Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM THỊ THU
NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC MỨC
PHÂN LÂN ĐẾN NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA CỎ
STYLOSANTHES GUIANENSIS CIAT 184 VÀ SỬ DỤNG
BỘT CỦA NÓ TRONG KHẨU PHẦN CỦA GÀ BỐ MẸ
LUẬ N VĂN THẠ C SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
PHẠM THỊ THU
NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC MỨC
PHÂN LÂN ĐẾN NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG CỦA CỎ
STYLOSANTHES GUIANENSIS CIAT 184 VÀ SỬ DỤNG
BỘT CỦA NÓ TRONG KHẨU PHẦN CỦA GÀ BỐ MẸ
Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60 62 40
LUẬ N VĂN THẠ C SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN ĐÌNH THẮM
THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chƣa từng đƣợc bảo vệ
ở một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã đƣợc cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã đƣợc ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả
Phạm Thị Thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn Thạc sĩ
khoa học nông nghiệp, chúng tôi nhận đƣợc sự giúp đỡ quý báu của Nhà
trƣờng và địa phƣơng. Nhân dịp hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành
bày tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng sâu sắc nhất tới:
Ban Giám hiệu Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Khoa Sau
Đại học và các thầy cô giáo Khoa Chăn nuôi - Thú y Trƣờng Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của thầy giáo
hƣớng dẫn: PGS. TS. Phan Đình Thắm đã đầu tƣ nhiều công sức và thời
gian hƣớng dẫn tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thạc sỹ Hồ Thị Bích Ngọc đã
tạo điều kiện và giúp đỡ tôi về thời gian, cơ sở vật chất, nhân lực, vật lực để
tôi hoàn thành luận văn.
Nhân dịp này tôi cũng xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới
toàn thể gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và sự
giúp đỡ vô hạn về mọi mặt, động viên, khuyến khích tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo, các quý vị trong Hội đồng
chấm luận văn lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thái Nguyên, ngày tháng 9 năm 2011
Tác giả
Phạm Thị Thu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục đích của đề tài 1
3. Ý nghĩa của đề tài 2
4. Điểm mới của đề tài 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3
1.1.1. Nguồn gốc 3
1.1.2. Đặc tính sinh vật học của cỏ Stylo 3
1.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới sinh trƣởng của thân, lá 4
1.1.4. Vấn đề giữ đạm không khí của cây họ đậu 7
1.2. Cơ sở lý luận của việc trồng và đánh giá giống cỏ 8
1.2.1. Năng suất chất xanh 8
1.2.2. Cơ sở để đánh giá chất lƣợng giống cỏ 15
1.3. Bột cỏ - bột lá là một nguồn thức ăn cho vật nuôi 15
1.3.1. Nguồn thực vật có thể sản xuất bột lá 15
1.3.2. Giá trị dinh dƣỡng của bột lá, bột cỏ đối với vật nuôi 16
1.3.3. Các hạn chế của bột lá, bột cỏ đối với vật nuôi 18
1.3.4. Những nghiên cứu về sử dụng bột thân lá thực vật cho gia cầm 18
1.4. Tình hình nghiên cứu trồng và sử dụng cỏ họ đậu trong và ngoài nƣớc 21
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc 21
1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài 24
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 28
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 28
2.3. Nội dung nghiên cứu 28
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu 28
2.5. Phƣơng pháp xử lý số liệu 37
Chƣơng 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 38
3.1. Xác định ảnh hƣởng của các mức phân lân khác nhau đến năng suất và chất
lƣợng của cỏ stylo 38
3.1.1. Tình hình thời tiết, khí hậu trong năm 2010 ở vùng thí nghiệm 38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
3.1.2. Khả năng sinh trƣởng và tái sinh của cỏ Stylo 39
3.1.3. Ảnh hƣởng của các mức phân lân đến năng suất của cỏ năm thứ nhất 42
3.1.4 Ảnh hƣởng của các mức phân lân đến thành phần hóa học của cỏ Stylo 43
3.2. Ảnh hƣởng của các mức bột cỏ stylosanthes guianensis ciat 184 khác nhau trong
khẩu phần đến năng suất và chất lƣợng trứng của gà đẻ bố mẹ lƣơng phƣợng 44
3.2.1. Khối lƣợng gà, trƣớc và sau thí nghiệm 44
3.2.2. Sản lƣợng trứng, tỷ lệ đẻ và tỷ lệ trứng giống 46
3.2.3. Ảnh hƣởng của các mức bột cỏ đến chất lƣợng trứng của gà thí nghiệm 47
3.2.4. Ảnh hƣởng của bổ sung bột cỏ stylosanthes đến kết quả ấp nở của trứng gà
thí nghiệm 50
3.2.5. Ảnh hƣởng của bổ sung bột cỏ stylosanthes đến khả năng chuyển hóa thức ăn
của gà thí nghiệm 52
3.2.6. Ảnh hƣởng của các mức bổ xung bột cỏ đến chi phí thức ăn/1 gà loại 1 54
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 55
1. Kết luận 55
2. Đề nghị 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Cs : Cộng sự
VCK : Vật chất khô
ME : Năng lƣợng trao đổi
CP : Protein thô
Ca : Can xi
P : Phốt pho
Pr : Protein
Stylo : Stylosanthes guianensis CIAT 184
TN : Thí nghiệm
ĐC : Đối chứng
DM : Tỷ lệ vật chất khô
NS : Năng suất
NS CX : Năng suất chất xanh
NS VCK : Năng suất vật chất khô
T.C.V.N : Tiêu chuẩn Việt Nam
DXKĐ : Dẫn xuất không đạm
TTTĂ : Tiêu tốn thức ăn
HH : Hỗn hợp
Tr : Trang
Kg : Kilogam
G : Gam
Đ : Đồng
Kcal : Kilocalo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Công thức phân bón 29
Bảng 2.2: Thành phần hoá học của đất trƣớc thí nghiệm. 29
Bảng 2.3: Sơ đồ bố trí cỏ thí nghiệm 30
Bảng 2.4: Sơ đồ bố trí gà thí nghiệm 33
Bảng 2.5: Thành phần hoá học và giá trị dinh dƣỡng của một số nguyên liệu trong
khẩu phần 33
Bảng 2.6: Thành phần hoá học và giá trị dinh dƣỡng của khẩu phần thí nghiệm 34
Bảng 3.1: Số điều kiện thời tiết khí hậu vùng thí nghiệm năm 2010 38
Bảng 3.2: Chiều cao sinh trƣởng và tái sinh của cỏ Stylo (cm) 40
Bảng 3.3: Ảnh hƣởng của các mức phân lân đến năng suất cỏ Stylosanthes
guianensis CIAT 184 năm thứ nhất 42
Bảng 3.4: Ảnh hƣởng của các mức phân lân đến thành phần hóa học của cỏ 44
