Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bài tiểu luận TÌNH HÌNH CHỨNG KHOÁN tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.92 KB, 9 trang )

TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỸ THUẬT LÝ TỰ TRỌNG
TP.HCM
BÀI TIỂU LUẬN
CHỦ ĐỀ : TÌNH HÌNH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Giáo Viên : LÊ THỊ MAI HƯỜNG
Nhóm : 1
- Nguyễn Hoàng Hải
- Nguyễn Minh Kí
- Đặng Văn Tuyền
- Phạm Tấn Đạt
Lớp : 13CĐ – NL2

1Khái niệm chứng khoán
Nói nôm na, chứng khoán là một công cụ tài chính giúp công ty có thể huy động vốn
ngoài thị trường vốn. Có 2 loại chứng khoán là : trái phiếu, và cổ phiếu Trái phiếu là
công cụ nợ, mang lại lãi cố định, cũng có thể trao đổi trên thị trường chứng khoán. Công
cụ này thường được các tổ chúc tài chính dùng hơn nhà đầu tư cá nhân vì tính phúc tạp
của nó. Trong khi đó, cổ phiếu phổ biến, đơn giản và mang lại lợi nhuận cao nên được
các nhà đầu tư cá nhân lựa chọn nhiều. Cổ phiếu được phân ra 2 loại nhỏ là cổ phiếu
thường và cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu ưu đãi không phổ biến vì chỉ phát hành nội bộ
hoặc cổ đông chiến lược và không được mua bán trên thị trường.
Thuậnlợi
Lợi nhuận của cổ phiếu bao gồm : cổ tức (dividend), và lợi nhuận chênh lệch tù việc bán
cổ phiếu (capital gain). Cổ tức là số tiền trích từ lợi nhuận hàng năm của công ty chia
cho cổ đông dựa vào tỉ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư. Số tiền này thường ít
(khoảng 1000-2000vnd/ năm cho mỗi cổ phiếu). Cái hấp dãn nhà đầu tư là lợi nhuận
chênh lệch vì cái này không có một mức cố định nào cả. Do đặc trưng của cổ phiếu là
không có thời hạn nhất định, khi nào công ty còn niêm yết thì cổ phiếu đó còn giá trị, do
vậy khả năng kiếm lợi nhuận tù cổ phiếu có thể không bao giờ hết. Nếu đầu tư tốt thì
một cổ phiếu có thể đem lại vài trăm phần trăm lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Tuy nhiên ranh giới giũa làm tỷ phú và nhảy lầu khá mong manh. Nếu không có kiến


thúc và bản lĩnh khi đầu tư chứng khoán thì mức độ rủi ro sẽ rất cao. Lấy ví dụ như thị
trường việt nam từ đầu năm đến nay. VnIndex từ khoảng hơn 300 đã tăng lên 632 điểm
trong vòng 4 tháng, tức là mỗi cổ phiếu đều tăng giá lên gấp đôi so với lúc ban đầu. Bắt
đầu xuất hiện nhiều tấm gương sinh viên một bước thành tỷ phú, Mọi người thấy có vẻ
ngon ăn nên nhảy vào, dẫn đến hiện tượng sốt cầu, bon bóng căng. Cuối tháng 4/2006
bong bóng võ, do tâm lý sợ hãi mọi người lại ùa nhau bán khiến giá cổ phiếu bị đẩy
xuống cũng nhanh như khi nó lên. Từ tháng 4 đến tháng 6 giá cổ phiếu đã mất 30%
(bạn có 100tr thì sẽ lỗ khoảng 30tr), sau đó giá ổn định nhưng vẫn theo chiều hướng
xuống, rớt mạnh thêm một lần nữa vào cuối tháng 8, đẩy một số cổ phiếu đến gần mức
giá đầu năm. Như vậy những ai mua cổ phiếu vào cuối tháng 4, đến tháng 8 có thể mất
gần 50% số vốn của mình. Như vậy đã có đủ lý do để nhảy lầu rồi.
