BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
PHÙNG THỊ NGỌC
THÀNH PHẦN LOÀI VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ
CỦA ỐC (Gastropoda) Ở CẠN KHU VỰC XÃ CÒ NÒI,
HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
PHÙNG THỊ NGỌC
THÀNH PHẦN LOÀI VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ
CỦA ỐC (Gastropoda) Ở CẠN KHU VỰC XÃ CÒ NÒI,
HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
Chuyên ngành: TN2
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. PHẠM VĂN NHÃ
SƠN LA, NĂM 2014
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của các
giảng viên, Ban Chủ nhiệm khoa Sinh – Hóa, cán bộ trong Bộ môn Động vật –
Sinh thái và các Phòng, Ban, Trung tâm thư viện đã quan tâm giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khóa luận.
Em gửi lời cảm ơn đến UBND xã Cò Nòi, nhân dân các bản Nà Cang, Mu
Kít, Nhạp, Lếch, tiểu khu 3 – 2, tiểu khu Quyết Thắng đã cung cấp các tư liệu,
thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, đây là những cơ sở quan trọng
cho sự đánh giá và phân tích của đề tài.
Em bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Phạm Văn Nhã, ThS. Đỗ Đức Sáng,
những người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và định hướng các nội dung nghiên
cứu đề tài.
Em xin cảm ơn chân thành tới những người thân trong gia đình, các bạn
sinh viên K51 ĐHSP Sinh – Hóa và các nhóm sinh viên thực hiện các đề tài về
hướng ốc cạn đã quan tâm, giúp đỡ em trong quá trình triển khai các nội dung
nghiên cứu.
Sơn La, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Phùng Thị Ngọc
MỤC LỤC
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 3
3. Nội dung và nhiệm vụ của đề tài 3
4. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 3
5. Khái quát tình hình nghiên cứu ốc cạn 4
6. Khái quát điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội khu vực nghiên cứu 7
7. Phương tiện và phương pháp nghiên cứu 10
7.1. Phương tiện nghiên cứu 10
7.2. Phương pháp nghiên cứu 10
8. Một số thuật ngữ dùng trong mô tả 12
9. Ý nghĩa khoa học của đề tài 13
PHẦN 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1. THÀNH PHẦN LOÀI ỐC CẠN Ở KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1. Thành phần loài ốc cạn ở khu vực nghiên cứu 14
2. Một số nhận xét về khu hệ ốc cạn ở khu vực nghiên cứu 35
3. So sánh thành phần loài ốc cạn ở khu vực nghiên cứu với một số khu vực
khác 38
CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ THEO SINH CẢNH CỦA CÁC
LOÀI ỐC CẠN Ở KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1. Các sinh cảnh ở khu vực nghiên cứu 40
2. Đặc điểm phân bố của ốc cạn theo sinh cảnh 41
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận 44
2. Kiến nghị 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Thời gian và nội dung thực hiện 4
Bảng 2. Tổng hợp số loài ốc cạn ở Việt Nam đã thống kê được 6
Bảng 4. Cấu trúc thành phần loài ốc cạn giữa các phân lớp ở KVNC 38
Bảng 5. So sánh thành phần loài ốc cạn ở xã Cò Nòi với các KVNC khác 38
Bảng 6. Chỉ số tương đồng về đa dạng thành phần loài giữa KVNC với các
KVNC khác 39
Bảng 7. Độ phong phú và số lượng cá thể, loài, giống, họ, ốc cạn theo sinh cảnh
ở KVNC 41
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1. Sơ đồ khu vực nghiên cứu và vị trí các điểm thu mẫu 8
Hình 2. Hình thái ngoài của ốc cạn 13
Hình 3. Tỷ lệ phần trăm về số họ trong các bộ ốc cạn ở KVNC 36
Hình 4. Tỷ lệ phần trăm số cá thể trong các họ ốc cạn ở KVNC 37
Hình 5. Phần trăm số cá thể ở các sinh cảnh trong KVNC 41
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sơn La là một trong 6 tỉnh của vùng Tây Bắc có độ che phủ rừng khá lớn
khoảng 40%, trong đó rừng tự nhiên còn khoảng 439.592 ha [30, 31]. Về mặt
địa lý, rừng tự nhiên trên núi đất thấp của Sơn La là phần tiếp nối kéo dài của
dãy Hoàng Liên Sơn nhưng lại bị chia cắt bởi hai nhánh sông: sông Đà ở phía
Bắc và sông Mã ở phía Nam. Vì vậy mà hệ động – thực vật nơi đây rất đa dạng
và phong phú, động vật Thân mềm cũng không phải là ngoại lệ. Ngành Thân
mềm (Mollusca) là một trong những ngành lớn của giới động vật, có hơn 92
nghìn loài hiện hữu [32]. Trong đó lớp Chân bụng (Gastropoda) có mức độ đa
dạng cao nhất, khoảng 80% trong số các loài mollusca đã được biết đến là động
vật Chân bụng [33], đây là lớp duy nhất trong ngành có đại diện sống ở cả môi
trường nước và cạn, chỉ sau lớp Côn trùng về số lượng tổng thể [33].
Hiện nay xã Cò Nòi đang có bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế - văn hóa
- xã hội, sự phát triển này kéo theo các hoạt động sản xuất của con người diễn ra
mạnh, rác và chất thải ngày càng nhiều, ô nhiễm môi trường trở thành vấn đề
nghiêm trọng. Điều này có thể làm suy giảm sự đa dạng sinh học ở nơi đây. Vì
vậy, nhiều loài đã và đang mất đi trong khi chúng chưa được biết đến, trong đó
có thể có loài ốc cạn. Ốc cạn là nhóm động vật Chân bụng có số lượng lớn phân
bố ở các sinh cảnh trên cạn, cả vùng núi và đồng bằng như: trong hang động,
trên mặt đất và trên thảm thực vật. Do đó ốc cạn không chỉ là mắt xích quan
trọng trong chuỗi thức ăn, mà chúng còn có vai trò trong sản xuất nông nghiệp là
góp phần cải tạo đất trồng, tăng độ màu mỡ của đất, từ đó tăng năng suất và chất
lượng nông sản. Ngoài ra một số loài còn là dược liệu quý, làm thực phẩm [1].
Bởi vậy, ốc cạn đang bị nhân dân địa phương khai thác, dẫn đến số lượng và sự
đa dạng về thành phần loài bị giảm sút nghiêm trọng .
Bên cạnh những lợi ích mà chúng mang lại, nhiều loài cũng là sinh vật gây
hại đối với sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và là vật trung gian truyền bệnh
cho người và gia súc.