Bảng 3.5: Tỷ lệ nuôi sống - loại thải và khối lƣợng gà thí nghiệm 45
Bảng 3.6: Sản lƣợng trứng, tỷ lệ đẻ và tỷ lệ trứng giống 46
Bảng 3.7: Một số chỉ tiêu chất lƣợng trứng tƣơi 48
Bảng 3.8: Kết quả ấp nở của gà thí nghiệm 51
Bảng 3.9: Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng của gà thí nghiệm 52
Bảng 3.10: Chi phí thức ăn/1 gà loại 1 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Diễn biến nhiệt độ trung bình/tháng, lƣơng mƣa trung bình/tháng của
tỉnh Thái Nguyên năm 2010 39
Biểu đồ 3.2: Chiều cao sinh trƣởng và tái sinh của cỏ Stylo (cm) 41
Biểu đồ 3.3: Năng suất cỏ năm thứ nhất 43
Biểu đồ 3.4: Tiêu tốn thức ăn cho 10 trứng 53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua, ngành chăn nuôi gia cầm theo hƣớng công nghiệp
ngày càng phát triển. Theo số liệu của tổng cục thống kê đến 1 tháng 4 năm 2011
tổng đàn gia cầm cả nƣớc đạt 293,7 triệu con, tăng 5,9%; thịt gia cầm hơi đạt 386,3
nghìn tấn, tăng 16,8%; trứng gia cầm 3,9 triệu quả, tăng 19%. Trong đó, chăn nuôi
gia cầm theo hƣớng công nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn [74]. Tuy nhiên, giá thành
các loại thức ăn truyền thống giàu protein trong sản xuất thức ăn hỗn hợp ngày càng
tăng. Giá thức ăn chăn nuôi tại thị trƣờng Việt Nam hiện cao hơn giá sản phẩm cùng
loại tại cá c nƣớ c trong khu vƣ̣ c khoả ng 8 - 12%. Bình quân giai đoạn 2005 - 2010,
tốc độ tăng trƣởng của ngành thức ăn chăn nuôi 14%/năm [75]. Bên cạnh đó, việc
sử dụng một số loại thức ăn bổ sung, trong đó có bột màu trong thức ăn cho gia
cầm, không chỉ làm cho giá thành thức ăn hỗn hợp tăng, mà còn gây ra những hệ
lụy không tốt cho sức khoẻ của ngƣời tiêu dùng. Vì vậy, xu hƣớng tìm kiếm thức
ăn vừa giàu protein lại giàu caroten và xanthophylls đáp ứng nhu cầu của gia súc,
gia cầm, đang đƣợc các nhà khoa học quan tâm. Trên thế giới đã có một số công
trình nghiên cứu về cỏ Stylosanthes guianensis CIAT 184 nhƣ là một nguồn protein
trong khẩu phần cho gia súc, gia cầm và sản xuất bột cỏ thƣơng mại. Các nghiên
cứu đã cho thấy Stylosanthes guianensis CIAT 184 là cây trồng có giá trị dinh
dƣỡng cao, giàu protein, β caroten, khoáng…Đối với gà đẻ, bột cỏ stylosanthes đã
đƣợc sử dụng thành công dƣới mức 10% trong khẩu phần ăn (Onwudike O. C. and
Adegbola A. A., 1978) [62]). Tại Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu
trồng và sử dụng cỏ Stylosanthes guianensis CIAT 184 cho bò sữa và chế biến cho
lợn. Tuy nhiên, trong điều kiện khí hậu, đất đai ở Thái Nguyên, chƣa có công trình khoa
học nào nghiên cứu về mức phân lân thích hợp cho giống cỏ này. Đặc biệt, chƣa có công
trình nào công bố về sử dụng bột cỏ Stylosanthes guianensis CIAT 184 cho gà đẻ
trứng giống.
Xuất phát từ thực trạng trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu ảnh hưởng của các mức phân lân đến năng suất, chất lượng của cỏ
Stylosanthes guianensis CIAT 184 và sử dụng bột của nó trong khẩu phần của
gà bố mẹ”.
2. Mục đích của đề tài
- Xác định đƣợc mức phân lân thích hợp cho cỏ Stylosanthes guianensis
CIAT 184 (stylo) đạt năng suất cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
- Xác định đƣợc thành phần hóa học và giá trị dinh dƣỡng của cỏ tƣơi và bột
cỏ stylo.
- Tìm ra đƣợc tỷ lệ sử dụng bột cỏ Stylosanthes guianensis CIAT 184 hợp lý
trong khẩu phần của gà bố mẹ.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Góp phần vào nguồn tƣ liệu về trồng cỏ stylo, giá trị dinh dƣỡng, hiệu quả
sử dụng các tỷ lệ bột cỏ stylo trong chăn nuôi gà sinh sản bố mẹ.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Việc trồng và chế biến và sử dụng bột cỏ stylo dễ dàng có thể áp dụng ở
quy mô chăn nuôi gia đình hoặc trang trại lớn. Góp phần đẩy mạnh chƣơng trình
phát triển chăn nuôi gia cầm trong nông hộ khu vực miền núi phía Bắc.
4. Điểm mới của đề tài
- Xác định đƣợc năng suất, thành phần hóa học của cỏ tƣơi và bột cỏ stylo
trồng tại Thái Nguyên khi bón các mức phân lân khác nhau.
- Xác định đƣợc hiệu quả sử dụng các tỷ lệ bổ sung bột cỏ stylo khác nhau
trong chăn nuôi gà sinh sản bố mẹ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Nguồn gốc
Cỏ Stylo là một loại cỏ thuộc bộ đậu, có nguồn gốc từ châu Mỹ La Tinh. Cỏ đƣợc
trồng phổ biến ở Tây Ấn Độ, Hawaii, và một số nƣớc châu Phi nhƣ Kenya, Uganda,
Nigieria. Stylosanthes phân bố tự nhiên ở Trung và Nam Mỹ, từ Brasil nhập vào
Australia những năm 1930, nhƣng sau chiến tranh thế giới lần thứ II mới đƣợc chú
ý đến. Đây là loại cây thức ăn gia súc đƣợc phát triển đáng kể ở nhiệt đới và cận nhiệt
đới, đã nhập vào nhiều nƣớc nhƣ: Malaysia, Công-Gô, miền Nam Trung Quốc. Ở
Việt Nam, cây cỏ Stylo nhập lần đầu vào năm 1967 từ Singapore, Australia.
Các giống Stylo đang gieo trồng:
Stylosanthes guianensis (Common Stylo): cây lâu năm
Stylosanthes hamata (Caribbcan Stylo) : cây hàng năm
Stylosanthes scabra (Shrubby Stylo) : cây lâu năm
Stylosanthes humilis (Townsville Stylo) : cây hàng năm
1.1.2. Đặc tính sinh vật học của cỏ Stylo
Stylo là cỏ lâu năm, có loại hàng năm, thân thô, đứng hoặc bò, cao tới 1m, ở
khí hậu ẩm có thể tới 1,5m. Có khả năng ra rễ ở thân, khi già thƣờng chuyển màu
xanh sẫm hoặc tím. Bộ rễ ăn sâu dƣới đất đến 70cm. Rễ phát triển cả chiều sâu lẫn
chiều rộng nên có khả năng chịu hạn, chịu úng ngập, chống xói mòn rất tốt. Lá chẻ
ba, dài hẹp và nhọn, đầu tày; có lông, có nhiều hoặc ít lông mềm. Lá dài 2 - 3cm,
rộng 5 - 10mm, tỷ lệ lá/thân = 5/7. Loài nhập nội không có vòi cuốn. Những chồi
thẳng có đốt ngắn, lá nhiều hơn cành ngang, hoa hình bông cuốn không sát nhau,
thƣờng có 70 - 1.200 chùm, trên mỗi chùm có 5 - 9 hoa. Quả đậu không có cuống,
gồm 7 - 8 hạt có vỏ cứng, màu xám đen trọng lƣợng 1.000 hạt khoảng 5 - 6 gam.
Cây non mới mọc từ hạt phát triển chậm, dễ rụng lá và bị sâu hại trong 3 - 4 tháng
đầu sau khi gieo. Nếu gieo vào cuối mùa khô thì sau khi gieo cây non phát triển
nhanh, 5 - 6 tháng cây cao 1m hoặc hơn.
