có 50 chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài mở tại
Việt Nam trong đó có Citi Bank (Mỹ), Standard Characted (Anh),
ANZ (Úc), BNP (Pháp), Deustche Bank (Đức), HSBC…
2.3.2. Khó khăn
- Các NHTM Việt Nam cũng như NHNN VN có hệ số tín nhiệm
rất thấp. Ngày 28/09/2012, hãng xếp hạng tín nhiệm Moody đã hạ bậc
tín nhiệm nợ của trái phiếu Chính phủ Việt Nam và hạ bậc tín nhiệm
của 8 ngân hàng trong nước bao gồm ngân hàng Á Châu (ACB), ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), ngân hàng Công thương
(Vietinbank), ngân hàng Quân đội (MB), ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội
(SHB), ngân hàng Sài Gòn – Thương tín (Sacombank), ngân hàng Kỹ
thương (Techcombank) và ngân hàng Quốc tế (VIB). Theo báo cáo
của tổ chức này, hệ số tín nhiệm của Việt Nam đã bị hạ xuống mức B2
từ mức B1. Mức xếp hạng tài chính (BSFR) của 8 ngân hàng kể trên
đều ở mức E, tương ứng với mức caa1 trên thang xếp hạng dài hạn.
12
Trước đó 8 ngân hàng này đều được xếp hạng E+, tương ứng với mức
tín nhiệm dài hạn nằm trong khoảng B1 – B2 tùy từng ngân hàng.
Theo đó, việc tiếp nhận vốn từ các thị trường nước ngoài sẽ rất khó với
uy tín chưa được khẳng định. Mặt khác, với hệ số tín nhiệm thấp, lãi
suất huy động cũng tăng lên là trở ngại cho việc tiếp cận các nguồn
vốn này.
- Nợ nước ngoài của Việt Nam tăng nhanh, trong vòng 5 năm đã
tăng gấp đôi từ 2006 đến 2010 trong khi dự trữ ngoại hối lại giảm
nhanh chóng. Theo bản tin nợ nước ngoài số 7 năm 2011 của Bộ Tài
chính, nợ nước ngoài Việt Nam cuối năm 2010 là 32,5 tỷ USD, tức
bằng 42,2% GDP, so với mức nợ 2006 là 16,64 tỷ USD, chiếm 31,4%
GDP. Trong khi đó dự trữ ngoại tệ của Việt Nam năm 2010 chỉ còn
tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, tỷ lệ này đã giảm đi rất nhiều
so với 290% tổng dư nợ ngắn hạn 2009. Điều này gây bất lợi cho Việt
Nam khi tiếp cận nguồn vốn vay từ nước ngoài, do lo ngại khả năng
thanh toán của Việt Nam. Từ đó cũng tác động tiêu cực đến việc tiếp
cận thị trường đô la châu Âu của NHTM Việt Nam.
- Hiện tại việc sử dụng các nguồn vốn nước ngoài như ODA, FDI
của Việt Nam còn thiếu hiệu quả. Do đó, cũng ảnh hưởng đến uy tín
của Việt Nam trên thị trường thế giới. Trong văn bản mà Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Chính phủ trả lời chất vấn
trước Quốc hội, thì nguồn vốn FDI đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn
chiếm tỷ lệ rất ít và có xu hướng giảm dần, từ 85 trong tổng cơ cấu
13
FDI của cả nước năm 2001 xuống chỉ còn 1% năm 2010. Còn tính
chung trong vòng 20 năm, từ 1990 đến 2010, ngành nông nghiệp vốn
đầu tư chỉ đạt 4,3 tỷ USD (chiếm 2,3%), tức mỗi năm chỉ thu hút 215
triệu USD.
- Tại Việt Nam hiện tại chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn gia
nhập thị trường đô la châu Âu cho các NHTM. Do đó, đã gây khó
khăn chó các ngân hàng trong việc triển khai thực hiện.