2
Các kết quả điều tra thống kê cho thấy ở Việt Nam đến năm 2008 đã phát
hiện 776 loài ốc cạn thuộc 2 phân lớp: ốc Mang trước (Prosobranchia) và ốc
Có phổi (Pulmonata) [12]. Với thành phần loài ốc cạn đã biết, hầu như chỉ
thu thập được ở một số vùng núi phía Bắc, một phần vùng núi phía Nam Bộ
và Trung Bộ và một số đảo [12]. Như vậy, có thể thấy rằng: cho tới nay ốc
cạn ở Việt Nam còn chưa được khảo sát đầy đủ ở các vùng cảnh quan tiêu
biểu trên lãnh thổ Việt Nam, do vậy số lượng và thành phần các loài ốc cạn ở
Việt Nam còn lớn hơn rất nhiều.
Trong những năm trở lại đây đã có một số công trình nghiên cứu về ốc cạn
[12], tuy nhiên việc nghiên cứu chỉ mới tập trung ở một số Vườn quốc gia hoặc
các Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN). Trong khi đó ở các khu vực địa
phương việc thống kê và xác định thành phần loài ốc cạn là rất cần thiết để
xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế bền vững với môi trường và sinh
thái. Hơn nữa việc nghiên cứu thành phần loài ốc ở cạn tại khu vực nghiên
cứu giúp đánh giá được độ đa dạng và phong phú của các loài ốc cạn tại địa
bàn xã Cò Nòi, đồng thời mở ra một hướng mới trong việc nghiên cứu và bảo
vệ đa dạng sinh học các loài ốc cạn nói riêng và động vật không xương sống
nói chung. Cho đến nay vẫn chưa ghi nhận công trình nghiên cứu nào về ốc
cạn ở khu vực nghiên cứu (KVNC).
Cò Nòi là nơi có điều kiện khí hậu và địa hình thuận lợi tạo môi trường
sống thích hợp cho các loài ốc cạn. Tuy nhiên hiện nay khu vực này đang chịu
tác động mạnh bởi cộng đồng dân cư địa phương như chặt phá rừng, đốt rừng
làm nương rẫy, xây dựng các khu dân cư mới và khai thác các loài có giá trị
kinh tế cao, sử dụng các thuốc trừ sâu hóa học, thuốc bảo vệ thực vật… vì vậy,
cần thiết phải tiến hành nghiên cứu sâu và toàn diện để có những dẫn liệu khoa
học đầy đủ về ốc cạn ở Cò Nòi, nhằm đề xuất được các giải pháp hữu hiệu trong
việc bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên động vật nơi đây.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thành
phần loài và đặc điểm phân bố của ốc (Gastropoda) ở cạn khu vực xã Cò Nòi,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La’’.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu:
- Xác định thành phần loài ốc cạn ở KVNC.
- Đặc điểm phân bố theo sinh cảnh của các loài ốc cạn ở KVNC.
3. Nội dung và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Nội dung nghiên cứu
Để thực hiện hai mục tiêu trên, đề tài tiến hành triển khai những nội
dung sau:
- Nghiên cứu thành phần loài ốc cạn ở KVNC.
- Nghiên cứu đặc điểm phân bố theo sinh cảnh của các loài ốc cạn ở
KVNC.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập và nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài.
- Tiến hành thu nguồn mẫu ngoài thực địa.
- Điều tra, phỏng vấn nhân dân địa phương về điều kiện tự nhiên, sinh
cảnh, thảm thực vật và địa điểm thu mẫu.
- Xử lý số liệu, thống kê mẫu.
- Phân tích và định loại mẫu vật trong phòng thí nghiệm.
+ Lập danh sách các loài ốc cạn ở KVNC.
+ Đánh giá độ đa dạng thành phần các loài ốc cạn ở KVNC.
+ Mô tả đặc điểm hình thái ngoài của các loài ốc cạn ở KVNC.
+ So sánh sự đa dạng về thành phần loài ở KVNC với khu vực khác lân cận.
4. Đối tƣợng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Đề tài tập chung nghiên cứu các loài ốc cạn (Gastropoda) ở khu vực xã Cò
Nòi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Các sinh cảnh tập trung nghiên cứu như sinh cảnh
rừng trên núi đá vôi, đất trồng trên nền rừng, hang đá vôi.
- Đề tài được thực hiện từ tháng 10/2013 đến 5/2014, thực hiện các nội
dung công việc như sau:
4
Bảng 1. Thời gian và nội dung thực hiện
Thời gian
Nội dung thực hiện
10/2013
- Xây dựng đề cương.
- Thu thập nguồn tài liệu liên quan đến đề tài.
- Tiến hành khảo sát thực địa và thu mẫu tại bản Nà Cang và bản Nhạp.
11/2013
- Tiến hành các tuyến thu mẫu tại bản Mu Kít, bản Lếch, tiểu khu 3 – 2, tiểu
khu Quyết Thắng.
- Xử lý, thống kê và phân tích mẫu.
12/2013
- Phân tích và định loại mẫu vật trong phòng thí nghiệm.
1/2014
- Tiếp tục phân tích và định loại mẫu vật trong phòng thí nghiệm.
- Tiến hành mô tả các đặc điểm chẩn loại của ốc cạn.
2 – 3/2014
- Xử lý số liệu thống kê.
4/2014
- Thống kê thành phần loài.
- So sánh sự đa dạng về thành phần loài với khu vực khác.
5/2014
- Viết và bảo vệ đề tài.
5. Khái quát tình hình nghiên cứu ốc cạn
5.1. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam nói chung, cùng với ốc nước ngọt, ốc cạn cũng đã được điều
tra nghiên cứu từ giữa thế kỉ XIX. Theo tài liệu đã biết (H. Fischer et Ph.