Cỏ Stylo là loại cây bộ đậu thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới. Là cây có khả
năng thích nghi rộng với các vùng sinh thái, yêu cầu lƣợng mƣa từ 1.500 -
2.500mm. Cỏ có thể sống đƣợc ở những vùng có lƣợng mƣa trung bình khoảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
890mm. Tuy nhiên, với lƣợng mƣa 650mm cây vẫn có thể sống đƣợc nhƣng sinh
trƣởng rất kém. Độ ẩm không khí thích hợp là 70 - 80%. Cỏ Stylo cũng có thể chịu
đƣợc ngập tạm thời, ở những nơi quá ẩm năng suất cỏ cũng bị giảm. Cỏ Stylo phát
triển tốt khi nhiệt độ không khí trong khoảng 20 - 35
0
C. Nhiệt độ thích hợp cho cỏ
Stylo sinh trƣởng phát triển là 15,5
o
C. Khi nhiệt độ dƣới 5
o
C và trên 40
o
C cây phát
triển kém. Khi thiếu ánh sáng cỏ Stylo bị giảm năng suất. Cỏ Stylo có thể mọc đƣợc
trên nhiều loại đất khác nhau: chua, nghèo dinh dƣỡng và có thể trồng xen với các
cây ăn quả, chè, cà phê. Cũng nhƣ các loại cây bộ đậu khác, cỏ Stylo là nguồn thức
ăn tƣơi xanh giầu đạm để bổ sung và nâng cao chất lƣợng khẩu phần thức ăn cho
gia súc nhai lại. Cỏ Stylo có khả năng thích ứng rộng và dễ nhân giống, có thể vừa
trồng bằng hạt, vừa trồng bằng cành giâm. Cỏ Stylo phù hợp với chân ruộng cao và
là loại cây chịu đƣợc khô hạn, không chịu đƣợc đất bị úng ngập. Đây là loại cỏ có
khả năng chịu bóng kém, vì vậy không nên trồng dƣới tán các cây khác.
Cỏ Stylo rất ít bị sâu bệnh và có thể phát triển trên nhiều loại đất, ngay cả ở
vùng đất đồi cao. Chính vì vậy, ngoài tác dụng làm nguồn thức ăn chất lƣợng cao
cho gia súc nó còn đƣợc trồng để cải tạo đất và che phủ đất, chống xói mòn. Năng
suất xanh đạt 40-50 tấn/ha/năm. Năng suất chất xanh của cỏ Stylo đạt từ 25 - 60
tấn/ha (5 - 14,5 tấn chất khô/ha/năm). Hàm lƣợng các chất dinh dƣỡng: vật chất khô
23 - 24%, đạm thô 17 - 18%, xơ thô 28 - 31%, khoáng tổng số 8 - 10%, lipit 1,55%.
Với thành phần dinh dƣỡng nhƣ vậy cây Stylo là nguồn thức ăn bổ sung protein rất
có giá trị cho gia súc ăn cỏ, đặc biệt là có khả năng chế biến thành bột cỏ (Lê Đức
Ngoan và Cs, 2006) [22].
Stylosanthes guianensis CIAT 184 là giống cỏ đƣợc chọn tạo từ Trung tâm
nông nghiệp nhiệt đới quốc tế (CIAT), là giống cỏ lâu năm, sinh trƣởng nhanh, có
tiềm năng năng suất chất xanh cao, chịu chua, chịu khô hạn khá, hàm lƣợng protein
cao. Stylosanthes guianensis CIAT 184 là cây phản ứng với ánh sáng ngày ngắn, ra
hoa tốt nhất là 10 giờ chiếu sáng/ngày.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng tới sinh trƣởng của thân, lá
Có rất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hƣởng đến sinh trƣởng của thực vật nhƣ
giống, hay các yếu tố ngoại cảnh: khí hậu, thời tiết, đất, nƣớc Trong các yếu tố đó
thì ánh sáng, nhiệt độ, nƣớc và chất dinh dƣỡng trong đất là các yếu tố chủ yếu của
đời sống thực vật.
- Sức nảy mầm của cỏ (hạt, hom)
Sự sinh trƣởng của cỏ phụ thuộc trực tiếp vào sức nảy mầm của hạt, nếu hạt có
sức nảy mầm cao sẽ tạo điều kiện cho sinh trƣởng mạnh sau này. Phẩm chất của hạt thể
hiện qua độ thuần và % nảy mầm. (Bogdan A. V., 1977) [45].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Sức nảy mầm của giống không những phụ thuộc vào bản thân hạt mà còn vào
sự chuẩn bị giống và điều kiện đất đai, khí hậu. Đối với hom, những đoạn hom đầu có
tỷ lệ nảy mầm cao nhất và khi tăng số đốt của hom sẽ tăng tỷ lệ nảy mầm, tuy nhiên từ
đốt thứ 3 trở đi thì tỷ lệ nảy mầm giảm xuống đột ngột.
Khi hạt giống bắt đầu nảy mầm, nhiệt độ đất thấp thì tốc độ nẩy mầm nhanh,
còn nhiệt độ cao thì tốc độ nẩy mầm chậm lại và khi nhiệt độ cao hơn thì không nẩy
mầm đƣợc. Đất nóng lên càng nhanh thì mọc mầm càng nhanh, trái lại đất nóng lên
chậm có thể làm cho mọc mầm chậm. Nếu sau khi gieo hạt giống xong, trời rét lâu,
đất nóng lên ít thì hạt giống chỉ trƣơng lên mà không nảy mầm đƣợc.
- Nhiệt độ
Nhiệt độ là một nhân tố sinh thái có ảnh hƣởng rất lớn đối với sinh vật nói
chung và thực vật nói riêng. Nhiệt độ có ảnh hƣởng trực tiếp tới sinh trƣởng của
cây, nhiệt độ tăng thì sinh trƣởng cũng tăng và nhiệt độ giảm sinh trƣởng chậm lại.
Khi tăng nhiệt độ tới hạn nhất định có tác dụng thúc đẩy quá trình hấp thu chất
khoáng của rễ (Trịnh Xuân Vũ và Cs, 1976) [42]. Cũng theo tác giả này, sự hô hấp
bắt đầu trong khoảng 10
0
C và tối thích ở nhiệt độ 35
0
C. Theo Bogdan A. V, (1977)
[45] nhiệt độ thấp nhất để cỏ nhiệt đới nảy mầm là 15 - 20
0
C và tối ƣu là 25 - 35
0
C;
Nhiệt độ tối ƣu cho quang hợp của cỏ ôn đới là 15 - 20
0
C, và ở cỏ nhiệt đới là 30 -
40
0
C; Sự hình thành diệp lục bắt đầu khi nhiệt độ lớn hơn 10 - 15
0
C.
Ở nhiệt độ cao kéo dài làm cho thực vật bị khô héo. Nguyên nhân do ở nhiệt
độ cao thực vật không có khả năng đóng kín lỗ thoát hơi nƣớc, kết quả là do bốc hơi
mất nhiều nƣớc nên bị khô héo đi. Nếu nhiệt độ tăng, khả năng tiêu hóa đƣợc của cỏ
và tỷ lệ cacbonhydrate phi cấu trúc giảm, nhƣng thƣờng thì tỷ lệ chất khoáng và
protein tăng. Vì vậy nhiệt độ hay thời gian trong năm mà ta thu hoạch sẽ ảnh hƣởng
tới giá trị của thức ăn (Marten, G.C., 1970) [58].
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm có ảnh hƣởng rất lớn tới sinh
trƣởng của cây, ban ngày nhiệt độ cao thuận tiện cho cây quang hợp và tích lũy, ban
đêm nhiệt độ thấp sẽ hạn chế sự tiêu phí hữu cơ nên sinh trƣởng của cây nhanh hơn
(Trịnh Xuân Vũ và cộng sự, 1976) [42].
