Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Thực trạng và giải pháp để phát triển thị trương fhangf hóa trên thị trường chứng khoán Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.26 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chứng khoán: CK
Công ty cổ phần: CtyCP
Cổ phần hóa: CPH
Cổ phiếu: CP
Doanh nghiệp Nhà nước: DNNN
Sở giao dịch chứng khoán: SGDCK
Ủy ban CK Nhà Nước: UBCKNN
Thị trường CK: TTCK
Thị trường sơ cấp: TTSC
Thị trường thứ cấp: TTTC
Trung tâm giao dịch CK: TTGDCK
Trái phiếu: TP
2
LỜI MỞ ĐẦU.
Thị trường CK (TTCK) là một bộ phận của thị trường tàì chính.Việc hình thành
TTCK là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Ở nước ta, với nền kinh
tế thị trường vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà
nước thì việc ra đời TTCK cũng là bước phát triển tất yếu, phù hợp với các quy luật
phát triển kinh tế xã hội. TTCK là một trung gian tài chính quan trọng để đưa các
nhà đầu tư gặp gỡ nhau, giữa một bên là nhóm người có vốn tiền tệ nhàn rỗi và
nhóm người có nhu cầu sử dụng vốn, nhằm phục vụ cho nhu cầu đầu tư và phát
triển nền kinh tế. Hơn nữa, quá trình hội nhập kinh tế cũng đòi hỏi phải có TTCK
làm chiếc cầu nối giữa các nhà đầu tư, tạo ra sự liên kết bình đẳng trong hoạt động
kinh doanh giữa các đối tác trong và ngoài nước. Sự đáp ứng kịp thời giữa người có
vốn cho người có nhu cầu về vốn góp phần đẩy nhanh tiến trình lưu thông vốn trong
xã hội. Do đó, các hoạt động trong nền kinh tế được kích hoạt và điều này sẽ thúc
đẩy sự phát triển kinh tế.
TTCK Việt Nam đã thành lập và chính thức đi vào hoạt động vào tháng 7/2000.


Tính đến nay thì TTCK Việt Nam mới hoạt động được 6 năm, một khoảng thời gian
không nhiều so với lịch sử phát triển hàng trăm năm của TTCK thế giới, nhưng
cũng đủ cho chúng ta có dịp nhìn lại chặng đường phát triển của TTCK Việt
Nam.Trong khoảng thời gian trên TTCK Việt Nam đã đạt được những thành tựu
bước đầu đáng kể, có đóng góp quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Tuy
nhiên so với tiềm năng và xu thế hội nhập thì TTCK Việt Nam chưa phát triển xứng
tầm với nó phải có. Cụ thể là quy mô của TTCK Việt Nam còn quá khiêm tốn chưa
đủ sức để cạnh tranh với thị trường của khu vực và thế giới. Một thực tế là TTCK
nói chung và đầu tư CK nói riêng dường như còn quá xa lạ cả với các doanh nghiệp
và đại bộ phận người dân – những chủ thể giữ vai trò quyết định vào sự phát triển
của TTCK Việt Nam. Trong xu thế hội nhập và sự kiện Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên của WTO thì việc phát triển TTCK càng trở nên cần thiết hơn bao
giờ hết. Nhận thức được vấn đề trên nên em chọn TTCK làm đề tài cho đề án.
Nhưng với phạm vi của đề án chỉ trọng tâm đề cập tới thực trạng và giải pháp để
phát triển thị trường hàng hóa trên TTCK Việt Nam.
Trong phạm vi của đề án em xin nêu ra ba nội dung chính sau đây:
Phần I: Lý thuyết chung về TTCK: Phần này giới thiệu chung về TTCK.
Phần II: TTCK Việt Nam. Phần này nêu lên những mặt đạt được và thực trạng
của TTCK Việt Nam.
Phần III: Các giải pháp phát triển quy mô thị trường hàng hóa trên TTCK.
Trong đề án của em có sử dụng tư liệu từ các cuốn giáo trình, các tạp chí chuyên
ngành, các tư liệu trên mạng kết hợp với bài giảng Lý thuyết tài chính - tiền tệ
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Đoàn Phương Thảo đã tận tình giúp đỡ em
hoàn thành đề án này.
3
PHẦN I. LÍ THUYẾT CHUNG VỀ TTCK.
1. Quan niệm và các nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK.
Quan niệm về TTCK (Thị trường vốn-Capital Market).
TTCK (Stock Market) là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính, hoạt
động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung

thành những nguồn vốn quan trọng lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế và nhà nước để phát triển sản xuất tăng trưởng kinh tế hay cho các dự
án đầu tư.
TTCK trong nền kinh tế hiện đại là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các CK
(CK) trung hoặc dài hạn thường từ một năm trở lên. Nội dung của các mối quan hệ
về giao lưu vốn dài hạn trên TTCK được thể hiện tập trung bằng các hoạt động kinh
doanh CK trên TTCK. Vậy, TTCK là nơi mua bán giao dịch các loại CK đã được
phát hành và đang lưu hành trên thị trường. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị
trường CK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các
loại CK, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ CK. TTCK có những chức năng cơ bản
sau: Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế; Cung cấp môi trường đầu tư cho công
chúng; Tạo tính thanh khoản cho các CK; Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp;
Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô.
Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK.
Hoạt động của TTCK tuân thủ theo ba nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc trung gian.
TTCK không phải trực tiếp giữa người mua và người bán mà do những người
trung gian thực hiện. Nguyên tắc này đảm bảo các loại CK giao dịch là CK thực và
TTCK hoạt động được lành mạnh, đều đặn, hợp pháp, phát triển và bảo vệ lợi ích
của người đầu tư.
Vì những người đầu tư không phải ai cũng có thể xác định được giá trị thực và
không dự đoán được một cách chính xác giá trị tương lai mà chỉ có những người
môi giới. Có hai loại môi giới: môi giới trung gian và thương gia CK. Điểm phân
biệt giữa hai loại môi giới này là ở mục đích của việc mua bán CK. Môi giới trung
gian là người trung gian mua, bán CK cho khách hàng để hưởng hoa hồng còn
thương gia CK lại là những người trung gian mua bán CK nhưng không phải cho
khách hàng mà là cho chính họ, bằng nguồn vốn của họ, để lợi từ chênh lêch giữa
mua và bán.
Nguyên tắc đấu giá.
Việc định giá CK trên thị trường hoàn toàn do các nhà môi giới quyết định. Mỗi