Tình hình phát triển
Sau cu cộ c iả cách kinh tế Vi tệ Nam ãđ có nhi uề thành công trong sự nghi pệ
phát tri nể kính tế c aủ mình.Cu cộ c iả cách này ãđ có nh ngữ tác ngđộ r tấ l nớ t iớ toàn
bộ iđờ s ngố kính tế xã h iộ và t oạ ra nh ngữ chuyên bi nế tích c cự trong n nề kính tế
.Chính vì v yậ mà ãđ xu tấ hi nệ nh ngữ c s v ngơ ở ữ ch cắ và ngày càng l nớ m nhạ hìnhđể
thành thị tr ngườ tài chính ,quan tr ngọ nh tấ là sự hình thành thị tr ngườ ch ngứ khoán
t iạ Vi tệ Nam. Cách iđ t ngừ b cướ và chính xác trên con ngđườ để iđ t iớ m tộ n nề kinh
tế thị tr ngườ phát tri nể là m tộ i uđ ề r tấ hoan nghênh. Ti nế trình c iả cách c ngũ cho ra
iđờ m tộ thị tr ngườ ti nề tệ v iớ sự xu tấ hi nệ hàng lo tạ các h pợ tác xã tín d ng,ụ ngân
hàng th ngươ m iạ cổ ph n,ầ công ty tài chính song song v iớ sự chuy nể iđổ các ngân
hàng qu cố doanh trở thành nh ngữ ngân hàng chuyên doanh. M tộ số ngân hàng liên
doanh v iớ n cướ ngoài và chi nhánh ngân hàng n cướ ngoài c ngũ b tắ uđầ cđượ c pấ
gi yấ phép ho tạ ngđộ t iạ Vi tệ Nam. i uĐ ề này ãđ ch ngứ tỏ nhu c uầ về v nố ngày càng
t ngă mà òiđ h iỏ ph iả có nh ngữ bi nệ pháp và công cụ h uữ hi uệ để mở r ngộ vi cệ huy
ngđộ v nố nhãn r iỗ cả c aủ khu v cự dân cư ở trong n cướ và c aủ n cướ ngoài. Để làm
cđượ i uđ ề này vào n mă 1990, Vi tệ Nam ãđ ban hành ođạ lu tậ về công ty trách nhi mệ
h uữ h nạ và Công ty cổ ph n.ầ Các doanh nghi pệ theo mô hình cổ ph n,ầ cđặ bi tệ trong
l nhĩ v c:ự d chị v ,ụ th ngươ m i,ạ tài chính, ngân hàng ãđ cđượ thành l p.ậ Thêm vào óđ
từ n mă 1993 trở i,đ nhà n cướ Vi tệ Nam c ngũ ãđ th cự hi nệ r ngộ rãi vi cệ cổ ph nầ hoá

doanh nghi pệ nhà n cướ g nầ âyđ Lu tậ uđầ tư n cướ ngoài t iạ Vi tệ Nam c ngũ cđượ s aử
iđổ cho phép ng iườ n cướ ngoài tham gia tr cự ti pế âùđ tư d iướ hình th cứ góp v nố cổ
ph nầ vào các công ty c ph nổ ầ t iạ Vi tệ Nam.
T tấ cả các i uđề trên nói lên m tộ thị tr ngườ v nố mà nhđỉ cao là thị tr ngườ ch ngứ
khoán ãđ có cơ sở để hình thành t iạ Vi tệ Nam. Sù ra iđờ c aủ thị tr ngườ ch ngứ khoán
t iạ Vi tệ Nam còng là m tộ yêu c uầ t tấ y u.ế Cách th cứ huy ngđộ v nố trên thị tr ngườ
ch ngứ khoán r tấ thu nậ ti nệ kh cắ ph c cụ đượ nh ngữ nh c i mượ đ ể c aủ các bi nệ pháp huy
ngđộ v nố hi nệ nay. Hi nệ t iạ cách huy ngđộ v nố c aủ Vi tệ Nam hi nệ nay là phát hành
tín phi u,ế kỳ phi uế kho b cạ và ti nề g iử ti tế ki m.ệ Theo cách huy ngđộ v nố này, chỉ
khi nđế h nạ ng iườ sở h uữ các lo iạ kỳ phi uế m iớ cđượ thanh toán cả g cố và lãi, còn
iđố v iớ ng iườ g iử ti nề ti tế ki mệ n uế rút ti nề tr cướ th iờ h nạ thanh toán, họ sẽ m tấ
quy nề cđượ h ngướ lãi. Trong i uđề ki nệ hi nệ nay thì v nấ đề uđầ tư v nố g pặ ph iả khó
kh nă th cự s .ự Sự ra iđờ c aủ thị tr ngườ ch ngứ khoán sẽ gi iả quy tế cđượ các trở ng iạ
nói trên. Trên th tr ngị ườ ch ngứ khoán ng iườ th a v nừ ố (các nhà uđầ tư ) có thể mua và
bán ch ngứ khoán b tấ kỳ lúc nào họ mu n,ố không bị câu nệ về th iờ gian và không bị
làm phi nề hà, ràng bu c v th t cộ ề ủ ụ mua bán. Chính nh s thu nờ ự ậ ti nệ và thông thoáng
này mà từ lâu thị tr ngườ ch ngứ khoán ãđ trở thành môi tr ngườ uđầ tư h pấ d nẫ iđố v iớ
nh ngữ ng iườ có v nố nhàn r i,ỗ nh ngữ ng iườ kinh doanh ch ngứ khoán. Thông qua thị
tr ngườ ch ngứ khoán nhi uề nu cớ ãđ huy ngđộ cđượ m tộ kh iố l ngượ l nớ v nố uđầ tư
n cướ ngoài và t nậ d ngụ cđượ ngu nồ v nố nhàn r iỗ trong n cướ bỏ vào phát tri nể s nả
xu tấ kinh doanh.