Nhiệt độ đất có tác dụng đối với nhiệt độ bên trong thực vật lớn hơn nhiệt độ
không khí, nguyên nhân là do vỏ và cây dẫn nhiệt kém còn nhiệt độ đất thông qua
nƣớc hấp phụ từ đất mà chuyển vào cây dễ dàng (Phan Nguyên Hồng, 1971) [11].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
- Ẩm độ
Ẩm độ là một nhân tố cần thiết cho sự sinh trƣởng của cây. Cây sinh trƣởng
mạnh nhất khi tế bào bão hòa nƣớc. Giảm mức độ bão hòa thì sinh trƣởng chậm lại.
Ẩm độ hay lƣợng nƣớc trong đất có ý nghĩa đặc biệt đối với đời sống cây trồng.
Lƣợng nƣớc trong đất nhiều hay ít đều ảnh hƣởng đến việc cung cấp dinh dƣỡng,
chế độ quang hợp, chế độ thoát hơi nƣớc để thực vật khỏi bị nóng quá, độ thoáng
khí của đất điều đó ảnh hƣởng tới năng suất, sinh trƣởng và chất lƣợng cây trồng
(Nguyễn Đức Quý, 2007) [28].
Các loại cây trồng khác nhau cần lƣợng nƣớc khác nhau, thời kỳ sinh trƣởng
dài hay ngắn, rễ phát dục tốt hay xấu, đặc tính phân bố rễ nông hay sâu cũng cần
lƣợng nƣớc khác nhau. Do đó, trong thời kỳ sinh trƣởng, phải đảm bảo sao cho đất
có độ ẩm thích hợp, nhất là phải có biện pháp kỹ thuật tƣới tiêu thích hợp để cỏ có
năng suất cao và ổn định.
- Ánh sáng
Ánh sáng là nhân tố quan trọng, mối quan hệ giữa ánh sáng và sinh trƣởng
của cây rất phức tạp. Ánh sáng là nguồn cung cấp năng lƣợng cho cây tiến hành
quang hợp, thoát hơi nƣớc, hình thành chất diệp lục mà lục lạp chứa diệp lục là
nơi duy nhất tích lũy năng lƣợng mặt trời dƣới dạng các chất hữu cơ. Có ánh sáng
cây mới sinh thân, cành lá và cây mới ra hoa kết quả bình thƣờng.
- Dinh dưỡng trong đất
Điều kiện thổ nhƣỡng có ảnh hƣởng trực tiếp tới sinh trƣởng của cỏ trồng,
trong đó các chất dinh dƣỡng trong đất đóng vai trò quan trọng kể cả các nguyên tố
đa và vi lƣợng. Phân bón lót P - K có tác dụng làm tăng năng suất cỏ so với không
bón phân.
Độ pH trong đất quyết định trạng thái dễ tiêu hay không tiêu của các nguyên
tố. Nói chung, cây họ đậu ƣa đất hơi kiềm vì chúng cần nhiều Ca hơn. Đó cũng là
nguyên nhân vì sao đồng cỏ nhiệt đới ít cây họ đậu.
Nếu đất đƣợc thƣờng xuyên canh tác, đất sẽ có kết cấu viên tốt và tơi xốp, rễ
cây phát triển nhanh và mạnh, vi sinh vật hoạt động tốt (Nguyễn Khánh Quắc và
CS, 1995) [26].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Đất có hạt sét quá nhiều thì thƣờng dí chặt, yếm khí, hoạt động rễ của thực
vật bị hạn chế. Những loại đất này thƣờng khiến cho rễ thực vật tiết ra nhiều độc tố.
Những cây thức ăn dùng cho gia súc thƣờng không mọc ở đất này (Từ Quang Hiển
và CS, 2002) [7].
1.1.4. Vấn đề giữ đạm không khí của cây họ đậu
Cây họ đậu có đặc tính sinh học chung đó là rễ có nốt sần, mang vi khuẩn
cộng sinh Rhizobium cố định đƣợc nitơ trong không khí. Mặc dù trong không khí
trên mỗi hecta đất có tới 80 ngàn tấn nitơ ở dạng khó tiêu. Tuy nhiên, cây trồng
không thể sử dụng đƣợc loại nitơ phân tử này. Trong khi đó, có một số vi sinh vật có
khả năng đồng hóa dễ dàng nitơ của không khí, ngƣời ta gọi là vi khuẩn nốt sần [81].
Vi khuẩn nốt sần (Rhizobium) thƣờng xâm nhập vào rễ cây họ đậu thông qua
lông hút và đôi khi qua các vết thƣơng ở rễ và biểu bì. Đặc biệt là những chỗ phân
nhánh của rễ. Trƣớc tiên, cây họ đậu tiết ra xung quanh rễ những chất có tác dụng
kích thích sự phát triển của vi khuẩn nốt sần tƣơng ứng (đƣờng, axit hữu cơ,
vitamin, enzym ) do có tác dụng thu hút các vi khuẩn nốt sần đến tập trung gần
vùng rễ và xâm nhập vào rễ. Ở trong nốt sần, vi khuẩn và cây họ đậu có mối quan
hệ mật thiết với nhau. Cây họ đậu cung cấp các hợp chất hydratcacbon, muối
khoáng cho vi khuẩn nốt sần. Ngƣợc lại, vi khuẩn nốt sần lại cung cấp cho cây phần
lớn lƣợng nitơ mà chúng cố định đƣợc. Thời kỳ ra hoa có nhiều nốt sần và nốt sần
to hơn, có màu hồng và có khả năng cố định nitơ mạnh nhất. Các điều kiện nhiệt độ,
độ ẩm, độ thoáng khí, pH đất và dinh dƣỡng khoáng gồm N, P, K, Ca ảnh hƣởng
đến số lƣợng và chất lƣợng nốt sần (Tổ chức Nông Lƣơng, 1996 [80]).
Cây họ đậu ngoài việc có vi khuẩn cố định đạm ở rễ, nó còn có một số đặc
tính nhƣ: có biên độ sinh thái rộng, có nhiều loài có khả năng chịu đƣợc đất khô
nóng, nghèo chất dinh dƣỡng. Bên cạnh đó, với khả năng sinh trƣởng nhanh hàng
năm cây họ đậu trả lại cho đất một lƣợng chất xanh khá lớn, đặc biệt trong các bộ
phận của cây (thân, cành, lá) chứa rất nhiều chất dinh dƣỡng. Ngoài ra, cành lá của
cây họ đậu thƣờng mọc dày phủ kín đất và hạn chế đƣợc sự phát triển của cỏ dại.
- Mối quan hệ dinh dƣỡng nitơ với cây họ đậu
Với cây họ đậu mối quan hệ giữa dinh dƣỡng nitơ có sự tác động qua lại.
Nghĩa là nó có thể hút chất dinh dƣỡng nitơ từ trong đất dƣới dạng NH
4
+
và NO3
-
,
vừa có thể tổng hợp dinh dƣỡng nitơ nuôi cây và để lại trong đất dinh dƣỡng đạm.
Điều đó tùy thuộc vào khả năng tạo nốt sần và thời gian tạo nốt sần của cây họ đậu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
+ Giai đoạn cây còn non chƣa hình thành nốt sần:
Ở giai đoạn này cây họ đậu với bộ rễ mới hình thành thì nó chƣa có khả năng
tạo nốt sần nên không có khả năng tổng hợp đạm. Do đó cây phải hút dinh dƣỡng
nitơ dƣới dạng ion NH
4
+
và NO
3
-
ở trong đất. Sự hấp thụ dinh dƣỡng nitơ vào cây có
thể theo hai kiểu:
Hấp thụ thụ động:
Các ion NH
4
+
và NO
3
-
theo sự chênh lệch nồng độ từ cao đến thấp.