Dautzenberg, 1891), các dẫn liệu đầu tiên về ốc cạn ở Việt Nam đã có trong các
công trình khảo sát về ốc cạn vùng Đông Dương của Souleyet trong thời gian từ
1841 – 1842, trong đó đã ghi nhận một số loài ốc cạn ở miền Trung Việt Nam
(Annam) tìm thấy ở tourane (Đà Nẵng) như Streptaxis aberratus Souleyet, S.
deflexus Souleyet, Eulota touranenis Souleyet [12]
Cũng trong khoảng thời gian này (1848 - 1877) còn có những dẫn liệu về
ốc cạn vùng Nam Bộ (Cochinchine) và Trung Bộ (Annam). Có thể kể đến những
công trình khảo sát và công bố rất cơ bản về ốc cạn vùng phía Nam của những
tác giả như: Crosse và Fischer (1863, 1864, 1869); Mabille và Mesle (1866);
Crosses (1867, 1868). Trong giai đoạn này, những dẫn liệu về ốc cạn ở khu vực
phía Bắc Việt Nam còn rất ít, chỉ có một số loài như: Camaena illustris trong
công trình nghiên cứu ở Lạng Sơn của Pfeiffer, Alycaeus anceyi tìm thấy ở đảo
Kebao, Quảng Ninh, ghi trong công trình của Souleyet. Các công trình nghiên
5
cứu về ốc cạn ở vùng phía Bắc Việt Nam chỉ xuất hiện nhiều trong nửa sau thế
kỉ XIX. Có thể kể đến những công trình quan trọng của những chuyên gia được
biết đến nhiều như: Morlet (1886, 1891, 1892); Dautzenberg et Hamonville (1887);
Ancey (1888); Dautzenberg (1893); Bavay et Dautzenberg (1899, 1900, 1901,
1903) [14, 15, 16, 17]; Möllendroff (1901); Dautzenberg et Fischer (1848) [19].
Trong thời gian nửa đầu thế kỷ XX, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh thế
giới và chiến tranh Việt Nam, việc nghiên cứu ốc cạn cũng như các nhóm ốc
khác ở Việt Nam và Đông Dương nói chung hầu như bị ngừng lại, ngoại trừ một
số ít công trình khảo sát kết hợp với địa chất ở các đảo Hoàng Sa (Paracels) và
Bạch Long Vĩ (Saurin, 1955, 1960) và một số điểm khác ở Bắc Bộ (S. Jaeckel,
1950; Varga, 1963) [27]. Phải tới sau chiến tranh Việt Nam, cùng với các nhóm
động vật khác, ốc cạn mới tiếp tục được chú ý nghiên cứu, tuy muộn hơn, bắt
đầu bằng một số công trình khảo sát đầu tiên về thành phần và phân bố ốc cạn ở
một số khu vực phía Bắc Việt Nam như Pu Luông, Cúc Phương, Phủ Lý, Hạ
Long, Cát Bà, Cẩm Phả của một số chuyên gia nước ngoài (Vermeulen và
Maassen, 2003) [28] trong chương trình khoa học quốc tế FFI. Năm 2006, Wim
J. M. Maassen công bố 4 loài ốc mới (Arinia angduensis, Arinia loumboensis,
Eotrobilops infrequens, Hemiplecta esculenta) [24]. Năm 2007, W. J. M.
Maassen và E. Gittenberger đã công bố 3 loài ốc cạn mới (Leotacme cuongi,
Oospira duci, Atraophaedusa smithi) thuộc họ Clausiliidae ở phía Bắc Việt
Nam [25].
Ngoài các tác giả nước ngoài nghiên cứu về ốc cạn, năm 2005, các tác giả
Nguyễn Xuân Đồng, Nguyễn Quý Tuấn, Hoàng Đức Đạt đề cập đến 2 loài ốc
núi: Cyclophorus anmiticus, Cyclophorus martesianus đang được dùng làm thực
phẩm ở núi Bà Đen, Tây Ninh [3]. Năm 2012, Đỗ Văn Nhượng và cộng sự đã
bước đầu cung cấp dẫn liệu ốc cạn tại khu vực Tam Đảo, Vĩnh Phúc (29 loài)
[10]; xóm Dù thuộc vườn Quốc gia Xuân Sơn, Phú Thọ (44 loài) [8]; núi đá vôi
Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội (23 loài) [7]; núi Voi, An Lão, Hải Phòng (36 loài)
[6]; thôn Rẫy, Hữu Lũng, Lạng Sơn (46 loài), trong đó có bổ sung 58 loài mới
cho khu hệ ốc cạn Việt Nam. Trong thời gian này, các khóa luận, luận văn cũng
6
bước đầu nghiên cứu về ốc cạn. Năm 2012, Đỗ Văn Nhượng, Đinh Phương
Dung đã xác định 50 loài và đặc điểm phân bố của ốc cạn ở khu vực Tây Trang,
Điện Biên [2]; trong đó có 35 loài mới chỉ gặp ở Tây Trang mà chưa gặp ở nơi
khác tại Việt Nam. Ngay sau đó, Nguyễn Thị Ngọc Anh cung cấp 48 loài ốc
cạn, trong đó có 36 loài chưa gặp ở nơi nào khác tại Việt Nam ở khu vực núi
Hàm Rồng, Thanh Hóa. Năm 2011, Nguyễn Thị Nhàn trong nghiên cứu về
thành phần loài và đặc điểm phân bố của ốc cạn ở Thúc Thủy, An Khang, thị xã
Tuyên Quang, đã xác định 58 loài, thuộc 18 họ.
Theo đánh giá của Đặng Ngọc Thanh (2008), ở Việt Nam các tác giả đã
phát hiện được 776 loài ốc cạn [12]. Theo công bố mới nhất (5/2011), bộ
Stylommatophora trong phân lớp Pulmonata gồm 477 loài và phân loài (96
giống, 20 họ). Từ tình hình nghiên cứu trên cho thấy, nhóm ốc cạn ở Việt Nam
hiện nay chưa được nghiên cứu đầy đủ về các vấn đề cơ bản: thành phần loài,
đặc điểm phân bố, sinh học và sinh thái cũng như các vấn đề nghiên cứu về ứng
dụng. Vì vậy cần tăng cường nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay.
Thành phần loài ốc ở cạn ở Việt Nam đã biết hiện nay bao gồm các loài ốc
cạn đã thống kê được trong 3 giai đoạn tính từ đầu thế kỷ XIX cho tới năm
2008:
Bảng 2. Tổng hợp số loài ốc cạn ở Việt Nam đã thống kê được
Giai đoạn
công bố
Số loài đã
công bố
Số loài
bổ sung
Nguồn số liệu
1840 –1900
448
448
Fischer et Dautzenberg, 1904 [12]
1901 –1975
103
82
Gude, 1909; Jaeckel, 1950; Saurin, 1955,
1960; Szekerles, 1969; Varga, 1963 [12]
Sau 1975
259
246
Vermeulen et Maassen, 2003 [12]
Tổng số
810
776
5.2. Ở Sơn La
Dẫn liệu về ốc cạn ở khu vực Tây Bắc, trong đó có tỉnh Sơn La được đề cập
đến trong một số ít công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như: Morlet
(1886, 1891, 1892), Dautzenberg và Hamonville (1887), Mabille (1887),
Dautzenberg (1893), Bavay và Dautzenberg (1899, 1900, 1901, 1903, 1908) [14,
7
15, 16, 17, 18], một số địa điểm được nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Sơn La như: Gia
Phù (Phù Yên), Nhà tù Sơn La, phường Quyết Tâm (thành phố Sơn La), hang
Thẳm Bó (xã Mường Bú, huyện Mường La), Khu bảo tồn thiên nhiên Copia [5,
9,11].