nhà môi giới định giá một loại CK tại một thời điểm, tùy theo sự xét đoán, kinh
nghiệm và kỹ thuật riêng của mình và tùy vào cung, cầu loại CK đó trên thị trường.
Việc định giá được thực hiện qua một cuộc đấu giá giữa những người môi giới
với nhau, hoặc qua một cuộc thương lượng giữa hai bên. Ngày nay, khi kỹ thuật vi
tính đã được ứng dụng vào TTCK, có ba hình thức đấu giá cơ bản mà các TTCK
thường áp dụng: Đấu giá trực tiếp, Đấu giá gián tiếp, và Đấu giá tự động. Điểm
4
phân biệt giữa ba hình thức đấu giá này là ở phương thức diễn ra cuộc đấu giá: Đấu
giá trực tiếp thì các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau, thông qua một người trung gian
(Chuyên gia CK), còn đối với Đấu giá gián tiếp thì các môi giới không trực tiếp gặp
nhau mà việc đấu giá chỉ thực hiện thông qua lệnh đặt hàng mua hoặc bán của một
loại CK khớp với giá, còn đối với đấu giá tự động là hình thức đấu giá qua hệ thống
Computer nối mạng giữa máy chủ của sở giao dịch với hệ thống máy của các công
ty CK thành viên theo phương thức giá chốt do máy chủ đặt đảm bảo số lượng mua
bán được nhiều nhất.

Nguyên tắc công khai.
Tất cả các hoạt động trên TTCK đều được công khai trên phương tiện thông tin
đại chúng về loại CK được đưa ra mua bán trên thị trường; Tình hình tài chính và
kết quả kinh doanh các công ty có CK đăng ký yết giá trên thị trường; Số lượng và
giá cả cũng như từng loại CK đã mua bán.
2. Các loại hàng hóa trên TTCK
Chúng ta gọi là TTCK có nghĩa là trên thị trường đó lấy CK là hàng hóa để giao
dịch. Vậy CK là gì?
2.1. Quan niệm về CK - hàng hóa vốn.
Để thâm nhập vào TTCK, điều cần quan tâm là phải hiểu rõ hàng hóa của trị
trường này. Vì để có thị trường, điều trước tiên là phải có hàng hóa và sự buôn bán
hàng hóa. Tuy nhiên, mỗi loại thị trường có những loại hàng hóa giao dịch riêng.
Nhưng xét về mặt lịch sử và theo cách gọi có tính thống nhất, các loại hàng hóa này
đều có tên gọi chung – đó là CK.

CK là một hàng hóa vốn, rất trừu tượng và giá trị của nó không liên quan gì
đến hình thức vật lý của nó, mà dựa vào trái quyền hợp pháp trên một lợi ích tương
lai nào đó, không có giá trị sử dụng như gạo, thịt, xăng dầu, sắt thép, nhà cửa, xe cộ,
bằng phát minh sang chế, sức lao động… Như vậy các hàng hóa thông thường là
hàng hóa vật chất để tiêu dùng, còn CK là hàng hóa vốn của hoạt động sản xuất. Do
là hàng hóa vốn không có giá trị sử dụng như vậy, có thể nói người mua CK đang
mua giá trị tương lai, hay nói nôm na hơn, là người ta bỏ tiền mặt ra mua một tờ
giấy chứng nhận cho những khoản tiền thu lại được trong tương lai với hy vọng lớn
hơn số tiền đã bỏ ra (nhưng hy vọng này không bao giờ chắc chắn cả). CK là những
tờ giấy, việc mua bán không phải là vì những tờ giấy, mà vì khả nắng mang lại thu
nhập do số tiền được chứng nhận trên tờ giấy đó.
Quá trình tiêu thụ CK là quá trình giữ nó trong tay như một phương tiện để sáng
tạo ra “giá trị mới là tiền lãi”, giống như cho vay. Hàng hóa “CK” chỉ bị đào thải
khi nó đến hạn thu hồi.
Không có hàng hóa thì không có chợ, không có CK sẽ không có TTCK. Như vây,
CK là nhân tố cơ bản hình thành TTCK. CK là một loại hàng hóa đặc biệt – hàng
hóa vốn – là công cụ huy động vốn từ những nơi thừa sang nơi thiếu, từ những
người cung ứng vốn đến những người cần vốn.
5
Nói một cách nôm na cho dễ hiểu, CK là chứng chỉ thể hiện quyền lợi sở hữu chủ
sở hữu CK đối với người phát hành.
2.2. Các loại CK:
CK bao gồm: CK vốn (CP), CK nợ (TP) và các chứng chỉ có nguồn gốc CK
(chứng quyền, chứng khế, chứng chỉ thụ hưởng, các CK phái sinh…)
2.2.1. CK vốn (CP-CP).
CP là một chứng thư, chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một
CtyCP, hay nói cách khác, CP là một giấy chứng nhận việc đầu tư vốn của một chủ
thể vào một CtyCP. Như vậy chúng ta có thể hiểu CPlà loại CK gắn liền với quyền
lợi sở hữu chủ một phần của một doanh nghiệp nào đó. Chính CtyCP đã khai sinh ra
CP và chỉ có CtyCP mới có CP. Các cổ đông – người mua CP của công ty –