Các ion NH
4
+
và NO
3
-
hòa tan trong nƣớc và vào rễ theo dòng nƣớc.
Các ion NH
4
+
và NO
3
-
hút bám trên bề mặt các keo đất và trên bề mặt rễ trao
đổi với nhau khi có sự tiếp xúc giữa rễ và dung dịch đất. Cách này gọi là hút bám
trao đổi.
Hấp thụ chủ động:
Phần lớn các ion NH
4
+
và NO
3
-
đƣợc hấp thụ vào cây theo cách chủ động.
Tính chủ động ở đây đƣợc thể hiện ở tính thấm chọn lọc của màng sinh chất và các
chất khoáng cần thiết cho cây đều đƣợc vận chuyển trái với quy luật khuếch tán,
nghĩa là vận chuyển từ nơi có nồng độ thấp đến nơi có nồng độ cao. Vì cách hấp thụ
khoáng này mang tính chọn lọc và ngƣợc với gadrien nồng độ nên cần thiết phải có
năng lƣợng, tức là sự tham gia của ATP và một chất trung gian thƣờng gọi là chất
mang. ATP và chất mang đƣợc cung cấp từ quá trình chuyển hóa vật chất (chủ yếu
từ quá trình hô hấp).
Ở giai đoạn này của các loại cây họ đậu, quá trình phát triển của rễ càng
nhanh càng tốt. Do đó, chúng ta phải bón phân đạm với lƣợng nhỏ và kèm theo bón
phân lân vì phân lân sẽ kích thích sự phát triển của bộ rễ.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TRỒNG VÀ ĐÁNH GIÁ GIỐNG CỎ
Trong quá trình nghiên cứu để đánh giá một giống cỏ tốt hay không tốt trƣớc
khi đƣa vào sản xuất ngƣời ta thƣờng căn cứ vào một số yếu tố chính sau:
1.2.1. Năng suất chất xanh
Năng suất chất xanh là toàn bộ khối lƣợng chất xanh thu đƣợc trên một đơn
vị diện tích.
Nhƣ chúng ta đã biết, cơ thể thực vật và ngoại cảnh có mối quan hệ hết sức
khăng khít. Khi điều kiện ngoại cảnh thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi quá trình trao
đổi chất và khả năng tích luỹ chất khô, làm thay đổi thành phần hoá học của thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
vật. Những điều kiện ngoại cảnh và các yếu tố khác ảnh hƣởng đến năng suất chất
lƣợng của cỏ đó là:
1.2.1.1. Điều kiện khí hậu
Khí hậu bao gồm lƣợng mƣa và sự phân bố lƣợng mƣa, ẩm độ không khí,
cƣờng độ chiếu sáng và thời gian chiếu sáng trong năm. Những yếu tố này có ảnh
hƣởng lớn đến sản lƣợng và chất lƣợng cây trồng.
Ánh sáng cung cấp năng lƣợng để thực vật quang hợp. Cƣờng độ ánh sáng
và thời gian chiếu sáng có ảnh hƣởng quyết định tới năng lƣợng nhận đƣợc của
cây trồng.
Nhiệt độ cần cho sự sinh trƣởng và phát triển của cỏ. Nhiệt độ quá cao làm
cho thực vật bốc hơi mạnh, làm cho cỏ khô héo. Nhiệt độ quá thấp làm cho các
mạch dẫn các chất dinh dƣỡng co lại. Các hệ thống men hoạt động kém, cây không
phát triển đƣợc.
Ẩm độ đất và không khí liên quan chặt chẽ đến lƣợng mƣa, ẩm độ đất
ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của bộ rễ cỏ và khả năng hút các chất dinh
dƣỡng. Ngoài ra nó còn quyết định đến sự phát triển của vi sinh vật đất và độ
tơi xốp của đất.
1.2.1.2. Điều kiện đất đai
Trong điều kiện nhiệt đới, môi trƣờng đất là yếu tố quyết định năng suất và chất
lƣợng cỏ. Đất là nguồn cung cấp chất dinh dƣỡng cho cây trồng, do đó tính chất vật lý
cấu tƣợng đất sẽ ảnh hƣởng đến độ ẩm đất, sự hấp thu các chất dinh dƣỡng, sự phát
triển của các hệ vi sinh vật trong đất và ảnh hƣởng tới năng suất cây trồng.
Đất giầu mùn, tỷ lệ cát, sét, sỏi thấp, rễ cỏ sẽ phát triển nhanh, mạnh, hệ vi
sinh vật hoạt động tốt sẽ cho năng suất cao, phẩm chất tốt.
Kết cấu đất có ảnh hƣởng lớn đến cây trồng. Tỷ lệ mùn, cát, sét, sỏi đá khác
nhau thì sẽ tạo ra đất có kết cấu khác nhau. Đất nhiều mùn, sét, cát, sỏi đá thấp thì đất
tƣơi xốp và vi sinh vật phát triển mạnh thuận lợi cho cây phát triển, còn đất có hàm
lƣợng sét quá nhiều thì đất dí chặt rễ cây kém phát triển [14].
1.2.1.3. Điều kiện phân bón
Phân bón là nguồn bổ sung cung cấp chất màu cho đất. Lƣợng phân bón
cung cấp cho cây trồng nhiều hay ít và các loại phân bón khác nhau sẽ ảnh
hƣởng tới quá trình sinh trƣởng và phát triển, quá trình trao đổi chất của cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
trồng. Từ đó sẽ dẫn tới sự khác nhau về năng suất, sản lƣợng, thành phần dinh
dƣỡng. Các nhà khoa học đã khẳng định “Phân bón quyết định trên 50% việc
tăng năng suất cây trồng”.
Bón đầy đủ các chất dinh dƣỡng và khoáng vi lƣợng theo yêu cầu của cây sẽ
làm tăng năng suất cây trồng, tăng lƣợng vật chất khô trong cây, đặc biệt là các
nguyên tố khoáng, điều đó gián tiếp làm tăng năng suất chăn nuôi. Khi sử dụng
phân bón P. K và N. P. K làm tăng năng suất lên tƣơng ứng 33% và 70%. Phân bón
P, K rải một lần trong năm có tác dụng trong cả năm làm tăng năng suất cỏ so với
không bón phân. Ngƣợc lại, sự tăng năng suất do nitơ chỉ xảy ra ngay sau khi bón
phân một thời gian ngắn. Chính vì vậy, ngƣời ta sử dụng đạm một cách hợp lý bằng
cách bón rải ra sau các lứa cắt, chu kỳ chăn thả để làm cân bằng năng suất cỏ trong
cả năm để khắc phục tình trạng mùa do điều kiện thời tiết gây nên.
+ Phân chuồng (phân hữu cơ): là loại phân không thể thiếu đối với cây trồng.
Bón phân hữu cơ là biện pháp quan trọng cảì thiện tính chất, tăng độ phì của đất, tạo
tiềm năng cho năng suất cao. Thành phần phân chuồng có chứa nhiều nguyên tố
dinh dƣỡng bao gồm dinh dƣỡng đa lƣợng, trung lƣợng và vi lƣợng, giúp cho cây
trồng phát triển cân đối hơn. Để đảm bảo năng suất cây trồng tăng, đất không bị suy
kiệt dinh dƣỡng và nền sản xuất bền vững thì sử dụng phân chuồng là điều hết sức
cần thiết.