Như vậy, cho đến nay việc nghiên cứu ốc cạn ở tỉnh Sơn La còn rất hạn
chế. Nội dung nghiên cứu chủ yếu là xác định và thống kê thành phần loài. Vì
vậy việc nghiên cứu ốc cạn ở Sơn La là việc làm cần thiết, nhằm tìm hiểu thành
phần loài, đặc điểm sinh học và đặc điểm phân bố của chúng, từ đó làm cơ sở
cho các nghiên cứu ứng dụng khác. Từ trước đến nay chưa ghi nhận một công
trình nghiên cứu nào về ốc cạn ở xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
6. Khái quát điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội khu vực nghiên cứu
Vị trí địa lý
Xã Cò Nòi có diện tích 94,35 km
2
, cách trung tâm huyện Mai Sơn khoảng
10 km về phía Đông. Phía Bắc giáp xã Nà Bó và xã Tà Hộc, phía Nam giáp xã
Yên Sơn, huyện Yên Châu, phía Đông giáp xã Chiềng Đông và xã Chiềng Sàng
huyện Yên Châu, phía Tây giáp xã Hát Lót và xã Chiềng Lương [13]. Tọa độ địa
lý: 20
0
52'30" – 21
0
20'50" vĩ độ Bắc và 103
0
41'30" – 104
0
16' kinh độ Đông [13].
Địa hình
Cò Nòi là một xã nằm trong khu vực vùng núi đặc trưng của Tây Bắc, địa
hình bị chia cắt phức tạp tạo thành các núi đá vôi có độ cao trung bình 300 –
1000 m nằm xen kẽ với các núi đất. Núi đá vôi đặc trưng theo kiểu địa hình xâm
thực – tích tụ [4], địa hình bị chia cắt sâu và mạnh, có nhiều kẽ đá, khe đá lớn
nhỏ khác nhau chứa nhiều đất có độ ẩm cao là môi trường thuận lợi cho nhiều
loài ốc cạn sinh sống. Cò Nòi cũng thuộc cao nguyên Sơn La, có nhiều diện tích
tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho canh tác như trồng ngô, đậu đất chủ yếu
là đất cát pha [13]. Địa hình bị chia cắt phức tạp như vậy tạo nên nhiều tiểu vùng
khí hậu, từ đó ảnh hưởng đến điều kiện tự nhiên như nhiệt độ, độ ẩm và nhiều
sinh cảnh ở các vùng trong khu vực nghiên cứu cũng khác nhau. Điều này tạo
nên các môi trường sống đa dạng cho các loài động vật. Trong đó có ốc cạn.
8
Hình 1. Sơ đồ khu vực nghiên cứu và vị trí các điểm thu mẫu
(Ghi chú: ● – Đất trồng trên nền rừng; ■ – Rừng trên núi đá vôi; ▲ – Hang đá
vôi; vẽ theo bản đồ hành chính xã Cò Nòi, 2011)
Khí hậu
Khí hậu Cò Nòi có đặc điểm chung của vùng Tây Bắc, mang tính chất nhiệt
đới gió mùa, chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, mùa đông khô
lạnh, ít mưa [13]. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9. Lượng mưa tập trung nhiều
nhất vào tháng 7, 8, 9. Lượng mưa bình quân 1299 mm/năm, chiếm 80% lượng
mưa cả năm. Do nhiều nơi có địa hình nghiêng dốc, nên vào các tháng này
thường có lụt ở những nơi gần suối, đất bị rửa trôi mạnh. Nhiệt độ trung bình
năm khoảng 26 – 32
0
C. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
Giống như các vùng khác Cò Nòi cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và
gió tây khô nóng [4], đo đó độ ẩm trung bình năm cũng giảm.
Với ốc cạn là nhóm động vật đòi hỏi ở những nơi có độ ẩm cao, thảm thực
vật dày, vì vậy những điều kiện về khí hậu có ảnh hưởng rõ rệt đến nhóm động
vật này.
9
Thủy văn
Trên địa bàn xã Cò Nòi không có các con sông lớn mà chỉ có các con suối
nhỏ, phân bố rải rác, trong đó 4 con suối chính là: suối Huồi Pút, Huồi Púng,
Nậm Pàn và suối Huồi Phách [13]. Các suối cũng tuân theo hai mùa, mùa mưa
lượng nước nhiều, dòng chảy khá mạnh. Mùa khô lượng nước rất ít.
Sinh vật
Về thực vật: phần lớn diện tích rừng thứ sinh của xã Cò Nòi đã bị tác động
mạnh. Tuy nhiên trên địa bàn vẫn còn nhiều diện tích rừng được bảo vệ tương
đối tốt, đây là nơi lưu giữ nguồn gen của động vật và thực vật. Diện tích rừng
tập chung nhiều ở phía Đông và Tây Nam, một ít ở phía Tây Bắc của xã Cò Nòi.
Phần còn lại của xã diện tích rừng ít hoặc bị tàn phá và trở nên nghèo kiệt. Điều
này làm thay đổi nhiều yếu tố về tự nhiên của khu vực như độ che phủ giảm và
độ ẩm không cao, gây bất lợi cho nhóm ốc cạn là nhóm cần độ ẩm cao.
Về động vật: hệ động vật của xã hầu như không còn các loài thú lớn, các
nhóm gặp nhiều có chuột, gặm nhấm, dơi, thú ăn sâu bọ… các loài chim chủ yếu
là các nhóm chim làm tổ. Lưỡng cư, bò sát và một số ngành động vật không
xương sống, chúng phân bố chủ yếu ở ven rừng, ao, hồ, sông, suối… [13].
Dân số: theo thống kê năm 2011, dân số ở xã Cò Nòi là 17339 người với 3
dân tộc chính trong đó dân tộc Kinh chiếm 48,8%, dân tộc Thái chiếm 45,1% và
dân tộc Hmông chiếm 6,1%. Mật độ dân số đạt 145 người/km² [13]. Dân tộc
Thái và Hmông ở xã Cò Nòi có nhiều tập quán canh tác lâu đời trên sườn đồi,
sườn dốc những nơi gần nguồn nước, vì vậy có ảnh hưởng rất lớn đến các loài ốc
cạn như làm cho môi trường sống bị thu hẹp, là nguồn thức ăn cho người dân, chịu
tác động mạnh bởi các chất hóa học mà người dân sử dụng trong nông nghiệp.