14
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TIẾP CẬN THỊ
TRƯỜNG ĐÔ LA CHÂU ÂU CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM
3.1. Nâng cao năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam
Để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường đô la châu Âu của các
NHTM thì trước hết, các ngân hàng phải đảm bảo có năng lực tài
chính lành mạnh, có như thế thì mới đảm bảo hoạt động hiệu quả và
tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Như chúng ta biết, hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt
động có rủi ro cao, trong thời gian gần đây, các vụ “bê bối” trong lĩnh
vực ngân hàng, đặc biệt là ở các ngân hàng thương mại, bị đổ vỡ, gây
ảnh hưởng khá lớn đến nền kinh tế nói chung và niềm tin nhà đầu tư
trên thị trường nói chung. Vấn đề còn tồn tại rất lớn của các ngân
hàng thương mại đó là năng lực tài chính.
Để tăng năng lực tài chính cho các NHTM và tạo điều kiện cho
các NHTM mở rộng qui mô hoạt động và nâng cao khả năng cung ứng
dịch vụ thì phải giải quyết 3 vấn đề: Tăng vốn tự có; tăng khả năng
sinh lời và tháo gỡ những khó khăn để xử lý dứt điểm nợ tồn đọng,
làm sạch bảng cân đối tài sản. Cụ thể đó là:
- Tiếp tục Đề án tái cơ cấu NHTM đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt, áp dụng công nghệ tiên tiến để khai thác tối đa nguồn vốn
trong dân và phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
gắn với việc nâng cao tiện ích của từng dịch vụ ngân hàng cho khách
hàng. Mở rộng dịch vụ ngân hàng đến mọi tầng lớp dân cư.
15
- Xây dựng các định chế quản lý tài sản nợ, quản lý vốn, quản lý
rủi ro, hệ thống thông tin quản lý (MIS)… theo đúng thông lệ quốc tế.
- Nâng cao quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm của các
NHTM; nâng cao khả năng dự báo thị trường để có thể vừa mở khả
năng kinh doanh, vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
3.2. Mở rộng hoạt động kinh doanh tại nước ngoài.
Bên cạnh nâng cao năng lực tài chính, mở rộng hoạt động trong
nước của các ngân hàng, để mở rộng tiếp cận thị trường đô la châu Âu,
các NHTM Việt Nam cần mở rộng hoạt động kinh doanh ở nước
ngoài, dần dần tạo dựng và phát triển hình ảnh của các NHTM Việt
Nam đối với nước ngoài. Có như vậy, thì mới có khả năng tiếp cận cao
với thị trường đô la châu Âu, mở rộng huy động vốn cho các NHTM
Việt Nam. Và thị trường quốc tế vẫn là thị trường rất tiềm năng, Việt
Nam mới chỉ chạm tới.
Các NHTM VN cần chủ động tiếp cận các thị trường nước ngoài
tiềm năng như các nước phát triển, các nước giáp biên giới, các nước
có lợi thế về khách hàng tiềm năng, nhằm triển khai các hoạt động
kinh doanh tiền tệ tại nước bạn.
Hiện nay, không ít NHTM VN đang tìm cách mở rộng thị trường
hoạt động ở nước ngoài. Ví dụ, BIDV được NHNN cho phép mở văn
phòng đại diện tại Campuchia. VietinBank đã chính thức khai trương
16
Chi nhánh VietinBank CHLB Đức (VietinBank German Branch) tại
Frankfurt.
Tại các chi nhánh ở Lào và Campuchia, đối tượng khách hàng
mà ngân hàng VN hướng tới là các doanh nghiệp Việt kiều, nhân
viênVN đang làm việc tại các tổ chức, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các
tầng lớp dân cư của hai nước
Việc mở văn phòng đại diện hay chi nhánh tại nước ngoài của
các NHTM VN không phải là chuyện mới mẻ. Trước đây, VCB, ACB,
BIDV đã được NHNN cho phép mở văn phòng đại diện tại Mỹ. Tuy
nhiên, Cục Dự trữ liên bang Mỹ vẫn chưa chấp thuận. Trước thực tế
trên, nhiều ngân hàng thương mại khác đã tìm kiếm địa bàn hoạt động
ở những nước phù hợp với tiêu chuẩn và nguồn lực của mình.