không phải là chủ nợ đối với công ty, mà là người hùn vốn cùng công ty hoạt động,
là người chủ sở hữu (một phần) công ty. Điều đó có nghĩa công ty sẽ chia cả lợi
nhuận lẫn rủi ro của mình cho người đó và dĩ nhiên như thế CP chỉ có giá trị, khi
công ty đó còn giá trị và giá trị công ty lên thì giá CP lên và ngược lại. Vì vậy, CP
còn được gọi là CK vốn.
CP gồm hai loại chính: CP thường và CP ưu đãi
2.2.1.1. CP thường hay CP phổ thông (common stock or ordinary share)
CP thường là một CK vốn, không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của công
ty, lợi tức CP được trả vào cuối năm để quyết toán – gọi là cổ tức. Đặc điểm của CP
thường là cùng dự phần may rủi với công ty, số lượng CP càng nhiều thì quyền sở
hữu càng lớn. Cụ thể như sau:
Lợi tức của CP (gọi là cổ tức evident) không cố định, phụ thuộc vào mức lợi
nhuận thu được hàng năm của công ty và chính sách chia lời của công ty. Khi công
ty thành đạt trong hoạt động kinh doanh, các cổ đông của CP thường có thể thu
được cổ tức cao. Khi công ty thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, các cổ đông của
CP thường thu được cổ tức thấp, thậm chí là không có cổ tức.
Việc trả cổ tức đối với CP thường có thể thực hiện bằng các hình thức sau: 1) trả
bằng tiền mặt là hình thức phổ biến nhất, phù hợp với nguyện vọng của các nhà đầu
tư; 2) trả bằng chính CP của công ty; 3) trả bằng tài sản của công ty.
CP của công ty không cho nhà đầu tư một sự hứa hẹn hoàn trả lại số vốn đầu tư
vì đây không phải là khoản nợ đối với công ty vì vậy nó còn được gọi là CK vĩnh
viễn.
Cổ đông của CP thường được cấp một số quyền khi họ mua CP của công ty như:
được tham gia bầu hội đồng quản trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn
của công ty; khi công ty giải thể hoặc phá sản sẽ được chia số tiền còn lại sau khi
thanh toán các khoán nợ và thanh toán cho CP ưu đãi. Như vậy CP thường xác định
quyền sở hữu của cổ đông trong công ty, được đặc trưng bởi quyền quản lý, kiểm
soát công ty: cổ đông chính là người chủ thật sự, có vai trò tạo ra các chính sách.
Với các đặc điểm trên, CP thường bao hàm nhiều yếu tố rủi ro, giá cả CP biến
động nhiều trên thị trường. Do đó, khi đầu tư vào CP thường, nhà đầu tư cần phân

tích xem xét kỹ lưỡng để chọn đúng hướng đầu tư, nhằm thu được lợi tức cao.
2.2.1.2. CP ưu đãi (Preferred stock).
6
CP ưu đãi là loại CK lai tạp những đặc điểm vừa giống CP thường, vừa giống TP.
CP ưu đãi hay còn gọi là CP đặc quyền – là loại CP được hưởng những quyền ưu
tiên hơn so với CP thường. Nếu như cổ tức của CP thường không cố định, thì ngược
lại cổ đông của CP ưu đãi được hưởng một mức cổ tức cố định hàng năm (nghĩa là
không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty). Nếu như CP
thường chỉ cho phép cổ đông quyền truy đòi cuối cùng đối với tài sản của công ty
phát hành, thì CP ưu đãi cho phép cổ đông được ưu tiên chia lãi cổ phần trước CP
thường, được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty (khi công ty bị phá sản
hoặc giải thể) trước so với CP thường. Như vậy, CP ưu đãi mang tính rủi ro ít hơn
CP thường, những nhà đầu tư mà có nắm giữ CP ưu đãi không muốn tham dự vào
rủi ro, chính vì lẽ đó, giá cả của CP ưu đãi trên thị trường không dao động lên
xuống nhiều như giá cả của CP thông thường. Tuy nhiên để tạo sự hấp dẫn cho loại
CP này, người ta đa dạng hóa CP ưu đãi bằng cách phân chia CP ưu đãi ra làm bốn
loại: CP ưu đãi dồn lãi và CP ưu đãi không dồn lãi; CP ưu đãi tham dự chia phần
(participating preferred stocks) và CP ưu đãi không tham dự chia phần; CP ưu đãi
có thể chuyển đổi thành CP thường (convertible preferred stocks); CP ưu đãi có thể
bồi hoàn (hay còn gọi là CP ưu đãi chuộc lại – redeemable preferred stocks).
Tóm lại, với những đặc trưng của mình, CP đã tạo cho các CtyCP những ưu thế
tuyệt diệu: có khả năng huy động tập trung được một khối lượng vốn khổng lồ cho
sự phát triển từ những số vốn lẻ tẻ trong dân chúng. Nhờ có CP, vốn đầu tư của các
cổ đông không bị bất động, họ có thể chuyển vốn đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh
vực khác, từ công ty này sang công ty khác bằng cách mua bán CP trên TTCK thứ
cấp.
2.2.2. TP (CK nợ) (Bonds).
Khác với CP là một CK vốn, TP (TP) là một CK nợ dài hạn của chủ thể phát
hành, tức là người phát hành TP là người mắc nợ đối với người mua TP và phải
hoàn trả vốn góp của TP cho chủ sở hữu khi đáo hạn.

Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa CP và TP là: 1) Chủ thể phát hành không chỉ có
công ty, mà còn có chính phủ hoặc chính quyền địa phương; 2) Nếu như người mua
CP công ty, trong thực tế, là người mua một phần công ty, là người chủ sở hữu công
ty, thì trái lại, người mua TP chỉ là người cho chủ thể phát hành vay tiền, là chủ nợ
của chủ thể phát hành TP; 3) Nếu như thu nhập chủ yếu của chủ sở hữu CP là cổ
tức – phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, thì trái lại, thu nhập
chủ yếu của TP là tiền lãi – là khoản thu cố định, không phụ thuộc vào tình hình sản
xuất kinh doanh của người chủ phát hành; 4) Nếu như CP là CK cung cấp cho
người chủ sở hữu quyền truy đòi cuối cùng đối với tài sản của công ty, thì trái lại,
TP là CK nợ, vì vậy nếu công ty bị giải thể hoặc bị phá sản thì trước hết công ty ưu
tiên trả nợ cho các trái chủ trước, sau đó còn lại mới phân chia cho các cổ đông. Với
những đặc điểm đó, TP có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn nên được các nhà
đầu tư và các định chế đầu tư rất ưa chuộng.
Hiện nay có khoảng 40 loại TP được phân loại theo những tiêu thức khác nhau
nhưng chủ yếu là phân loại theo chủ thể phát hành TP:
7
Nếu căn cứ vào chủ thể phát hành TP có TP chính phủ, TP chính quyền địa phương
và TP công ty.
2.2.2.1. TP chính phủ và TP chính quyền địa phương: là CK nợ do chính phủ
hoặc chính quyền địa phương phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt ngân sách
và tài trợ các dự án xây dựng các cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng trung
ương và địa phương. TP chính phủ là loại TP an toàn nhất. TP chính phủ thường có
ba loại: dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Có các loại TP tiêu biểu sau: TP kho bạc
(treasury bonds), TP đô thị (municipal bonds), Công trái nhà nước (state bonds), TP
quốc tế (International bonds).
2.2.2.2. TP công ty (corporate bonds) là do công ty phát hành với mục đích
huy động vốn để bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt phục vụ cho đầu tư phát triển. TP
công ty có rất nhiều loại: TP vô danh là loại TP không ghi tên người chủ lẫn người
phát hành; TP ký danh là loại TP có ghi tên; TP thế chấp (mortgage bonds) còn gọi
là TP bảo đảm (secured bonds) là loại TP khi phát hành có một lượng tài sản tương

ứng ký thác tại cơ quan ủy thác để đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả của TP; TP
tín chấp (debenture) còn gọi là TP không bảo đảm (unsecured bonds) là loại TP chỉ
dựa vào uy tín của công ty phát hành mà không đưa ra bất kỳ tài sản nào làm vật
bảo đảm; TP có khả năng chuyển đổi thành CP thường (convertible bonds) là loại
TP rất hấp dẫn và khi công ty làm ăn có lãi thì thì giá CP thường cao hơn trên thị
trường khi đó người chủ sở hữu được hưởng lợi; TP thu nhập (income bonds) là
loại TP mà lợi tức được trả tùy thuộc vào lợi nhuận của công ty và không cao hơn
lãi suất ghi trên TP; TP chiết khấu khống (zero-coupon bonds) còn gọi là TP lãi suất
chiết khấu là loại TP lãi suất được trả ngay khi phát hành , được khấu trừ vào tiền
mua TP; TP lãi suất thả nổi (floating rate bonds) là loại TP mà lãi suất được điều
chỉnh theo tưng thời kỳ phù hợp với lãi suất thị trường (lãi suất tín dụng); TP hỗ trợ
hàng hóa là loại TP khi phát hành và khi thanh toán có mệnh giá phụ thuộc chặt chẽ
vào giá thị trường của hàng hóa giao dịch trên thị trường quốc tế.
2.2.3. Các công cụ phái sinh hay còn gọi là các chứng chỉ có nguồn gốc CK
(Derivaties):
2.2.3.1. Chứng chỉ thụ hưởng do công ty tín thác đầu tư hay các quỹ tương hỗ
phát hành. Công ty tín thác đầu tư hay các quỹ tương hỗ là các tổ chức đầu tư
chuyên nghiệp thực hiện đầu tư theo sự ủy nhiệm của khách hàng. Các tổ chức phát
hành chứng chỉ thụ hưởng để xác nhận quyền lợi của khách hàng là những nhà đầu
tư cá nhân trong các quỹ đầu tư nhất định. Chứng chỉ thụ hưởng này có thể được
mua bán, giao dịch trên TTCK như các giấy tờ có giá khác.
2.2.3.2. Chứng quyền (Pre-emptive Right): là giấy xác nhận quyền được mua
CP mới phát hành tại mức giá bán của công ty. Các chứng quyền thường được phát
hành cho các cổ đông cũ, sau đó chúng có thể được đem ra giao dịch.Giấy xác nhận
quyền được mua số CP mới phát hành do công ty cấp gọi là giấy bảo đảm quyền
mua CP. Giấy bảo đảm quyền mua CP cũng là một CK được gọi là chứng quyền.
Chứng quyền là một CK, cung cấp cho sở hữu chủ quyền tiên mãi hoặc quyền đặt
mua (quyền dự tính) một lượng nhất định CP mới phát hành, với giá cả nhất định,
8
trong một thời hạn nhất định (thường là kỳ hạn ngắn). Giá trị của chứng quyền được