Kinh tế
Các hộ dân ở xã Cò Nòi sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp.
Thu nhập bình quân đầu người đạt 12 triệu đồng/người/năm [13]. Người dân có
đời sống cao sống tập chung chủ yếu ở dọc trục đường quốc lộ 6, phần lớn các
bản nằm ở xa trung tâm xã còn hạn chế về kinh tế vì vậy mà các nhóm động vật
10
trong môi trường tự nhiên cũng là nguồn cung cấp thực phẩm có giá trị và dễ
kiếm với người dân và ốc cạn cũng không nằm ngoại lệ.
Qua phân tích cho thấy điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội ở khu vực
nghiên cứu có ảnh hưởng rất lớn đến sự đa dạng và phân bố của nhóm ốc cạn.
7. Phƣơng tiện và phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phƣơng tiện nghiên cứu
- Dụng cụ và thiết bị dùng trong quá trình thu mẫu, định loại và phân tích
gồm: máy ảnh, giấy can, túi nilon, lọ đựng mẫu, bút, sổ, găng tay, khay mổ,
thước palme, kẹp, panh nhỏ, kính lúp cầm tay.
- Hóa chất: foocmon và ethanol.
7.2. Phƣơng Pháp nghiên cứu
a. Phƣơng pháp thu mẫu
Ốc cạn được thu theo tuyến với phạm vi rộng. Bằng việc lập các tuyến
khảo sát gồm nhiều sinh cảnh khác nhau như: rừng tái sinh, rừng thứ sinh. Dựa
trên địa hình và trục đường giao thông của xã, chia ra các tuyến khảo sát như
sau: + Tuyến 1: bản Nà Cang, bản Nhạp.
+ Tuyến 2: bản Mu Kít.
+ Tuyến 3: tiểu khu 3 – 2, tiểu khu Quyết Thắng.
+ Tuyến 4: bản Lếch.
Thu mẫu trực tiếp bằng tay, cần tránh bỏ sót thành phần loài, thu các loại
mẫu với mọi kích thước, từ con non đến con trưởng thành, thu cả mẫu sống và
mẫu chết chỉ còn lại vỏ. Với những loài phổ biến và có số lượng cá thể lớn thì
cần thu với số lượng phù hợp.
b. Phƣơng pháp quan sát, ghi chép, chụp ảnh
Quan sát bằng mắt thường nơi phân bố của ốc cạn như: trên cây hay mặt
đất, vách đá, dưới thảm lá mục, trong hang, khe đá, chân núi đá vôi quan sát
các hoạt động kiếm ăn, di chuyển, hình thái ngoài
Ghi chép lại đầy đủ những thông tin về mẫu vật và môi trường sống vào sổ
ghi chép thực địa.
11
Các ảnh chụp về sinh cảnh như thảm thực vật, địa hình tại nơi thu mẫu, về
hoạt động của mẫu đang sống, vị trí tập chung nhiều mẫu. Ảnh thực địa được
lưu lại và có ghi chú về thời gian, địa điểm chụp và được ghi chép đầy đủ vào sổ
nhật kí thực địa.
c. Phƣơng pháp xử lý và bảo quản mẫu
Đối với mẫu là vỏ ốc thì sau khi thu về được rửa sạch, phơi khô và có nhãn
kèm theo (ghi các thông tin như: thời gian, địa điểm, sinh cảnh và người thu);
bảo quản khô trong các túi nilon hoặc lọ đựng mẫu. Mẫu ốc cạn sống được xử lý
qua hai bước: bước 1 ngâm trong nước từ 10 – 12 tiếng để cơ thể ốc chết ở trạng
thái duỗi, bước 2 bảo quản lâu dài trong dung dịch ethanol 70
0
.
d. Phƣơng pháp phân tích mẫu vật
Ốc cạn được tập chung phân tích ở ba nội dung chính: số đo, số đếm và mô
tả. Các số đo gồm: chiều cao (h), chiều rộng (l), chiều dài lỗ miệng (L
0
), chiều
cao tháp ốc (V). Số đếm như: số vòng xoắn, số răng ở lỗ miệng nếu có. Mô tả
hình dạng vỏ, màu sắc, hoa văn, độ trong, độ dày của vỏ, hình dạng lỗ miệng
e. Phƣơng pháp định loại
Đối với các mẫu ốc cạn, định loại tập chung dựa vào đặc điểm hình thái vỏ
(màu sắc, kích thước, tỷ lệ, hình dạng, vòng xoắn ) và đặc điểm giải phẫu (cơ
quan sinh sản, lưỡi bào). Quá trình định loại dựa vào tài liệu chuyên ngành như:
các nguồn tài liệu của Bavay và Dautzenberg (1899, 1900, 1901, 1903, 1908)
[14, 15, 16, 17, 18], Morlet (1886, 1891, 1892), Dautzenberg et Fisher (1904,
1905, 1906, 1908) [20, 21, 22, 23]. Ngoài ra, mẫu được so sánh với sưu tập của
Vermeulen (2003) [28] thu ở Việt Nam, hiện được lưu tại Viên Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật. Sắp xếp các đơn vị theo hệ thống phân loại ốc Có phổi
(Pulmonata) của Schileyko (2011) [27].
Ngoài ra, đề tài còn tiến hành đối chiếu, so sánh và kiểm tra thông tin trên
internet.
f. Phƣơng pháp phân chia sinh cảnh
Theo Vũ Tự Lập, 2012 [4], địa hình là thành phần tạo nên diện mạo của
cảnh quan trên thực địa. Địa hình việt nam là địa hình xâm thực – tích tụ nội chí
12
tuyến gió mùa ẩm có sự cân bằng giữa địa chất – địa hình và thổ nhưỡng – sinh
vật, đây là kiểu địa hình được hình thành do tác động phối hợp giữa các nhân tố
như cấu trúc địa chất – kiến tạo, nhiệt bức xạ mặt trời, nước, gió, sinh vật và kể
cả con người [4]. Do đó nó chi phối mạnh mẽ các thành phần khác của cảnh
quan như: điều kiện nhiệt – ẩm của khí hậu, điều tiết dòng chảy sông ngòi. Thổ
nhưỡng và lớp phủ thực vật với giới động vật cũng phát sinh và phát triển trên
bề mặt địa hình [4]. Địa hình xã Cò Nòi là kiểu địa hình xâm thực – tích tụ có độ
cao trung bình từ 300 – 1000 m, bị chia cắt sâu và mạnh tạo thành các núi đá vôi
xen lẫn đồi núi đất. Khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa mưa và mùa khô rõ rệt,
lượng mưa bình quân 1299 mm/năm.