Để ápđ ngứ nh ngữ nhu câu trên phù h pợ v iớ trình độ phát tri nể kinh t ,ế ngày
28/11/1996, Thủ t ngướ Chính phủ ãđ kỳ Nghị nhđị 75/CP khai sinh ra Uỷ Ban ch ngứ
khoán Nhà n cướ Vi tệ Nam v iớ mong mu nố thúc yđẩ sự ra iđờ có tr tậ tự
và có hi uệ quả c aủ thị tr ngườ ch ngứ khoán ở Vi tệ Nam. Sau m tộ th iờ gian v aừ nổ
nhđị tổ ch c,ứ v aừ ti nế hành m tộ số công vi cệ chu nẩ b ,ị ngày 25 tháng 8 n mă 1997 t iạ
Hà N i,ộ Uỷ ban Ch ngứ khoán Nhà n cướ ãđ chính th cứ làm lễ ra m tắ ( sau nay là Thị
tr ngườ Ch ngứ khoán Vi tệ Nam). Cùng v iớ sự chu nẩ bị chính th cứ hình thành này
vi cệ t oạ ra các hàng hoá l uư thông trên thị tr ngườ ch ngứ khoán Vi tệ Nam là m tộ v nấ
đề h tế s cứ quan tr ngọ để mđả b oả sự t nồ t iạ và phát tri nể c aủ m tộ tổ ch cứ m iớ này.

Trong khuôn khổ b nả đề án này, em xin trình bày về vai trò c aủ thị tr ngườ ch ngứ
khoán và sự c nầ thi tế c aủ vi cệ hình thành và phát tri nể thị tr ngườ ch ngứ khoán ở Vi tệ
Nam , cđặ bi tệ là m tộ số bi nệ pháp t oạ ra hàng hoá cho TTCK Vi tệ Nam.
3 Quá trình hình thành và phát triển
Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại.
Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên thị trường chứng
khoán. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán được hiểu một
cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán ư các hàng hoá và
dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những
quy tắc ấn định trước.
Hình thức sơ khai của thị trường chứng khoán đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Vào khoảng
thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các chợ phiên
hay hội chợ, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng mua bán, trao đổi
hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các
hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ 15,
“khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho
các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với
các thành viên tham gia.
Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại thành phố Bruges
(Vương quốc Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ Bourse. Ba túi da tượng
trưng cho ba nội dung của thị trường: Thị trường hàng hoá; Thị trường ngoại tệ và Thị trường
chứng khoán động sản; còn chữ Bourse có nghĩa là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “nơi buôn
bán chứng khoán”.
Đến năm 1547, thị trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ do cửa biển Evin ư nơi dẫn các tàu thuyền
vào buôn bán tại thành phố bị cát biển lấp mất.
Tuy nhiên, vào năm 1531, thị trường này đã được dời tới thành phố cảng Anvers (Bỉ), từ đó, thị
trường này phát triển nhanh chóng. Một thị trường nhưvậy cũng được thành lập ở London (Vương
quốc Anh) vào thế kỷ 18 và sau đó là một loạt thị trường tại Pháp, Đức, ývà một số nước Bắc Âu
và Mỹ cũng được thành lập. Sau một thời gian hoạt động, thị trường đã chứng tỏ khả năng không
đáp ứng được yêu cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì thế, thị trường hàng hoá được tách ra

thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và phát triển thành thị trường hối đoái.
Thị trường chứng khoán động sản trở thành thị trường chứng khoán. Nhưvậy, thị trường chứng
khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái.
Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã ghi
nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu,
Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào “ngày thứ năm đen tối”, 29/10/1929 và “ngày thứ hai đen
tối”, 19/10/1987. Song, trải qua các cuộc khủng hoảng, cuối cùng thị trường chứng khoán lại được
phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu được trong nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Hiện nay, do các biến động lớn trong nền kinh tế thế giới, do tác động của tiến bộ khoa học kỹ
thuật và với mong muốn của Chính phủ các nước trong việc tăng cường vai trò của thị trường
chứng khoán đối với đời sống kinh tế, thị trường chứng khoán đã được tạo mọi điều kiện phát
triển. Các chính sách của Chính phủ các nước đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển
của thị trường chứng khoán thể hiện:
Thứ nhất, Chính phủ các nước đã cải cách mạnh hệ thống thuế nhằm kích thích tiết kiệm và đầu
tư. Các khoản thuế đối với thu nhập từ đầu tưcổ phiếu giảm đáng kể đã khuyến khích các doanh
nghiệp tăng vốn chủ sở hữu. Với các doanh nghiệp Hàn Quốc, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu đã
giảm từ khoảng 500% vào đầu những năm 80 xuống còn 250% vào cuối những năm 90. Chính phủ
Anh và Mỹ đã khuyến khích quá trình sáp nhập các doanh nghiệp nhằm làm tăng khả năng cạnh
tranh và tính hiệu quả của chính các doanh nghiệp này. ởnhiều nước, số lượng các công ty cổ phần
mới ngày càng gia tăng. Đồng thời với các chính sách khuyến khích phát triển, Chính phủ các
nước cũng tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường. Uỷ ban chứng khoán ư
cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán được thành lập. Ví dụ, Uỷ
ban chứng khoán Anh được thành lập năm 1968, Uỷ ban các nghiệp vụ chứng khoán Pháp được
thành lập năm 1967, Uỷ ban chứng khoán Thái Lan thành lập năm 1992. Hệ thống các văn bản
pháp luật cũng được hoàn thiện hơn để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tưvà chống lại các hành
vi phi đạo đức trong kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, một loạt các công cụ tài chính mới được tạo ra nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của
nhà phát hành và các nhà đầu tư. Các công cụ này được hình thành từ việc lai ghép các công cụ sẵn
có, nhằm tận dụng các lợi thế về pháp lý hoặc kết hợp giữa các lợi thế của vốn chủ sở hữu với lợi

thế của vốn vay. Điều này không chỉ giúp cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn với chi phí
thấp hơn, dễ thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, mà còn tạo nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho các nhà đầu tư.