coi là một phần vốn của cổ đông.
2.2.3.3. Chứng khế (warrants): là các giấy tờ được phát hành kèm theo các TP,
trong đó xác nhận quyền được mua CP theo những điều kiện nhất đinh. Một chứng
khế gắn với một loại CK, cho phép người giữ nó được quyền chuyển đổi CK đó
sang CK khác hoặc sang một công cụ tài chính nào đó khác theo một giá định trước
gọi là giá đặt mua trong một thời hạn nhất định (thường là kỳ hạn dài hơn chứng
quyền).
2.2.3.4. Các chứng chỉ phái sinh: là các CK có giá trị phụ thuộc vào các giá trị
khác luôn thay đổi trên thị trường. Đây là sản phẩm tài chính cao cấp và rất phức
tạp, bao gồm các hợp đồng chuyển giao sau, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng lựa chọn,
hợp đồng Swaps…
3. Các chủ thể tham gia TTCK
TTCK hoạt động được là nhờ hoạt động của các chủ thể tham gia TTCK. Toàn
bộ thao tác hàng ngày của các chủ thể này làm cho thị trường vận động hoàn hảo.
Tuy khác nhau về tính chất, mục tiêu và cách làm, hoạt động của họ liên đới và bổ
sung chặt chẽ cho nhau, mỗi chủ thể đều đóng vai trò của mình và tập thể sẽ đều
vững mạnh và nhờ thế tài sản tài chính từ sở hữu của người này sang sở hữu của
người khác một cách hợp lý và hài hòa để nền kinh tế hoạt động với những giá trị
mới được tạo ra từng giờ mỗi ngày.
Trên TTCK có 4 nhóm tác nhân sau đây:
3.1. Chủ thể phát hành hay chủ thể đi vay.
Những người huy động vốn bằng cách phát hành và bán các CK trên thị
trường sơ cấp. Chủ thể này bao gồm: Chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ chức
tài chính, các doanh nghiệp và các CtyCP. Trong số đó chủ yếu là chính phủ và các
CtyCP.
3.1.1. Chính phủ và các cơ quan chính phủ.
Các khoản chi tiêu của chính phủ đều được lấy từ ngân sách (chủ yếu là thuế).
Nếu chỉ dựa vào nguồn ngân sách thì không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu
tư, vì vậy chính phủ phải huy động vốn thông qua việc phát hành TP chính phủ.
Chính phủ thường giao cho Bộ Tài chính (hoặc Bộ Ngân khố, hoặc kho bạc nhà

nước) phát hành TP chính phủ. Các lọai TP trung và dài hạn trở thành nguồn cung
cấp CK trên TTCK. Ngoài ra, nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung
Ương (NHTƯ) (theo sự ủy nhiệm của Bộ tài chính) thường phát hành loại TP ngắn
hạn (còn gọi là tín phiếu kho bạc hay hối phiếu kho bạc) để thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở (open market). Khi NHTƯ thấy cần rút bớt khối lượng tiền tệ trong lưu
thông về thì NHTƯ bán tín phiếu ra. Ngược lại, khi cần thiết phải đưa thêm tiền vào
lưu thông thì NHTƯ mua tín phiếu về. Số tín phiếu này thường được giao dịch trên
thị trường tiền tệ.
Sự tham gia của Nhà nước đảm bảo cho thị trường được hoạt động theo đúng
các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của người đầu tư, đảm bảo cho thị
9
trường được hoạt động công bằng, công khai, trật tư, tránh những tiêu cực có thể
xảy ra.
3.1.2. Các doanh nghiệp.
Sau nhà nước, loại chủ thể thứ hai cũng có nhu cầu rất lớn và thường xuyên về
vốn tiền tệ, đó là các doanh nghiệp, bất luận doanh nghiệp đó thuộc loại hình tổ
chức theo mô hình quản lý nào: doanh nghiệp tư nhân, công ty liên doanh hay
CtyCP. Nhưng chỉ có CtyCP mới có liên quan nhiều tới hoạt động phát hành CK
trên thị trường.
Xét về lịch sử, CtyCP mới xuất hiện trong vòng 2 thế kỷ nay, nhưng về lịch sử
nó có tốc độ phát triển thần kỳ. CtyCP (corporation) biến những hoạt động kinh
doanh chỉ có tính chất cá nhân và riêng lẻ trở thành những tổ chức mà trong đó tài
năng, tiền bạc, nhân lực và vốn liếng các loại được quy tụ lại, kết hợp với nhau
hướng về mục đích chung như lợi nhuận phát triển, sản phẩm và phát triển cuộc
sống. CtyCP sản sinh ra CP và gắn chặt với TTCK như hình với bóng. CtyCP là
công ty mà số vốn là sở hữu chung của nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ
phần, do đó vốn tự có của CtyCP. Người mua CP gọi là cổ đông cũng đồng thời là
chủ sở hữu một phần doanh nghiệp tương đương với tỷ lệ vốn góp. Cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty trong giới hạn số vốn của mình nên công
ty còn được gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn. CtyCP tồn tại độc lập với sỡ hữu