+ Phân đạm: Chỉ tiêu đạm tổng số thể hiện tổng số đạm có trong đất. Trong
điều kiện bình thƣờng 98% đạm tổng số nằm ở dạng hữu cơ. Trong đó phần mùn ổn
định chỉ khoáng hoá 2-3% một năm.
Đạm hữu cơ trong đất chủ yếu là do vi sinh vật phân giải các protit thực
vật, còn đạm vô cơ đƣợc phân giải từ đạm hữu cơ. Cho nên khi đánh giá hàm
lƣợng đạm trong đất ngƣời ta đánh giá chủ yếu thông qua hàm lƣợng đạm tổng
số và đạm dễ tiêu trong đất. Đạm dễ tiêu là đạm ở dạng vô cơ gồm Amôniac,
Nitrat, Nitric (NH
3
, NO
-
3
, NO
2
) và đƣợc gọi là đạm dễ tiêu vì cây hút đạm trong
đất chủ yếu ở dạng này.
Sản phẩm chính của cỏ là thân và lá do vậy mà đạm là yếu tố không thể thiếu
khi sản suất. Tuy nhiên khi bón đạm cho cỏ cần bón vừa phải, cân đối thì sẽ làm
tăng năng suất, tăng hàm lƣợng đạm tổng số trong cây, giảm hàm lƣợng xơ, gia súc
dễ ăn và tăng tính ngon miệng.
Nếu bón nhiều đạm sẽ có hiện tƣợng cây tích luỹ nhiều Alcaloit, Glucozit
làm cho cỏ có vị đắng giảm tính ngon miệng của gia súc. Biến không khí thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
phân đạm, thiên nhiên đã làm đƣợc nhƣ thế từ cây họ đậu. Ngoài cây họ đậu, tảo
lam cũng có khả năng cố định đạm.
Khả năng cố định đạm sẽ không thể nếu nhƣ không có mặt của các vi sinh
vật cố định đạm. Trong đó, vi khuẩn nốt sần thuộc loại hiếu khí không tạo bào tử có
thể đồng hoá nhiều nguồn cacbon khác nhau, pH thích hợp 6,5-6,9, nhiệt độ phát
triển thích hợp là 24 - 26
0
C. Một số cây họ đậu tiết ra xung quanh rễ những chất có
tác dụng kích thích những vi khuẩn tƣơng ứng với mình phát triển mạnh hơn, để có
thể nhiễm khuẩn vào thực vật, vi khuẩn phải đạt mật độ tế bào 104/gam đất. Vi
khuẩn sau khi tiếp xúc với lông hút của thực vật, tạo thành dẫy xâm nhập đi dần vào
bên trong của rễ và xâm nhập vào nhu mô kích thích tế bào thực vật bị phân chia
nhanh chóng thành tế bào mới. Vi khuẩn đi vào tế bào chất và phân chia chuyển
thành thể giả khuẩn. Giả khuẩn không phân chia đƣợc nhƣng phát triển mạnh tăng
nhiều ribosom, nốt sần xuất hiện.
Nốt sần thích hợp ở các điều kiện: Độ ẩm của đất 60-70%; độ thoáng khí:
càng nhiều càng tốt, điều này cho thấy rễ càng sâu lƣợng nốt sần càng kém; pH
thích hợp là 4,6-8,0; Phân lân, kali có tác dụng tích cực tạo thành nốt sần; Phân
canxi, magie và các muối khác cũng có tác dụng tốt đến quá trình tạo thành nốt sần.
Chất dinh dƣỡng cacbon nhƣ nƣớc đƣờng, rơm, rạ làm tăng khả năng xâm nhập và
khả năng cố định Nitơ, ngƣợc lại những vi sinh vật cho kháng sinh sẽ gây ức chế vi
khuẩn cố định đạm.
+ Phân lân
Tỷ lệ lân trong hạt thấp hơn trong lá, tỷ lệ lân trong cây bộ đậu cao hơn trong
cây hoà thảo. Trong cây, lân chủ yếu nằm dƣới dạng hữu cơ, chỉ có một lƣợng nhỏ
nằm dƣới dạng vô cơ. Tỷ lệ lân trong đất biến động trong phạm vi từ 0,03 - 0,12%.
Ở một số đất hình thành trên đá mẹ giàu lân, tỷ lệ lân tổng số lên tới 0,6%. Các
dạng lân trong đất gồm các dạng lân hữu cơ và dạng vô cơ.
Lân có vai trò quan trọng trong đời sống của cây trồng. Lân có trong thành
phần của hạt nhân tế bào, rất cần cho việc hình thành các bộ phận mới của cây. Lân
tham gia vào thành phần các enzim, các protein, tham gia vào quá trình tổng hợp
các axit amin. Lân vô cơ đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành hệ
thống đệm trong tế bào và là nguồn dự trữ cần thiết cho việc tổng hợp lân hữu cơ.
Lân kích thích sự phát triển của rễ cây, làm cho rễ ăn sâu vào đất và lan rộng
ra xung quanh, tạo thêm điều kiện cho cây chống chịu đƣợc hạn và ít đổ ngã. Lân
kích thích quá trình đẻ nhánh, nảy chồi, thúc đẩy cây ra hoa kết quả sớm và nhiều.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Lân làm tăng đặc tính chống chịu của cây đối với các yếu tố không thuận lợi: chống
rét, chống hạn, chịu độ chua của đất, chống một số loại sâu bệnh hại. Tác dụng chủ
yếu của lân thể hiện trong một số mặt sau:
Phân chia tế bào, tạo thành chất béo và protein
Thúc đẩy việc ra hoa và hình thành quả, quyết định phẩm chất của hạt giống
Hạn chế tác hại của việc bón thừa đạm
Làm cho thân cây vững chắc
Thúc đẩy việc ra rễ đặc biệt là rễ bên và lông hút
Ở một số loại đất trên nƣớc ta, lân trở thành yếu tố hạn chế đối với năng suất
cây trồng. Thiếu lân không những làm cho năng suất cây trồng giảm mà còn hạn chế
hiệu quả của phân đạm. Hiệu suất của phân lân khá cao. Bón quá nhiều phân lân
trong nhiều trƣờng hợp có thể làm cho cây bị thiếu một số nguyên tố vi lƣợng. Vì
vậy, cần bón thêm phân vi lƣợng, nhất là Zn [4].
Đối với cây họ đậu nhu cầu và khả năng hấp thu phospho cao hơn so với cỏ
hòa thảo. Cây đậu rất mẫn cảm với sự thiếu phospho. Khi phospho ít thì diện tích lá
và năng suất giảm (Rao và cộng sự., 1995, 1996, 1997). Tuy nhiên, so với cỏ hòa
thảo, cây đậu có bộ rễ ăn sâu nên chúng vẫn phát triển tốt hơn trong điều kiện đất
nghèo phospho vô cơ và hữu cơ. Cây đậu còn có khả năng sử dụng phospho khó tiêu
và canxi tốt hơn cỏ hòa thảo. (Rao và Cs, 1997) [68].
Phốt pho là một trong những yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình cố định đạm.
Và cùng với N, nó là chất dinh dƣỡng chủ yếu hạn chế năng suất cây trồng ở nhiều
khu vực trên thế giới (Pereira P. A. A và Cs, 1989) [65]. Ảnh hƣởng của việc thiếu
phốt pho đến rhizobia là khác nhau (Beck D. P và Cs, 1985) [44].