Năm 2013, Đỗ Đức Sáng và Đỗ Văn Nhượng [11] khi nghiên cứu ốc cạn ở
Khu bảo tồn thiên nhiên Copia, tỉnh Sơn La đã chia thành các sinh cảnh: rừng
trên núi đá vôi, rừng trên đồi đất, rừng thông và đất canh tác.
Như vậy, dựa trên cơ sở phân chia của Vũ Tự Lập (2012) và cách phân chia
của Đỗ Đức Sáng cùng với điều kiện thực tế ở xã Cò Nòi trong quá trình thu
mẫu, chúng tôi chia các địa điểm thu mẫu thành 3 nhóm sinh cảnh: sinh cảnh
rừng trên núi đá vôi, sinh cảnh đất trồng trên nền rừng và hang đá vôi.
8. Một số thuật ngữ dùng trong mô tả
Đỉnh vỏ là điểm khởi đầu của các vòng xoắn, nơi hình thành các vòng xoắn
đầu tiên của vỏ ốc. Đỉnh có thể nhọn, tù
Số vòng xoắn bao gồm các vòng xoắn tính từ đỉnh vỏ tới vòng xoắn cuối
cùng chứa lỗ miệng. Các vòng xoắn có thể thuận chiều hoặc ngược chiều kim
đồng hồ, có thể tròn đều hay phồng lên, có thể nhẵn, có gờ, có màu sắc hay hình
vẽ khác nhau
Miệng vỏ là nơi vỏ ốc thông ra bên ngoài. Ở vùng miệng có thể phân biệt
bờ trục (bờ trong hay bờ dưới) và vành miệng ngoài (bờ ngoài hay bờ trên), có
thể phân biệt góc trên và góc dưới lỗ miệng vỏ gờ vành miệng ngoài có thể
liên tục hay không liên tục. Lỗ miệng có nắp miệng hay không có nắp miệng.
13
Hình 2. Hình thái ngoài của ốc cạn
(Ghi chú: h: chiều cao; l: chiều rộng; L
0
: chiều dài lỗ miệng; l
0
: chiều rộng lỗ
miệng; V = h – L
0
: Chiều cao tháp ốc; nguồn: Đỗ Văn Nhượng, 2010)
Hình dáng vỏ ốc là một ống rỗng dài chứa cơ thể ốc, cuộn vòng quanh một
trục tạo nên các vòng xoắn khởi đầu từ đỉnh vỏ và kết thúc ở lỗ miệng vỏ. Vỏ ốc
cỡ lớn, trung bình hay nhỏ. Hình dáng vỏ ốc có thể là hình cầu, hình trụ, hình
tháp độ dày của vỏ có thể mỏng hay dày, chắc chắn hay không chắc chắn.
Trụ ốc gồm các vòng xoắn chập lại với nhau tạo nên. Trụ ốc có thể rỗng và
mở ra ngoài gần lỗ miệng vỏ tạo thành lỗ rốn. Có khi trụ ốc dày đặc, không tạo
lỗ rốn. Lỗ rốn rộng hay hẹp, nông hay sâu.
9. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp cho khoa học những dẫn liệu về
thành phần loài và đặc điểm phân bố theo sinh cảnh của ốc cạn trên địa bàn xã
Cò Nòi. Những dẫn liệu này góp phần để hoàn thành các chuyên khảo, các tài
liệu tu chỉnh và tiến tới hoàn thành Động vật chí về ốc cạn ở Việt Nam.
- Đây là những dẫn liệu là cơ sở cho các cấp quản lý, chính quyền địa
phương, kiểm lâm có thể tham khảo để định hướng trong việc sử dụng nguồn tài
nguyên ốc cạn.
14
PHẦN 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1. THÀNH PHẦN LOÀI ỐC CẠN Ở KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1. Thành phần loài ốc cạn ở khu vực nghiên cứu
Tổng kết các kết quả nghiên cứu của đề tài về ốc cạn ở xã Cò Nòi đã xác định được 45 loài thuộc 37 giống, 16 họ thể hiện ở
bảng 3 dưới đây.
Bảng 3. Thành phần loài ốc cạn phân bố theo sinh cảnh ở KVNC
TT
Taxon
Sinh cảnh
Số lƣợng
RTNĐV
ĐTTNR
Hang đá vôi
n
n%
n
n%
n
n%
n
n%
PHÂN LỚP MANG TRƯỚC - PROSOBRANCHIA Edwards, 1848
BỘ ARCHITAENIOGLOSSA Haller, 1890
Cylophoridae Gray, 1847
36,12
13,65
18,16
1095
23,34
1.
Alycaeus anceyi (Mabille, 1887)
1
0,05
1
0,02
2.
Cyclophorus diplochius (Möllendonff, 1894)
433
23,17
96
6,52
85
6,30
614
13,09
3.
Cyclophorus siamensis (Sowerby, 1829)
1
0,07
1
0,02
4.
Cyclotus sp.
74
3,96
6
0,41
38
2,82
118
2,51
5.
Chamalycaeus heudei (Bav. et Daut., 1903)
1
0,05
1
0,07
2
0,04
6.
Dioryx pocssi (Vargar, 1972)
8
0,54
14
1,04
22
0,47
7.
Japonia diploma (Möllendonff, 1901)
9
0,48
4
0,27
16
1,19
29
0,62
15
8.
Platyraphe vathelethi (Bav. et Daut., 1903)
29
1,55
29
0,62
9.
Pterocyclos marioni (Ancey, 1898)
20
1,07
30
2,04
17
1,26
67
1,4.3
10.
Pterocyclos berthae (Daut. et Hamonville, 1887)
108
5,78
57
3,87
47
3,48
212
4,52
Diplommatinidae Pfeiffer, 1857
0,05
3,26
75
1,60
11.
Diplommatina rotundata (Saurin, 1953)
1
0,05
48
3,26
26
1,93
75
1,60
BỘ NERITOPSINA Cox et Knight, 1960
Pupinidae Pfeiffer, 1853
3,16
13,72
13,35
441
9,40
12.
Pupina anceyi (Bavay et Daut., 1899)
59
3,16
129
8,76
16
1,19
204
4,35
13.
Pupina exclamationis (Mabille, 1887)
16
1,09
21
1,56
37
0,79
14.
Pseudopomatias fulvus (Möllendonff, 1901)
57
3,87
143
10,60
200
4,26
Hydrocenidae
0,07
1
0,02
15.