Thị trường Lào, Campuchia được các ngân hàng đánh giá là dễ
triển khai dịch vụ và dễ chiếm lĩnh thị trường, bởi mối quan hệ anh-em
bền lâu của 3 nước Đông Dương. Nhưng Việt Nam cần mở rộng hoạt
động hơn nữa, tiếp cận với các nước khác trên thế giới.
Một lãnh đạo của VCB cho rằng muốn đầu tư vào các thị trường
lớn, Việt Nam cần có sự chuẩn bị kỹ càng bởi những thị trường này
đòi hỏi vốn, nguyên tắc hoạt động chặt chẽ. Trong khi đó, Việt Nam
vẫn còn thiếu một số yếu tố như kinh nghiệm, quản trị rủi ro, ứng dụng
công nghệ Nếu chưa giải quyết được các điểm yếu này thì các
NHTM Việt Nam có nguy cơ gặp rủi ro lớn khi tham gia mở chi nhánh
tại các nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ.
17
Các NHTM Việt Nam, nhất là các NHTM quy mô nhỏ cần nhanh
chóng hiện đại hóa và phát triển công nghệ để theo kịp tốc độ phát
triển của thị trường tài chính quốc tế, thực hiện các cuộc nghiên cứu
thị trường nhằm phát triển kinh doanh tại các thị trường tiềm năng.
3.3. Huy động vốn từ các tổ chức quốc tế
Các NHTM Việt Nam có thể tiếp cận thị trường này từ các
phương thức vay vốn từ các tổ chức tài chính, tổ chức kinh tế cũng
như nhận các nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam thông qua các phương
thức sau:
Vay thông qua sự bảo lãnh và làm đầu mối của NHNN: NHNN
phát hành các EuroBond và chọn một số NHTM lớn, có uy tín tiếp
nhận nguồn vốn đó đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng. NHNN nhận
các nguồn vốn từ các tổ chức trên thế giới như WB, IMF, ADB cũng
như các NHTƯ các nước và giới thiệu các NHTM tiếp cận.
Các NHTM VN cần tích cực hợp tác, tham mưu, góp ý cho NHNN
nhằm mở rộng đối tượng các ngân hàng tiếp cân các nguồn vốn huy
động quốc tế.
Các NHTM thông qua sự giới thiệu hỗ trợ từ các NHTM lớn tại
Việt Nam cũng như các NH nước ngoài tại Việt Nam tiếp cận vay vốn
trực tiếp các NH tại nước ngoài. Do đó, các NHTM và NHNN Việt
Nam cần chú trọng hợp tác phát triển với các NH nước ngoài tại Việt
Nam và nhờ khả năng giới thiệu từ các ngân hàng này tiếp cận vốn vay
các ngân hàng mẹ, chi nhánh khác, hay ngân hàng nước ngoài khác.
18
Bên cạnh xu thế mở rộng hợp tác trên phạm vi toàn cầu thì các tổ
chức quốc tế như WB, IMF hay các NHTƯ, các nước phát triển càng
chú trọng đầu tư vực dậy các nước đang phát triển. Đó là cơ hội để tiếp
cận vốn của các NHTM VN.
Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam cũng như NHNN có hệ số xếp
hạng tín nhiệm rất thấp nên đó cũng là một thử thách lớn. Đặc biệt,
trong thời gian gần đây, Moody’s hạ xếp hạng tín nhiệm của các
NHTM Việt Nam, điều này càng gây khó khăn hơn cho các NHTM
Việt Nam trong tiếp cận huy động vốn từ các tổ chức quốc tế.
3.4. Phát triển mạng lưới ngân hàng đại lý
Nhằm đáp ứng mọi yêu cầu thanh toán xuất, nhập khẩu của
khách hàng trong và ngoài nước, các NHTM Việt Nam phải luôn chú
trọng mở rộng quan hệ ngân hàng đại lý trong khu vực và quốc tế.