Hàng loạt các công cụ phòng vệ cũng xuất hiện nhưcác hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn và
các công cụ dẫn suất mới. Các công cụ này vừa làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư, vừa tăng tính
lỏng của tài sản, trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho nhà phát hành.
Thứ ba, các nước tiến hành thành lập các thị trường giao dịch qua quầy với các yêu cầu niêm yết ít
chặt chẽ hơn nhằm tạo điều kiện cho các công ty mới và các doanh nghiệp có tầm cỡ trung bình có
thể tham gia thị trường. Bởi vậy, cơ hội huy động vốn cho các doanh nghiệp cũng nhưkhả năng đa
dạng hoá danh mục đầu tưcho các nhà kinh doanh chứng khoán được gia tăng đáng kể.
Thứ tư, thị trường chứng khoán đã có sự đổi mới mạnh mẽ về kỹ thuật. Các thị trường được tin
học hoá triệt để, đồng thời với các cải cách về nghiệp vụ giao dịch, nghiệp vụ lưu ký và thanh toán,
cải cách về tiền hoa hồng v.v đã làm giảm chi phí trung gian, giảm thời gian và tăng khối lượng
giao dịch qua thị trường. Điều này được đặc biệt ghi nhận tại thị trường chứng khoán London qua
cải cách có tên gọi “Big Bang” năm 1986. Nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật đó, thị trường
chứng khoán ngày nay phát triển mạnh mẽ với mức độ quốc tế hoá ngày càng cao. Sự thống nhất
Châu Âu đã hợp nhất hàng loạt các thị trường chứng khoán, tạo cơ hội mới cho việc phát triển thị
trường.
Thứ năm, thành lập thị trường các công cụ dẫn suất (Derivatives Markets). Năm 1986, Pháp thành
lập thị trường MATIF (Marché à Terme International de France) và đến năm 1987, thành lập thêm
thị trường MONEP (Marché d’Options Négociables de Paris). Các thị trường này được thành lập
để tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế và các nhà kinh doanh chứng khoán có khả năng phòng
ngừa các rủi ro liên quan đến các biến động về giá cổ phiếu, về lãi suất và tỷ giá hối đoái, đồng thời
làm tăng vốn khả dụng trên thị trường giao ngay, thông qua khả năng kinh doanh chênh lệch giá.
Chính các thị trường này cũng thúc đẩy hiện đại hoá thị trường tài chính Pháp và giúp cho thị
trường này cạnh tranh được với trung tâm tài chính London.
Thứ sáu, đẩy mạnh sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán, đặc biệt
sau khủng hoảng tài chính năm 1987, người ta đã nhận ra rằng, các thành viên lớn nhất của Sở giao
dịch chứng khoán London không thể có đủ lượng vốn cần thiết để cạnh tranh với các nhà kinh
doanh chứng khoán của Mỹ và Nhật Bản. Vì thế, các nhà quản lý vốn bảo thủ của Anh đã phải nới
rộng các điều kiện cho phép các trung gian tài chính, trong đó có các ngân hàng thương mại, tham

gia vào thị trường, và chính điều đó đã làm tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán.
Thứ bảy, sự hiện đại hoá thị trường vay nợ của Chính phủ tạo điều kiện cho Nhà nước có thể tăng
cường huy động các nguồn tài chính trên thị trường với các chi phí thấp hơn, tránh nguy cơ lạm
dụng phát hành để tài trợ cho Ngân sách và tạo điều kiện thực hiện chính sách tiền tệ. Với những
cải cách đó, thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh dẫn vốn quan trọng, một thực thể
không thể thiếu được đối với nền kinh tế hiện đại.