Georissa decora (Möllendorff, 1901)
1
0,07
1
0,02
PHÂN LỚP CÓ PHỔI - PULMONATA Cuvier, 1814
BỘ STYLOMATOPHORA Schmidt, 1856
Achatinidae Swainson, 1840
0,16
2,78
44
0,94
16.
Achatina fulica (Bowdich, 1822)
3
0,16
41
2,78
44
0,94
Ariophantidae Godwin-Austen, 1888
17,18
24.71
39,95
1224
26,09
17.
Macrochlamys amboiensis (Martens, 1864)
46
2, 46
22
1,49
135
10,0
203
4,33
18.
Macrochlamys despecta (Mabille, 1887)
103
5,51
18
1,22
92
6,82
213
4,54
19.
Megaustena imperator (Gould, 1858)
58
3,10
53
3,60
105
7,78
216
4,60
16
20.
Microcystina tongkingensis (Möllendonff, 1901)
112
6,0
269
18,26
207
15,34
588
12,53
21.
Hemiplecta sp.
2
0,11
2
0,14
4
0,08
Bradybaenidae Pilsbry, 1939
15,62
7,67
405
8,63
22.
Aegista sp.
1
0,07
1
0,02
23.
Bradybaena jourdyi (Morlet, 1886)
292
15,62
108
7,33
400
8,53
24.
Bradybaena similaris (Ferussac, 1822)
4
0,27
4
0,08
Camaenidae Pilsbry, 1893
1,60
10,86
1,19
206
4,39
25.
Camaena duporti (Bavay et Daut., 1899)
6
0,32
47
3,19
16
1,19
69
1,47
26.
Trachia marimberti (Bav. et Daut., 1900)
24
1,28
113
7,67
137
2,92
Clausiliidae Mörch, 1864
3,91
6,38
6,3
252
5,37
27.
Phaedusa lypra (Mabille 1864)
48
2,57
64
4,34
85
6,3
197
4,20
28.
Phaedusa sp.
11
0,59
30
2,04
41
0,87
29.
Euphaedusa micropaviei (Nordsieck, 2011)
14
0,75
14
0,30
Euconulidae Baker, 1928
1,71
6,11
4,45
182
3,89
30.
Liardetina haiphongensis (Daut., 1893)
32
1,71
90
6,11
60
4,45
182
3,89
Plectopylidae Möllendorff, 1898
10,28
192
4,09
31.
Gudeodiscus giardi (Fischer, 1898)
94
5,03
94
2,00
32.
Sicradiscus cutiscultus (Cutisculptus et Möll., 1882)
98
5,24
98
2,09
Subulinidae Fischer et Crosse, 1877
2,99
4,48
1,26
139
2,96
33.
Allopeas sp.
13
0,70
27
1,83
5
0,37
45
0,95
17
34.
Prosopeas lavilei (Daut. et Fischer, 1908)
21
1,12
21
0,44
35.
Lamellaxis clavulinus (Potier et Machaud, 1838)
7
0,37
39
2,65
10
0,74
56
1,19
36.
Lamellaxis gracilis (Hutton, 1834)
6
0,32
6
0,12
37.
Paropeas sp.
2
0,11
2
0,04
38.
Tortaxis sp.
1
0,053
2
0,15
3
0,06
39.
Subulina octona (Bruguiere, 1792)
6
0,32
6
0,12
Streptaxidae Gray, 1860
0,86
1,49
3,34
83
1,77
40.
Haploptychius diespiter (Mabille, 1887)
13
0,70
22
1,49
45
3,34
80
1,71
41.
Haploptychius fisheri (Morlet, 1886)
3
0,16
3
0,06
Glessulidae Godwin-Austen, 1920
0,16
1,77
1,04
43
0,92
42.
Glessula paviei (Morlet, 1892)
3
0,16
26
1,77
14
1,04
43
0,92
Trochomorphidae Möllendorff, 1890
6,10
2,85
10,97
304
6,48
43.
Videna timorensis (Martens, 1867)
114
6,10
42
2,85
148
10,97
304
6,48
Hypselostomatidae Zilch, 1959
0,10
0,20
5
0,11
44.
Boysidia sp.
3
0,20
3
0,06
45.
Gyliotrachela crossei (Möll.,1901)
2
0,10
2
0,04
Tổng số cá thể
1869
100
1473
100
1349
100
4691
100
Ghi chú: n – số lượng cá thể; n % - phần trăm số cá thể; RTNĐV – rừng trên núi đá vôi; ĐTTNR – đất trồng trên nền rừng.
18
Đối với mỗi loài ốc cạn được ghi nhận ở khu vực nghiên cứu, đề tài trình
bày các nội dung: đặc điểm chẩn loại, phân bố, số lượng cá thể và nhận xét.
HỌ CYCLOPHORIDAE
1. Alycaeus anceyi Mabille, 1887
- Đặc điểm chẩn loại: ốc cỡ nhỏ, dạng xoắn ốc. Vỏ dày, màu trắng đục, bề
mặt có các khía hình cung. Có 4 vòng xoắn phồng, rãnh xoắn nông. Vòng xoắn
cuối phình to, hơi thắt lại trước khi mở rộng tạo thành cổ. Đỉnh ốc nhọn. Miệng
vỏ tròn, vành miệng loe rộng. Lỗ rốn hẹp, sâu.
Kích thước: h = 5,5 mm; l = 6,0 mm; L
0
= 2,3 mm; V = 3,2 mm.
- Phân bố: chỉ gặp ở sinh cảnh rừng trên núi đá vôi tại bản Nà Cang.
- Số lượng cá thể: 1.
2. Cyclophorus diplochius Möllendorff, 1894
- Đặc điểm chẩn loại: ốc cỡ lớn, dạng xoắn ốc. Vỏ dày, bề mặt vỏ có vân
hình cung. Tháp ốc nhọn. Có 5 vòng xoắn phồng, rãnh xoắn sâu, vòng xoắn cuối
tăng trưởng nhanh về kích thước. Miệng vỏ tròn, vành miệng cuộn dày. Lỗ rốn
rộng, sâu. Kích thước: 27,3 – 29,4 mm; l = 35,1 – 36,1 mm; L
0
= 18,1 – 19,8
mm. V = 9,2 – 9,6 mm.
- Phân bố: gặp ở tất cả các địa điểm nghiên cứu.
- Số lượng cá thể: 614.
- Nhận xét: loài này có kích thước tương đối lớn nhưng nhỏ hơn loài
Cyclophorus siamensis, gặp phổ biến ở tất cả các địa điểm nghiên cứu, được
người dân sử dụng làm thức ăn. Chúng hoạt động nhiều vào mùa mưa.