chủ, tức là cổ đông (stock holders).
Trên thế giới, có hai hình thức tổ chức CtyCP: 1) CtyCP công cộng (public
company); CtyCP tư nhân (private company). Chỉ có CtyCP công cộng thì mới
được quyền bán cổ phần cho công chúng, thường là cổ phần vô danh có thể chuyển
nhượng tự do và mua bán trên TTCK. CtyCP tư nhân không được phép bán CP cho
công chúng. Các CP do các hội viên công ty nắm giữ và không được phép chuyển
nhượng cho người thứ ba, hoặc chỉ được chuyển nhượng nếu có sự đồng ý của các
giám đốc công ty.
Để đáp ứng nhu cầu về vốn ngoài phát hành CP – một CK vốn, thì CtyCP còn có
thể phát hành TP - một CK nợ.
Các doanh nghiệp tham gia thị trường với tư cách là người tạo ra hàng hóa tại thị
trường sơ cấp và mua bán lại các CK ở thị trường thứ cấp. Doanh nghiệp là CtyCP
có vị trí quan trọng nhất, nó tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn qua việc phát hành
CP để bán lần đầu trên thị trường sơ cấp, nhằm tạo vốn cho công ty mới thành lập,
hoặc phát hành bổ sung để tăng vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của
công ty. CtyCP không chỉ là chủ thể CK mà nó còn là người mua CK do các công ty
phát hành với nhiều mục đích khác nhau như: đầu tư vào CP của công ty khác, mua
bán CK của chính mình hoặc tham gia các hoạt động mang tính tiêu cực như: thủ
tiêu đối thủ cạnh tranh, hoặc khống chế ,thao túng nhằm nắm quyền kiểm soát công
ty… Các doanh nghiệp khác cũng có thể phát hành thêm TP, hoặc cũng có thể là
những chủ thể mua bán CK hoặc tạo ra tính thanh khoản cho những CK của mình.
3.2. Chủ thể đầu tư hay chủ thể cho vay.
Đây là bộ phận những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào TTCK
bằng cách thực sự mua các CK đang được phát hành trên TTCK nhằm hưởng lãi và
10
lợi nhuận. Người đầu tư dù được gọi là đã tham gia vào TTCK cũng không có mặt
và không có quan hệ nào với Sở giao dịch. Các công ty môi giới và kinh doanh CK
sẽ phục vụ cho các nhà đầu tư. Họ đóng vai có khi là người mua, lúc khác lại là bán,
hoặc có vẻ như đồng thời làm chuyện đó cho nhà đầu tư. Hai người đầu tư mua và
bán dù có ngồi sát cạnh nhau cũng cần tuân theo qui định thông qua trung gian môi

giới như vậy để trao đổi tiền và hàng.
Có thể phân chủ thể cho vay thành hai loại:
3.2.1. Nhà đầu tư cá nhân: Là chủ thể quan trọng tham gia TTCK với tư cách là
người mua bán CK. Bộ phận này chính là công chúng, một loại chủ thể có khả
năng cung ứng một khối lượng tiền tệ rất lớn. Nguồn tiết kiệm từ thu nhập của bộ
phận này là nguồn cung cấp rất quan trọng và có xu hướng ngày càng gia tăng cùng
với sự tăng trưởng GDP ở mỗi quốc gia. Công chúng khi có tiền nhàn rỗi tạm thời
họ tham gia mua CK với mục đích đầu tư kiếm lời. Khi có nhu cầu vốn họ đem bán
các CK trên thị trường thứ cấp.
3.2.2. Các tổ chức đầu tư: các quỹ hưu bổng, quỹ tương hỗ, các công ty bảo
hiểm, các ngân hàng thương mại các công ty đầu tư quốc gia, các quỹ tài chính
công, các quỹ bảo hiểm xã hội, các quỹ cứu trợ. Các tổ chức này tham gia TTCK
với tư cách vừa là người mua, vừa là người bán để kiếm lợi nhuận thông qua hình
thức nhận cổ tức, lãi TP hoặc tìm kiếm giá trị thặng dư, hoặc tìm kiếm thanh khoản.
Vai trò của các tổ chức này ở các nước có TTCK phát triển ngày càng to lớn. Các
Ngân hàng thương mại tham gia TTCK với tư cách là người phát hành CP để tạo
nguồn vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung, cũng như phát hành TP để huy
động vốn. Ngân hàng thương mại còn thực hiện các dich vụ trên TTCK như: tư vấn
về phát hành, làm đại lý phát hành để hưởng phí hoa hồng, hoặc bảo lãnh phát hành
toàn bộ để hưởng phí bảo lãnh.
Ngoài ra, NHTM còn thực hiện các dịch vụ khác với tư cách là nhà trung gian
môi giới CK như mua bán CK hộ cho khách hàng để hưởng phí hoa hồng, lưu giữ
CK, nhận và trả cổ tức cho khách hàng, làm dịch vụ thanh toán CK.
3.3.Chủ thể trung gian CK.
Trung gian là đưa đường dẫn lối để hai bên gặp nhau. Những trung gian CK này
làm nhiệm vụ đưa đường dẫn lối để người bán và người mua gặp nhau theo đúng
yêu cầu của cả hai bên bởi vì không phải ai cũng có đầy đủ thông tin để có thể tìm
thấy người mua và người bán hợp nhau. Để làm được công việc này thì những
người trung gian phải có kiến thức rộng, am hiểu tình hình kinh tế chung và rất rành
hoạt động của các công ty. Do vây, các trung gian CK không phải là người môi giới