Bài học kinh nghiệm
Có thể nói khủng hoảng thị trường bất động sản tại Mỹ đã tác động rất lớn đến toàn bộ nền
kinh tế. Trong đó thị trường tài chính và hoạt động của các NHTM nước này chịu tác động
ảnh hưởng lớn nhất và trực tiếp, mà hậu quả của nó là nhiều Ngân hàng mất khả năng thanh
khoản phải sáp nhập, hợp nhất hoặc đóng cửa; hoặc được Chính phủ mua lại. Nguyên nhân
bản chất của tình hình xuất phát từ chính các khoản cho vay bất động sản phát sinh nợ xấu,
khách hàng vay không có khả năng trả nợ, do thị trường bất động sản khủng hoảng. Theo đó
lượng bán ra ào ạt, với giá thấp song không có người mua, đã dẫn đến hiện tượng đóng băng
của thị trưòng này liên tục trong nhiều tháng qua. Diễn biến này đã tác động ảnh hưỏng chung
đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế Mỹ, trong đó các chính sách vĩ mô (về lãi suất;
về tái cấp vốn và tài trợ của Chinh phủ) liên tục được đưa ra, điều chỉnh nhằm khôi phục nền
kinh tế. Thực tế này là bài học kinh nghiệm lớn đối với mọi nền kinh tế nói chung và kinh tế
Việt Nam nói riêng. Trong đó thị trường tài chính nước ta, cần có những nhìn nhận đầy đủ
hơn về quá trình phát triển và các biện pháp tăng trưởng đảm bảo sự phát triển ổn định, hiệu
quả và bền vững.
Sự phát triển của thị trường tài chính không chỉ gắn liền với sự phát triển của mỗi nền kinh tế
- đây là bước phát triển mang tính khách quan. Tuy nhiên đi kèm đó là quá trình phát triển các
công cụ của thị trường, các sản phẩm của thị trường - điều này phản ánh trình độ phát triển
của thị trường tài chính mỗi quốc gia. Trong đó công cụ chứng khoán hoá – như là động lực
thúc đẩy thị trường tài chính Mỹ và các các nước phát triển khác trên thế giới phát triển nhanh
và hiệu quả trong suốt các thập kỷ qua. Song bên cạnh đó công cụ này cũng đã và đang phát
sinh những tồn tại hạn chế nhất định, mà thực tiễn cuộc khủng hoảng thị trường bất động sản
đã và đang minh chứng cho những tồn tại hạn chế của công cụ chứng khoán hoá và đó cũng
chính là bài học kinh nghiệm rất lớn, quý báu đối với quá trình phát triển và ứng dụng công cụ

này đối với thị trường tài chính nước ta. Với ý nghĩa đó bài viết đặt vấn đề phân tích và đưa ra
những bài học kinh nghiện từ khủng hoảng thị trường bất động sản Mỹ đối với việc ứng dụng
và phát triển kỹ thuật chứng khoán hoá tại Việt Nam.
v Ứng dụng và Phát triển kỹ thuật chứng khoán hoá là cần thiết. Sự cần thiết này xuất
phát từ chính đòi hỏi phát triển của thị trường tài chính, của nền kinh tế và gắn liền với các
lợi ích cơ bản mà kỹ thuật chứng khoán hoá mang lại. Điều này thể hiện trên 04 phương
diện sau:
1. Thực hiện chứng khoán hoá, cho phép khắc phục được những tồn tại hạn chế về nguồn vốn
cho vay trung dài hạn của các Ngân hàng thương mại. Đồng thời đảm bảo cho các NHTM
hoạt động hiệu quả, đúng bản chất - hoạt động trên thị trường tiền tệ nhằm đáp ứng vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh và vốn lưu động của doanh nghiệp. Hiện nay các Ngân hàng
thương mại được sử dụng nguồn vốn cho vay trung dài hạn bao gồm: nguồn vốn huy động
trung dài hạn; tỷ lệ vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung dài hạn và vốn chủ sở hữu. Tuy
nhiên nguồn vốn cho vay trung dài hạn của các Ngân hàng hạn chế, chỉ đáp ứng được khoảng
50% -60% nhu cầu vay vốn trung dài hạn. Bộ phận vốn còn lại sử dụng nguồn ngắn hạn.
Thực tế này tạo áp lực rất lớn về nguồn vốn cho vay trung dài hạn của các Ngân hàng thương
mại nói chung và cho vay bất động sản nói riêng, tạo ra khó khăn thực sự về nguồn vốn để
đáp ứng nhu cầu tín dụng bất động sản. Do vậy việc áp dụng, thực hiện các giải pháp huy động về
vốn có tính chiến lược và ý nghĩa căn bản, với việc áp dụng kỹ thuật chứng khoán
hoá các tài sản tài chính nói chung và các khoản tín dụng bất động sản nói riêng của các Ngân
hàng thương mại trong điều kiện hiện nay là cần thiết và có ý nghĩa thực hiện, thực thi cao.