3. Cyclophorus siamensis Sowerby, 1829
- Đặc điểm chẩn loại: ốc cỡ rất lớn, dạng nón. Vỏ dày, màu nâu sẫm. Xoắn
phải, có 5 vòng xoắn, rãnh xoắn nông, vòng xoắn cuối lớn chiếm gần 2/3 chiều
cao vỏ ốc. Miệng vỏ tròn, vành miệng cuộn dày. Lỗ rốn rộng, sâu.
Kích thước: h = 33,0 mm; l = 46,8 mm; L
0
= 26,1 mm; V = 6,9 mm.
- Phân bố: gặp ở hang đá vôi bản Lếch.
- Số lượng cá thể: 1.
19
4. Cyclotus sp.
- Đặc điểm mô tả: ốc cỡ trung bình, dạng cuộn trong. Vỏ mỏng, màu nâu,
có hoa văn trang trí, bề mặt có các khía hình cung rõ. Có 5 vòng xoắn phồng,
rãnh xoắn sâu, vòng xoắn cuối tăng trưởng nhanh chiếm gần bằng chiều cao
tháp ốc. Đỉnh ốc hơi nhô. Miệng vỏ tròn, vành miệng sắc. Không có ngà. Lỗ rốn
rộng và sâu. Kích thước:
h = 5,0 – 7,0 mm; l = 10,3 – 13,8 mm; L
0
= 4,2 – 5,7 mm; V = 0,8 – 1,3 mm.
- Phân bố: gặp ở tất cả các sinh cảnh thuộc khu vực nghiên cứu tại các bản:
Nà Cang, Mu Kít, Lếch.
- Số lượng cá thể: 118.
- Nhận xét: loài này có hình thái gần giống với loài Pterocyclos berthae
như: ốc có dạng cuộn trong, vỏ có hoa văn trang trí, các vòng xoắn phồng, lỗ
miệng tròn, lỗ rốn rộng và sâu.
5. Chamalycaeus heudei Bav. et Daut., 1903
- Đặc điểm chẩn loại: ốc cỡ nhỏ, dạng cuộn trong. Vỏ dày, màu trắng đục.
Đỉnh ốc thấp. Có 4 vòng xoắn phồng, các rãnh xoắn hơi sâu, vòng xoắn cuối
phồng to, hạ thấp nhẹ ở gần miệng, hơi thắt lại trước khi mở rộng tạo miệng vỏ.
Miệng vỏ tròn, lỗ rốn hẹp và sâu. Kích thước: h = 3,1 mm; l = 5,9 mm; L
0
= 2,0
mm; V = 1,1 mm.
- Phân bố: gặp ở 2 sinh cảnh rừng trên núi đá vôi và hang đá vôi tại bản
Lếch và tiểu khu 3 – 2.
- Số lượng cá thể: 2.
- Nhận xét: đây là loài có kích thước rất bé co với các loài khác trong họ
Cyclophoridae. Rất ít gặp.
6. Dioryx pocsi Vargar, 1972
- Đặc điểm chẩn loại: ốc cỡ trung bình, dạng con quay. Vỏ dày, màu vàng
hay trắng đục, bề mặt vỏ nhẵn. Đỉnh tù. Có 4 vòng xoắn phồng, rãnh xoắn sâu,
vòng xoắn cuối phồng to hơi thắt lại trước khi mở rộng tạo thành cổ. Miệng vỏ
tròn, loe ở mép ngoài. Lỗ rốn rất hẹp. Kích thước: h = 6,1 – 6,6 mm; l = 5,3 –
5,7 mm; L
0
=2,7 – 2,8 mm; V = 3,4 – 3,8 mm.
20
- Phân bố: gặp ở đất trồng trên nền rừng và hang đá vôi bản Lếch.
- Số lượng cá thể: 22.
- Nhân xét: loài này phân bố rộng ở khu vực nghiên cứu, mẫu thu được
nhiều nhất ở sinh cảnh hang đá vôi.
7. Japonia diploma Möllendorff, 1901
- Đặc điểm chẩn loại: ốc cỡ trung bình, dạng nón. Vỏ dày, màu nâu hoặc
trắng đục, bề mặt được trang trí hoa văn. Có 5 vòng xoắn phồng, rãnh xoắn sâu.
Miệng tròn, lỗ rốn rộng, sâu. Kích thước: h = 6,0 – 7,8 mm; l = 5,2 – 6,9 mm; L
0
= 2,1 – 2,7 mm; V = 3,9 – 5,1 mm.
- Phân bố: gặp ở tất cả các sinh cảnh thuộc khu vực nghiên cứu, mẫu thu
được ở bản Lếch, tiểu khu 3 – 2, tiểu khu Quyết Thắng.
- Số lượng cá thể: 29.
- Nhận xét: loài này có khu phân bố rộng, tuy nhiên mẫu thu được nhiều
nhất ở sinh cảnh hang đá vôi.
8. Platyraphe vathelethi Bav. et Daut., 1903
- Đặc điểm chẩn loại: ốc cỡ trung bình, dạng cuộn trong. Vỏ dày, màu nâu
nhạt, bề mặt có các đường ziczac màu nâu đậm và khía hình cung. Đỉnh vỏ hơi
nhô. Có 4 vòng xoắn phồng, vòng xoắn cuối tròn, hơi hạ thấp ở gần miệng.
Miệng vỏ tròn, vành miệng kép. Lỗ rốn sâu và rộng. Kích thước: h = 5,0 – 6,0
mm; l = 9,5 – 10,0 mm; L
0
= 3,0 – 3,5 mm; V = 2,0 – 2,5 mm.
- Phân bố: chỉ gặp ở tiểu khu 3 – 2 với số lượng không nhiều, mẫu thu được ở
sinh cảnh rừng trên núi đá vôi mà không gặp ở sinh cảnh khác.
- Số lượng cá thể: 29.
- Nhận xét: loài này có đặc điểm hình thái gần giống với Pterocyclos
berthae, nhưng khác: kích thước nhỏ hơn, vòng xoắn cuối không tách và không
có chiếc ngà ngắn.
9. Pterocyclos marioni Ancey, 1898
- Đặc điểm chẩn loại: ốc cỡ trung bình, dạng cuộn trong. Vỏ dày cứng, bề
mặt có các đường ziczac trang trí. Đỉnh gần bằng với các vòng xoắn. Có 5 vòng
xoắn phồng, vòng xoắn cuối tròn, chiếm gần trọn chiều cao tháp ốc. Vòng xoắn