thông thường, mà giữ vai trò vô cùng chủ động trong việc thương lượng CK, thay
thế thân chủ để cam kết mua bán CK với giá định sẵn do chính trung gian CK lựa
chọn. Trung gian CK, giữ bí mật nghề nghiệp và không được quền tiết lộ danh tính
và các chi tiết liên quan đến nghiệp vụ và tài khoản của khách hàng. Nhà trung gian
CK có thể với tư cách là: nhà trung gian cá nhân (thể nhân), tổ chức trung gian
(pháp nhân) như các công ty CK.
Vai trò chủ yếu của các trung gian CK là: kinh doanh, môi giới và bảo lãnh CK.
TTCK hoạt động hiệu quả một phần là nhờ sự thủ vai tốt của các nhà trung gian
11
CK. Hầu hết các công ty CK đều vừa có hoạt động môi giới vừa có hoạt động kinh
doanh CK.
Kinh doanh CK là nghiệp vụ mua bán CK cho chính mình và tự gánh chịu rủi ro
của các nhà trung gian CK. Với vai trò là người kinh doanh CK các trung gian CK
là một thành viên quan trọng của TTCK, có tác dụng làm cho hoạt động của TTCK
đều đặn, không bị gián đoạn hoạt động và sôi động. Ngoài vai trò kinh doanh CK,
những người thương gia CK còn có nghĩa vụ kiểm soát sự mất cân đối thị trường từ
đó duy trì sự ổn định của trên thị trường.
Môi giới CK là những người đại diện thu xếp giao dịch cho khách hàng và
hưởng hoa hồng. Họ không mua bán CK cho mình, họ chỉ là người kết nối và giúp
thực hiện yêu cầu của người mua, kẻ bán. Chức năng của họ là hòa hợp giữa người
mua và người bán CK, qua đó họ nhận được các khoản hoa hồng môi giới.
Tóm lại sự tham gia của các nhà trung gian CK trên thị trường góp phần đảm
bảo các loại CK được giao dịch trên thị trường là CK thực, giúp cho thị trường hoạt
động lành mạnh, đều đặn, hợp pháp, phát triển và bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư.
3.4. Người chuyên gia (specialist).
Đây là những người luôn cập nhật việc phân tích, định giá cho từng loại CK.
Người chuyên gia đóng vai trò tối hậu tại sàn giao dịch. Họ sắm vai là điểm kết nối
giữa các nhà môi giới với nhau trong việc thực thi các lệnh mua bán cho khách hàng
theo phương thức đấu giá hai chiều tại Sở giao dịch.
3.5. Người tổ chức thị trường.

Là người cung cấp địa điểm và phương tiện để phục vụ cho việc mua bán CK,
đó là SGDCK. Ngoài ra, người tạo lập thị trường còn thực hiện chức năng quản lý,
điều hành các hoạt động diễn ra tại đây bảo đảm cho TTCK hoạt động theo đúng
các qui định của pháp luật để đảm bảo sự minh bạch, công bằng tránh những yếu tố
tiêu cực có thể xảy ra trong giao dịch CK, bảo vệ được lợi ích cho những người đầu
tư – người đó chính là người điều hòa.
Vai trò người điều hòa thuộc về nhà nước. Để thực hiện vai trò này, phải hình
thành một cơ quan quản lý giám sát và điều chỉnh thị trường – cơ quan đó chính là
Hội đồng CK quốc gia (có nước gọi là Ủy ban CK quốc gia). Hội đồng CK quốc gia
(UBCK quốc gia) có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Nghiên cứu, vạch kế hoạch, dự thảo các văn bản pháp luật và các thể lệ chế độ
về tổ chức và hoạt động TTCK để trình cấp có thẩm quyền quyết định ban hành
- Quản lý và giám sát hoạt động của TTCK, đưa ra các giải pháp điều chỉnh hữu
hiệu để đảm bảo thị trường hoạt động tốt; cấp, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép
trong lĩnh vực và phát hành và kinh doanh CK (giấy phép kinh doanh CK của các
công ty CK, giấy phép đăng ký CK tại SGDCK cho các công ty phát hành CK…)
4. Cấu trúc và phân loại cơ bản của TTCK.
Có nhiều tiêu thức để phân loại cấu trúc TTCK
4.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn phân thành: thị trường sơ cấp
và thị trường thứ cấp.
4.1.1. Thị trường sơ cấp (Primary market).
12
Thị trường sơ cấp (TTSC) là nơi các CK được phát hành và phân phối lần đầu
tiên cho các nhà đầu tư. Nguồn vốn chủ yếu của thị trường này là nguồn tiết kiệm
của công chúng cũng như một số tổ chức phi tài chính. Như vậy, thị trường sơ cấp
thực hiện chức năng quan trọng nhất của TTCK, đó là chức năng kinh tế. Mang
nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người cần sử dụng, đưa nguồn tiết kiệm vào công cuộc
đầu tư. TTSC là nơi phát hành lần đầu CK ra công chúng (vì thế các CK này còn
được gọi là CK mới), tạo vốn cho đơn vị phát hành và chỉ tạo ra phương tiện huy
động vốn. Vai trò của TTSC là tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng

vốn đầu tư cho nền kinh tế. TTSC là thị trường phát hành vì nơi đây mua bán các
CK phát hành lần đầu giữa người phát hành (người bán) và người đầu tư ( người
mua). Nhà phát hành là người huy động vốn trên TTSC, gồm chính quyền các cấp,
các công ty và các tổ chức tài chính. Trên TTSC, chính phủ và các công ty thực hiện
huy động vốn thông qua việc phát hành bán CK của mình cho các nhà đầu tư nhằm
mục đích:
- Các cấp chính quyền phát hành TP, công trái… cho các nhu cầu cần thiết khác
nhau.
-Các công ty phát hành CK nhằm tạo lập một doanh nghiệp cổ phần hoặc huy
động thêm vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Bằng cách huy động vốn thông qua
phát hành đại chúng, công ty đã chuyển thể từ dạng sở hữu riêng của một số ít cá
nhân (Privately held company- công ty nội bộ) sang dạng CtyCP đại chúng (Public
coporation).
Chức năng cơ bản của TTSC là kết nối những người tạm thời thừa vốn và những
người thiếu vốn lại với nhau bằng cách tạo một kênh dẫn có hiệu lực và có hiệu quả
để đưa vốn từ người tạm thời thừa vốn tời người tạm thời thiếu vốn. Việc dẫn vốn
từ người tiết kiệm đến người sử dụng là rất quan trọng. Bởi lẽ, những người có
khoản tiết kiệm cũng có được cơ hội đầu tư sinh lời và mặt khác, người vay có được
quyền sử dụng số tiết kiệm của người khác và do đó khắc phục được hiện tượng
tạm thời thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh. Từ đó, cả người cho vay và người đi
vay đều có cơ hội sinh lời. TTSC tạo điều kiện cho hai nhu cầu này gặp nhau. Nếu
không có nó sẽ gặp khó khăn trong việc chuyển vốn từ người không có cơ hội sinh
lời đến người có cơ hội sinh lời và do vậy, cả hai đều không khá lên được.
4.1.2 Thị trường thứ cấp (TTTC) (Secondary market) : còn được gọi là thị
trường cấp hai, là nơi giao dịch mua bán các CK đã được phát hành trên TTSC và là
một bộ phận quan trọng của TTCK, gắn bó chặt chẽ với TTSC. Những loại CK giao
dịch ở đây có thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau. Vì
vậy, trong thực tế, TTTC còn được gọi là thị trường luân chuyển CK, là nơi chủ yếu
tạo điều kiện trao đổi CK “cũ”, mà sở hữu chủ của chúng lúc này là nhà đầu tư chứ
không phải công ty phát hành, càng không phải là của SGDCK.