Trong trường hợp đó các khoản nợ cho vay bất động sản sẽ được các Ngân hàng thương mại
bán cho các tổ chức trung gian đặc biệt (là cơ sở để các tổ chức này phát hành trái phiếu – trái
phiếu dựa trên các khoản nợ cho vay bất động sản) và do đó các Ngân hàng thương mại có thể
mở rộng khả năng cho vay thời hạn dài từ 20-30 năm. Đồng thời tạo điều kiện cho các Ngân
hàng thương mại đẩy nhanh quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, khai thác và sử dụng vốn
hiệu quả.
2. Thúc đẩy thị trường tài chính phát triển: Thực tế hiện nay, thị trường tài chính, thị trường
chứng khoán phát triển nước ta mới chỉ phát triển ở mức độ thấp, mặc dù đạt được những
kết quả nhất định về tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán trong những năm qua(về

số lượng nhà đầu tư; về giá; về các công ty chứng khoán ) tuy nhiên đánh giá chung, trình
độ phát triển của thị trường vẫn chưa cao và chưa đầy đủ. Sự phát triển của thị trường vốn, thị
trường chứng khoán nước ta mới ở trình độ thấp và giai đoạn đầu phát triển. Một trong
nguyên nhân cơ bản đó là lượng hàng hoá (các loại chứng khoán: cổ phiếu; trái phiếu; giấy tờ
có giá ) còn ít và chưa đa dạng. Sự phát triển của thị trường vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề đặt
ra cần quan tâm như tăng trưởng thiếu ổn định; sự hạn chế về công nghệ và hạ tầng thông tin;
tính chuyên nghiệp của các công ty chứng khoán còn hạn chế; nhà đầu tư thiếu trình độ và
mang nặng yếu tố tâm lý, bầy đàn Chính vì lẽ đó việc thực hiện chứng khoán hoá các
khoản tín dụng bất động sản sẽ là nguồn cung cấp hàng hoá cho thị trường, góp phần kích
thích thị trường phát triển. Đồng thời đa dạng hoá danh mục hàng hoá, tạo ra nhiều sự lựa
chọn cho các nhà đầu tư.
3. Chứng khoán hoá tạo điều kiện phát triển hoàn thiện các loại thị trường có liên quan: tín
dụng; chứng khoán và thị trường bất động sản. Việc chứng khoán hoá các khoản tín dụng bất
động sản sẽ cho phép đáp ứng tốt nhất nhu cầu về các sản phẩm bất động sản của người dân,
của nền kinh tế. Trên cơ sở tạo ra nguồn vốn lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển bất động sản;
phát triển nhà ở cũng như tạo ra nguồn vốn cho các Ngân hàng thương mại để tiếp tục cho
vay mở rộng và tăng trưởng tín dụng bất động sản.
4. Tạo điều kiện sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế - xã hội: Chứng khoán hoá
các khoản tín dụng bất động sản của các Ngân hàng thương mại tạo điều kiện khai thác và
sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực trong xã hội, trong nền kinh tế. Theo đó các khoản vốn nhàn
rỗi trong dân cư được thu hút thông qua việc người dân đầu tư , mua các chứng khoán hoá
dựa trên các khoản cho vay bất động sản. Trên cơ sở đó cùng với các hình thức đầu tư khác
như gửi tiền ngân hàng; mua vàng tích luỹ; kinh doanh người dân có thêm sự lựa chọn các
chứng khoán hoá từ các khoản cho vay bất động sản để đầu tư. Dưới góc độ vĩ mô, việc ra
đời của loại chứng khoán mới (chứng khoán hoá trên cơ sở các khoản tín dụng bất động sản)
sẽ thu hút, khai thác mọi nguồn vốn nhỏ lẽ, nhàn rỗi trong nền kinh tế để sử dụng đầu tư vào
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tạo khả năng sinh lợi cao, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tiếp
tục tăng trưởng và phát triển.
Tuy nhiên để phát triển và ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hoá tại Việt Nam, không chỉ cần
một quá trình (về chuẩn bị cơ sở hạ tầng kỹ thuật: luật pháp; các tổ chức tài chính liên quan;

cơ chế chính sách ) mà cần có đánh giá nhìn nhận đầy đủ hơn về lợi ích cũng như những tác
động không tích cực của công cụ này trong tương lai mà hậu quả của cuộc khủng hoảng thị
trường tín dụng bất động sản đã và đang diễn ra tại Mỹ như là bài học kinh nghiệm thực tiễn
quý báu đối với qúa trình ứng dụng và phát triển kỹ thuật này tại Việt Nam.
v Chứng khoán hoá tại Mỹ và những bài học kinh nghiệm:
Như chúng ta đều biết chứng khoán hoá là công cụ tài chính hiện đại, được phát triển từ năm
1977 tại Mỹ và phát triển mạnh vào những năm 90 của thế kỷ trước. Tiếp cận theo hướng đơn
giản và dễ hiểu nhất, chứng khoán hoá là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài sản
có trên bảng cân đối kế toán (như: các khoản cho vay bất động sản; các khoản cho vay
tiêu dùng; cho vay thẻ tín dụng; cho vay thương mại ) làm tài sản đảm bảo cho việc phát
hành các loại chứng khoán nợ. Nói cách khác đây là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên
cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu hồi được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn
có. Trong đó các nhà đầu tư mua chứng khoán này chấp nhận rủi ro liên quan tới danh mục tài
sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hoá.