Photpho cần thiết và liên quan trực tiếp đến hình thành nốt sần và cố định
đạm (Pereira P. A. A và Cs, 1989) [65]. Bón 25 mg P/kg đất cho đất chua thì R.
leguminosarum bv. trifolii tăng nốt sần đáng kể. Các nốt sần và quá trình cố định
đạm của T. vesiculosum tăng lên đáng kể sau khi bổ sung P (100 mgP/kg đất) và K
(300 mg K/kg đất); hoạt động nitrogenase đã tăng gấp đôi khi nồng độ P tăng 400
mg/kg đất. Sự khác biệt giữa một số loài cây họ đậu đối với nhu cầu phốt pho đã
đƣợc báo cáo (Burauel P. và Cs, 1990) [46].
Cố định đạm bị giới hạn bởi P có sẵn trong đất. Sangina và Cs (1989) [70]
thấy rằng tăng cố định đạm của Casuarina equisetifolia bằng cách bón thêm
phosphate khi đất thiếu P.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Các nghiên cứu đã tiến hành sử dụng 2.500 kg/ha vôi và 20 kg/ha supe lân để
xử lý đất axit (Peoples M. B và Cs, 1995) [64], kết quả cho thấy, quá trình cải tạo
làm tăng độ pH đất từ 4,5 đến 4,9, giảm nồng độ của Al và Mn, cải thiện quá trình
cố định đạm trong đất và tăng trƣởng của cây.
Để duy trì khả năng sinh sản tối ƣu của đồng cỏ họ đậu chăn thả gia súc thì
phải sử dụng phân bón. Các khuyến nghị bón phân cho đồng cỏ họ đậu đạt sản
lƣợng từ 10,25 - 12,5 tấn chất khô/ha là 150kg P
2
O
5
/ha (Ken Barnett, 2006) [55]
Đồng cỏ họ đậu có nhu cầu phốt pho cao hơn cỏ hòa thảo. Nó không chỉ làm
tăng sản lƣợng cây họ đậu, mà còn tăng cƣờng khả năng kháng bệnh. Theo Nguyễn
Văn Quang và Cs (2007) [27] bón 80 kg/ha P2O5 cho cỏ họ đậu đạt đƣợc năng suất
protein là 3,4 tấn/ha (keo giậu K280) và 2,4 tấn/ha (stylo 184). Đối với bón keo giậu
K280: bón 400kg Supe lân /ha cho năng suất chất xanh đạt 28,2 tấn/lứa và 56,1
tấn/ha cho stylo 184. Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Mùi và Cs (2007) [21] cho
biết bón 400kg Supe lân /ha cho Leucaena leucocephala K636 đạt năng suất vật
chất khô từ 11,2 -18,1 tấn/ha/năm trong điều kiện tƣới nƣớc cho keo giậu K636 và
trong điều kiện không tƣới nƣớc 10,5 - 17,0 tấn/ha/năm. Đối với cỏ Stylosanthes
Plus khi bón 400kg Supe lân /ha cho đạt năng suất vật chất khô từ 14,7 - 19,2
tấn/ha/năm trong điều kiện tƣới nƣớc và trong điều kiện không tƣới nƣớc 13,6 -
18,4 tấn/ha/năm
+ Phân Kaly
Kaly làm tăng vai trò quang hợp của lá, tăng cƣờng sự hình thành bó mạch, làm
cho cây cứng cáp, góp phần vào việc chống đổ, chống lốp cho cây trồng.
Kaly còn kích thích hoạt động của các men do đó làm tăng cƣờng hoạt động
của trao đổi chất trong cây, tăng cƣờng sự hình thành acid hữu cơ, làm cho cây tăng
cƣờng tổng hợp protit. Ngoài ra kaly còn tăng khả năng chống rét cho cây và tăng
sức đẻ nhánh cho cây.
+ Lợi ích của bón vôi:
Theo Nguyễn Ngọc Nông (1999) [24] cho biết: Bón vôi cho đất sẽ khử
đƣợc độ chua của đất. Bón vôi còn khử đƣợc độ mặn của đất, tăng cƣờng hoạt
động của vi sinh vật trong đất, cải tạo đƣợc lý tính hoá tính của đất và tăng
cƣờng cấu tƣợng đất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
1.2.1.4. Thời gian thu cắt
Theo Vũ Duy Giảng và Cs (1997) [5], thức ăn xanh cần thu hoạch đúng thời
vụ để đảm bảo giá trị dinh dƣỡng cao. Nếu thu hoạch sớm ít xơ, nhiều nƣớc, hàm
lƣợng vật chất khô thấp. Ngƣợc lại nếu thu hoạch quá muộn hàm lƣợng nƣớc giảm,
vật chất khô tăng nhƣng chủ yếu tăng chất xơ, còn lipit và protein giảm.
Thời gian thu cắt có ảnh hƣởng lớn đến sản lƣợng và chất lƣợng của cỏ. Nếu
cắt quá ít lần/năm thì cỏ sẽ bị già dẫn đến chất lƣợng kém và ảnh hƣởng tới lứa tái
sinh sau, ảnh hƣởng tới sản lƣợng cỏ/năm. Nếu cắt quá nhiều lứa/năm, cỏ chƣa đủ
thời gian tích luỹ các chất dinh dƣỡng nuôi cây, bộ rễ phát triển kém hoặc bị teo đi
ít nhiều, đất trồng dễ bị xói mòn, rửa trôi dinh dƣỡng, đồng cỏ chóng bị thoái hoá,
năng suất, chất lƣợng giảm.
Xác định thời điểm thu cắt hợp lý sẽ khắc phục đƣợc cả hai vấn đề trên. Cỏ
mềm tỷ lệ tiêu hoá của gia súc cao, hàm lƣợng Protein thô trong vật chất khô của cỏ
sẽ cao hơn và cỏ có khả năng tái sinh tốt. Thời gian thu cắt phụ thuộc vào các giống
cỏ và mùa vụ.
Theo Từ Quang Hiển và Cs (2002) [7], thời gian thu cắt của Cỏ Stylosanthes
gracilis HBK, sau khi trồng 4 - 5 tháng, cây cao 50 - 60 cm cắt lứa đầu, lứa đầu không để
già. Cắt lần khác sau 60 - 70 ngày ( vụ hè thu) và 90 -100 ngày (vụ đông xuân). Đối với
cỏ Stylo thì thu hoạch lứa đầu khi cỏ trồng đƣợc 3 - 4 tháng, khi thảm cỏ đã phủ kín đất
và cao thảm 50 - 70 cm. Các lứa tái sinh cần đƣợc thu cắt khi thảm cỏ đƣợc 60 - 80 ngày
tuổi và có độ cao 45 - 55cm (nếu thu cắt chất xanh) và độ cao 35 - 45 cm cho chăn thả
gia súc. Chỉ nên chăn thả gia súc khi thảm cỏ đã thu cắt chất xanh đƣợc 2 lứa.
1.2.1.5. Chiều cao của gốc sau khi thu cắt
Chỉ tiêu này cũng ảnh hƣởng đến việc tăng sản lƣợng và chất lƣợng của
giống cỏ. Khi cắt cỏ quá cao sẽ làm giảm sản lƣợng cỏ, vì phần để lại, còn khi
cắt cỏ quá thấp, thì sẽ ảnh hƣởng tới các lần tái sinh sau do làm mất phần thân
gần gốc là cơ quan dự trữ chất dinh dƣỡng cơ bản để nuôi rễ và toàn bộ lá, không
tạo ra các chất hữu cơ mới đƣợc. Tuỳ thuộc vào từng loại giống cỏ, mà có độ cao
gốc để lại sau khi cắt khác nhau.