TTTC thực hiện vai trò điều hòa lưu thông các nguồn vốn đảm bảo chuyển hóa
càng nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn, để đưa vào đầu tư phát triển kinh tế. Nhờ
có TTTC, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể yên tâm đầu tư vào CK vì
khi cần tiền họ có thể bán lại CK của mình cho các nhà đầu tư khác trên TTCK.
TTTC thực hiện các chức năng:
13
-Tạo dễ dàng để bán các công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, lấy ngân quỹ, tức
là tạo ra cho các công cụ tài chính tăng cao tính thanh khoản.
-Kiếm lời từ việc nắm giữ CK.
-Xác định giá CK hợp lí trên cơ sở đấu giá tự do (cạnh tranh hoàn hảo). Những
người đầu tư CK định đoạt về giá với nhau để mua bán cái “quyền làm chủ” (CP)
một phần một CtyCP. TTTC giúp họ dễ dàng thực hiện các vòng quay vốn (quy
nhanh ra tiền lúc cần quyết định hay khi đổi ý) mà không cần dính sâu vào doanh
nghiệp.
-Giá hợp lý trên TTTC ảnh hưởng đến giá phát hành CK trên TTSC, xác định
giá của mỗi CK mà công ty phát hành bán ở TTSC.
TTTC có thể được tổ chức theo hai cách:
-Tổ chức ra các sở giao dịch, tức là những trung tâm giao dịch có tổ chức hay thị
trường giao dịch trên sàn. Hoạt động của SGDCK có thể rất nhộn nhịp, nhưng số
người tham gia vào quá trình đó được xem là cố định. Người đầu tư CK dù được
gọi là đã tham gia vào TTCK cũng không có mặt và không có quan hệ nào với Sở
giao dịch. Và dù Sở giao dịch là nơi rất tập trung, nó cũng chỉ giữ nhiệm vụ là một
khâu trong TTCK.
-Có một thị trường trao tay hay còn gọi là thì trường thương lượng, hay thị
trường giao dịch không qua quầy (over the counter market) theo kiểu mua bán thẳng
cho bất kỳ ai chấp nhận giá mà người bán đặt ra, nó có tính cạnh tranh cao. Các thị
trường OTC, SGDCK là các dạng của TTTC.
TTTC là nơi các nhà đầu tư mua bán các CK đã được phát hành với hy vọng
kiếm lời từ việc nắm giữ CK. TTTC là thị trường cạnh tranh tự do, các nhà đầu tư
và các công ty môi giới, kinh doanh CK được tự do tham gia vào thị trường. Giao

dịch trên TTTC phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá CK trên TTTC do quan
hệ cung cầu quyết định. Các nhà đầu tư có thể mua và bán CK nhiều lần trên TTTC.
TTTC là thị trường hoạt động liên tục, là nơi các đầu tư kinh doanh CK mua đi
bán lại các loại CK đã được phát hành hay còn gọi là “CK cũ”, lúc này CK trở thành
mặt hàng kinh doanh, một sản phẩm đặc biệt. TTTC là hoạt động mua bán các CP,
TP… đến tay thứ hai mà không làm tăng thêm quy mô đầu tư vốn, không thu hút
thêm được các nguồn tài chính mới nhưng làm cho hàng hóa của thị trường được
liên tục lưu hành từ tay cá nhân này qua chủ thể khác mỗi giờ mỗi phút trong ngày.
* Sự khác nhau cơ bản của TTSC và TTTC: Ở trên TTSC nhằm thu hút vốn đầu
tư của các đơn vị phát hành, còn việc gịao dịch ở TTTC không góp phần làm tăng
thêm một đồng vốn huy động nào, mà chỉ mua bán CK đã phát hành ở TTSC mà
thôi.
Tuy có sự khác nhau như vậy nhưng giữa hai thị trường này có mối quan hệ rất
mật thiết với nhau. Quan hệ này là quan hệ nội tại, trong đó TTSC là cơ sở, là tiền
đề; TTTC là động lực. TTSC và TTTC được ví như hai bánh xe của một chiếc xe
hai bánh, trong đó TTSC là bánh sau, TTTC là bánh trước. Nếu không có TTSC thì
chẳng có CK để lưu thông trên TTTC, và ngược lại nếu không có TTTC thì TTSC
khó hoạt động trôi chảy. Phân biệt TTTC và TTSC chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết
14

×