- Tại Mỹ 2 tổ chức là Fannie Mae và Freddie Mac, là hai tổ chức tài chính lớn nhất thực hiện
vai trò là tổ chức trung gian chuyên trách (SPV) thực hiện nghiệp vụ chứng khoán hoá. Theo
đó 2 định chế tài chính trung gian này mua các khoản nợ cho vay thế chấp nhà ở; bất động sản
của các NHTM, và thực hiện chứng khoán hoá các khoản nợ này thành các chứng khoán nợ
(phát hành chứng khoán trên cơ sở các khoản tín dụng thế chấp, có bảo đảm bằng nhà ở; bất
động sản) và bán cho nhà đầu tư (thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán). Qúa trình
này không chỉ đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn cho các ngân hàng thương mại và cho thị
trường tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên khi
thị trường bất động sản biến động và khủng hoảng từ thị trường này xảy ra đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến Fannie Mae và Freddie Mac và các NHTM có liên quan cũng như toàn bộ
hệ thống tài chính Mỹ và nền kinh tế Mỹ, với 02 rủi ro cơ bản sau:
Thứ nhất: Rủi ro thanh khoản. Khi khủng hoảng xảy ra, các khoản đầu tư bất động sản (nhà
cửa, đất đai ) không có khả năng thu hồi xuất hiện với mức độ cao, cường độ mạnh, nhiều
khoản nợ mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng trực tiếp và trước tiên đến tổ chức chuyên
trách, các công ty chứng khoán hoá (các khoản nợ vay mua nhà; vay thế chấp bất động sản;
vay đầu tư kinh doanh bất động sản đều quá hạn, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh

doanh của các tổ chức này thua lỗ xuất hiện và thậm chí trên bờ vực của phá sản).
Thứ hai: Thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng lớn. Trong đó giá các loại cổ phiếu của các
định chế tài chính trung gian giảm mạnh, tạo yếu tố tâm lý bất an từ nhà đầu tư và gây nên
hiệu ứng bất lợi đối với toàn bộ nền kinh tế. Mức độ tiềm ẩn khủng hoảng tài chính và khủng
hoảng nền kinh tế là rất lớn.
v Hai nguyên nhân bản chất:
+ Nợ dưới chuẩn cao: Tăng trưởng tín dụng quá mức của các định chế tài chính vào lĩnh vực
bất động sản, nhà đất bằng việc mở rộng tín dụng đối với các đối tượng có mức tín nhiệm
thấp, không cần bảo chứng đủ tin cậy nhằm thu lợi nhuận nhanh (lãi suất cho vay cao. Trong
khi đó lãi suất huy động tiền gửi thấp) của các tổ chức tài chính tại Mỹ đã dẫn đến tỷ lệ nợ
xấu, nợ dưới chuẩn gia tăng và hệ quả là mất khả năng thanh toán. Đây là một trong nguyên
nhân chính xuất phát từ chính chất lượng tín dụng; chất lượng nợ thấp mà trong quá trình hoạt
động kinh doanh các định chế tài chính đã xem nhẹ.