Theo Từ Quang Hiển và Cs (2002) [7] cho biết độ cao gốc để lại: Đối với cỏ
Pangola thì cắt cỏ sát mặt đất, độ cao còn lại không quá 2 cm. Cỏ họ đậu lâu năm
(Cỏ Stylosanhtes gracilis KBK) thì cắt lần một cách gốc 10 - 15 cm, các lần sau cắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
cách gốc 20 - 25 cm, cắt trên phần thân đã hoá gỗ 1 - 2cm và phải còn lại một ít lá
xanh. Theo Nguyễn Thị Mùi và Cs (2008) [20] thì độ cao cắt cỏ Stylo là 17 - 20 cm.
Theo Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976) [1] thì cỏ Stylo phải đƣợc cắt cao 20 - 25cm
trong lứa đầu và mỗi lứa sau phải cao dần lên vì nếu cắt sát đất sẽ hạn chế tái sinh trƣởng.
1.2.2. Cơ sở để đánh giá chất lƣợng giống cỏ
Chất lƣợng của các giống cỏ đƣợc đánh giá bằng thành phần hoá học có
trong giống cỏ đó. Đây là một chỉ tiêu hết sức quan trọng không thể thiếu khi
nghiên cứu đánh giá một giống cây thức ăn. Trên cơ sở đó giúp cho các nhà chăn
nuôi tính toán khẩu phần ăn cho gia súc gia cầm một cách hợp lý để chúng sinh
trƣởng phát triển tốt. Thành phần hoá học có trong giống cỏ chủ yếu tập trung ở 3
chỉ tiêu: Vật chất khô (VCK), protein và xơ.
Đậu đỗ thức ăn gia súc ở nƣớc ta thƣờng giàu protein, vitamin và khoáng,
Ca, Mg, Mn, Zn, Cu, Fe, nhƣng ít phốt pho, kali hơn cỏ hoà thảo. Tuy vậy, hàm
lƣợng protein thô trong thân lá cây đậu đỗ trung bình 167 g/kg vật chất khô, xấp xỉ
giá trị trung bình của đậu đỗ nhiệt đới và thấp hơn giá trị của đậu đỗ ôn đới
(175g/kg vật chất khô), hàm lƣợng chất khô 200 - 260 g/kg thức ăn, giá trị năng
lƣợng cao hơn cỏ hoà thảo (Điền Văn Hƣng, 1959) [13].
Một giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô và năng suất
protein cao, tỷ lệ xơ trong thức ăn thấp, trong đó chỉ tiêu protein đƣợc chú trọng
nhiều hơn cả. Ngoài ra, thức ăn thực vật là nguồn cung cấp hàm lƣợng caroten là
chủ yếu cho gia súc gia cầm. Các giống cây họ đậu bao giờ cũng cho giá trị dinh
dƣỡng cao hơn cây thức ăn hoà thảo.
1.3. BỘT CỎ - BỘT LÁ LÀ MỘT NGUỒN THỨC ĂN CHO VẬT NUÔI
1.3.1. Nguồn thực vật có thể sản xuất bột lá
Trong tự nhiên, nguồn thực vật để sản xuất bột cho gia súc gia cầm rất nhiều
nhƣ: lá sắn, lá keo dậu, cỏ Stylo, bèo hoa dâu, lá và hạt cây so đũa, lá mắm, rau
cỏ…Thức ăn gia cầm, ngoài lƣợng ngô vàng có sẵn trong công thức, thƣờng cần có
thêm nguồn cung cấp sắc tố để làm vàng da, lòng đỏ trứng theo thị hiếu ngƣời tiêu
dùng. Tại các nƣớc ôn đới sử dụng nguồn bột cỏ chế biến từ cỏ alfalfa (Medicago
sativa). Đây là loại cỏ họ đậu (Leguminosacea), có hàm lƣợng caroten cao, khoảng
270 - 300 mg caroten/kg bột cỏ, hàm lƣợng protein thô 17% hoặc 20%, có mùi
thơm và chứa nhiều vi khoáng, vitamin. Ở các nƣớc nhiệt đới, bột cỏ thƣờng đƣợc
chế biến từ các nguồn lá xanh khác nhƣ bột lá bình linh (Leucaena leucocephala),
cỏ Stylo (Stylosanthes gracilis) [76].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Cỏ Stylo: Cỏ Stylo là cây họ đậu, 1 kg bột cỏ Stylo có 96 g đạm tiêu hóa, tƣơng
đƣơng 0,64 đơn vị thức ăn, dùng nuôi lợn rất tốt không kém cám gạo.
Bèo hoa dâu: Bèo hoa dâu là cây phân xanh có đến 28 - 30% Protein trong
vật chất khô, trên 3% chất béo, 10,5% chất khoáng, 6,5% tinh bột đƣờng, còn nhiều
vitamin B12, vitamin A rất cần cho gia cầm [78].
Lá sắn: Lá sắn là nguồn nguyên liệu phong phú ở Việt Nam, có hàm lƣợng chất dinh
dƣỡng tƣơng đối cao, giá trị protein thô chiếm 21%, chất béo 5,5%, xơ thô 21% [77].
Lá keo dậu: Cây keo dậu phát triển ở hầu khắp các vùng trên nhiều loại đất
khác nhau. Lƣợng Protein thô trong lá keo dậu khá cao 270-280 g/kg chất khô, tỷ lệ
xơ thấp 155g/kg chất khô, nên lá keo dậu có thể dùng làm thức ăn bổ sung protein,
vitamin cho gia súc và gia cầm [28].
Cây so đũa: Là loại cây họ đậu, trồng ở nhiều nơi, hạt và lá so đũa có tỷ lệ
protein cao và nhiều vitamin.
Cây lá mắm: Cây mắm mọc ở vùng nƣớc mặn, nƣớc lợ ven biển, nhất là ở
các tỉnh Nam Trung bộ và miền Nam.
Cây Trichanthera Gigantea: Cây Trichanthera có nguồn gốc ở Nam Mỹ,
trồng bằng hom đạt tỷ lệ sống 90% - 95%. Cây phát triển vào mùa mƣa, không kén
đất, có kháng thể cao chống đƣợc sâu bệnh và không bị cỏ dại lấn át. Ngoài cung cấp
dinh dƣỡng, lá cây còn có tác dụng phòng chống bệnh đƣờng ruột cho vật nuôi [82].
Theo Nguyễn Đức Trân và Cs (1997) [38] cho biết: Ở vùng núi, có thể lấy lá
và cả cành non các loại cây không độc, không có chất chát (trâu bò thƣờng ăn) để
phơi khô, dự trữ dành cho mùa đông hiếm rau cỏ.
1.3.2. Giá trị dinh dƣỡng của bột lá, bột cỏ đối với vật nuôi
Trong phát triển chăn nuôi, việc chọn giải quyết nguồn thức ăn để đảm bảo
năng suất, chất lƣợng thịt, trứng và giảm giá thành sản xuất bằng cách tìm ra những
giống cây bổ sung nguồn thức ăn mới phù hợp với điều kiện địa phƣơng là vấn đề
rất cần thiết.
Ngày nay, ngay ở các nƣớc phát triển, bột cỏ vẫn là thành phần không thể
thiếu trong khẩu phần ăn của gia súc, gia cầm. Vì bột cỏ cung cấp nhiều vitamin tự
nhiên, đặc biệt là tiền vitamin A (caroten) và sắc tố vàng Xanthophyl. Vitamin E, C
và caroten là những chất chống oxi hoá, ngăn cản tích trữ cholesterol trong máu.
Ngoài ra, lá xanh còn chứa nhiều chất quinol và phenol, là những chất chống viêm
nhiễm và bài tiết chất độc cho ngƣời và động vật. Chính vì vậy, sử dụng bột cỏ làm
thức ăn chăn nuôi đƣợc các nƣớc trên thế giới rất quan tâm.