Việc mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý cũng là một giải pháp nâng
cao năng lực cạnh tranh và phát triển kinh doanh có quy mô toàn cầu.
Hiện nay, các NHTM Việt Nam được phép thanh toán quốc tế và
kinh doanh ngoại tệ đang có mối quan hệ với hàng trăm, hàng nghìn
ngân hàng đại lý tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế
giới. Do đó, các NHTM Việt Nam cần chủ động tăng cường thiết lập
quan hệ với các ngân hàng đại lý nhằm thu hút sự hỗ trợ từ các ngân
hàng này, tích cực, chủ động tham gia vào các hiệp hội quốc tế có uy
tín nhằm tìm hiểu, học hỏi và thuận lợi hơn trong kinh doanh quốc tế
19
3.5. Hoàn thiện môi trường pháp luật tạo nền tảng vững chắc cho
các NHTM Việt Nam mở rộng khả năng tiếp cận thị trường đô la
châu Âu
Hoàn thiện môi trường pháp luật theo hướng minh bạch, thông
thoáng, ổn định đảm bảo sự bình đẳng, an toàn cho các chủ thể tham
gia thị trường hoạt động có hiệu quả. Chỉnh sửa kịp thời những bất cập
trong các văn bản hiện hành. Tiếp tục xây dựng những văn bản pháp
luật điều chỉnh các dịch vụ mới như: bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài
chính, bao thanh toán… theo chuẩn mực quốc tế. Có như vậy, thì sẽ
tạo môi trường thuận lợi cho các NHTM Việt Nam tiếp cận thị trường
đô la châu Âu, đồng thời tạo ấn tượng tốt trong tâm lý nhà đầu tư nước
ngoài. Bởi nếu chính sách pháp luật còn quá nhiêu khê, thì các nhà đầu
tư nước ngoài, đặc biệt là các tổ chức quốc tế, sẽ rất e ngại khi đầu tư
vào Việt Nam, do đó, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động mở rộng
quốc tế của các NHTM Việt Nam.
3.6. Phát triển nguồn nhân lực ngân hàng nhằm tạo đội ngũ nhân
viên có đủ năng lực, đủ khả năng tham gia vào hoạt động ngân
hàng mang tính quốc tế.
Con người luôn là nguồn lực quan trọng trong mọi hoạt động.
Trong lĩnh vực ngân hàng, độ ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng
chính là nguồn lực quan trọng nhất quyết định thành bại của ngân
hàng. Với mục tiêu nâng cao tiếp cận thị trường đô la châu Âu của các
NHTM Việt Nam, một điều không thể thiếu đó là đào tạo đội ngũ nhân
20
lực ngân hàng có đủ năng lực, phẩm chất và khả năng cạnh tranh tham
gia hoạt động mang tính quốc tế của các NHTM Việt Nam.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo các hướng sau: Đào
tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng
hiện đại; tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ ngân hàng gắn liền với thu
nhập; tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ, có trình độ cao, có chính sách sử
dụng và khuyến khích thoả đáng nguồn nhân lực có trình độ về làm
việc tại các ngân hàng.
3.7. Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng theo
tiêu chuẩn quốc tế
Muốn mở rộng hoạt động quốc tế nhằm nâng cao khả năng tiếp
cận thị trường đô la châu Âu của các NHTM, việc nâng cao công nghệ
là một điều mà các NHTM Việt Nam không thể bỏ qua. Xây dựng
chiến lược phát triển công nghệ theo chuẩn quốc tế nhằm phục vụ cho
công tác điều hành kinh doanh, quản lý nguồn vốn, quản lý rủi ro, hệ
thống thanh toán liên hàng, hệ thống giao dịch điện tử… Đảm bảo dịch
vụ được cung cấp nhanh chóng, chính xác, an toàn, đem lại lợi ích cho
cả ngân hàng và khách hàng quốc tế.
21