+ Tồn tại hạn chế của chính công cụ chứng khoán hoá: vai trò của chứng khoán hóa như đã
phân tích ở phần trên là không nhỏ và được xem như là công cụ tài chính mới – “ phát minh”
mới. Song khi khủng hoảng trên thị trường địa ốc xảy ra, cùng với việc “nới lỏng” cho vay
của các định chế tài chính, nợ xấu gia tăng nhanh và làm mất khả năng thanh toán của các
định chế tài chính này, hệ quả là cuộc khủng hoảng thị trường tài chính Mỹ tiếp tục lan toả và
tác động đến toàn bộ hệ thống tài chính và nền kinh tế Mỹ như hiện nay. Thực tế cho thấy bản
chất chứng khoán hoá bất động sản của các Công ty tài chính Mỹ - đã tạo ra khả năng cho vay
của các định chế này (nhờ phát hành chứng khoán nợ - trên cơ sở các khoản tín dụng bất động
sản). Trong đó tiền thu bán chứng khoán được các tổ chức tài chính trả nợ ngắn hạn (tiền gửi
huy động). Về mặt lý thuyết mọi rủi ro về nợ sau khi bán chứng khoán thuộc về người mua
chứng khoán (nhà đầu tư) chứ không phải công ty tài chính. Tuy nhiên khi khủng hoảng xảy
ra, người vay tiền mua nhà mất khả năng thanh toán , nợ xấu phát sinh, ảnh hưởng trực tiếp
đến nguồn thu lãi của các công ty tài chính và phá sản như là một tất yếu. Nhờ chứng khoán
hoá, quá trình này diễn ra chậm hơn, song mức độ lan toả thì lớn hơn rất nhiều vì nó liên quan
trực tiếp đến 02 thị trường quan trọng là: thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Như
vậy rủi ro xuất hiện và tác động là rất lớn và đây cũng là bài học kinh nghiệm thực tiễn
quý báu đối với các định chế tài chính khác; các nền kinh tế khác đã và đang phát triển hoặc

chuẩn bị phát triển công cụ tài chính hiện đại này. Cụ thể đó là các bài học kinh nghiệm sau:
Bài học thứ nhất: Rủi ro phát sinh và tác động của rủi ro đến nền kinh tế là rất lớn. Rủi ro
này xuất phát từ chính phương pháp, cách thức tạo khủng hoảng. Theo đó cuộc khủng hoảng
thị trường bất động sản và nợ xấu phát sinh làm khủng hoảng thị trường tín dụng bất động sản
tại Mỹ trong thời gian qua chỉ là bề nổi của vấn đề. Bản chất sâu xa của cuộc khủng hoảng
này xuất phát từ chính cách thức tạo khủng hoảng – Đó là nghiệp vụ chứng khoán hoá. Thông
qua nghiệp vụ này, các NHTM cho vay bất động sản đã có thể chuyển rủi ro của hoạt động
này sang cho tổ chức khác (tổ chức thực hiện chứng khoán hoá các khoản nợ bất động sản).
Chính điều này đã kích thích các NHTM mở rộng và tăng trưởng tín dụng bất động sản quá
mức và rủi ro xuất hiện mang tính tất yếu khi thị trường bất động sản biến động và khủng
hoảng.
Bài học thứ hai: các NHTM cần tôn trọng đầy đủ các nguyên tắc và điều kiện tín dụng trong
mọi trường hợp. Đảm bảo các khoản cho vay nói chung và cho vay bất động sản nói riêng có
chất lượng. Khủng hoảng tín dụng bất động sản dẫn tới nhiều định chế tài chính trung gian
như: các NHTM; các tổ chức tài chính lớn; các công ty chứng khoán hoá tại Mỹ gặp phải
vấn đề về thanh khoản; kinh doanh thua lỗ xuất phát từ chính việc xem nhẹ hoạt động cho vay
và qúa “tự tin” vào sự phát triển của thị trường bất động sản (thị trường bất động sản của Mỹ
liên tục tăng trưởng tốt trong một thời gian dài). Hậu quả là khi thị trường điều chỉnh mạnh,
các khoản cho vay bất động sản bắt đầu phát sinh nợ xấu, và tạo ra hiệu ứng dây chuyền ảnh
hưởng rất lớn đến hệ thống tài chính của Mỹ.
+ Chất lượng tín dụng bất động sản là yếu tố quyết định. Các NHTM trong nước cần có quy
định, quy chế chặt chẽ về cho vay lĩnh vực này nhằm hạn chế tối đa rủi ro do biến động thị
trường. Mặt khác khai thác và sử dụng vốn hợp lý chỉ sử dụng vốn trung dài hạn để cho vay
và cho vay phù hợp với năng lực, khả năng tài chính của mỗi đơn vị.
Bài học thứ ba: Phát triển và ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hoá cần chuẩn bị kỹ lưỡng và
có bước đi thích hợp. Rõ ràng hiệu ứng từ khủng hoảng thị trường bất động sản Mỹ và hệ
thống tài chính nước này có sức lan toả lớn hơn rất nhiều bởi kỹ thuật chứng khoán hoá, thông
qua đó nó tác động đến toàn bộ hệ thống tài chính (đối với thị trường tín dụng; đối với tổ chức
phát hành; đối với thị trường chứng khoán ). Mặc dù hệ thống pháp luật của Mỹ đối với thị
trường tài chính nói chung và đối với kỹ thuật chứng khoán hoá nói riêng đã rất đầy đủ (từ

quy định về cơ chế hoạt động; đến hệ thống các tổ chức có liên quan như tỏ chức định mức tín
nhiệm; tổ chức phát hành; thị trường bất động sản; thị trường chứng khoán phát triển đạt mức
hoàn thiện). Đây là bài hoc kinh nghiệm về xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đầy đủ -
Yêu cầu mang tính kỹ thuật và quyết định đến việc phát triển và ứng dụng kỹ thuật chứng
khoán hoá.
+ Chỉ thực hiện phát triển công cụ này khi hội tụ đủ các điều kiện và phù hợp với trình độ
phát triển của thị trường tài chính và nền kinh tế. Trong đó đảm bảo khai thác đúng vai trò ý
nghĩa của công cụ này là giúp người dân mua được nhà, chứ không phải để tái tài trợ cho
những người không có khả năng tài chính như các Công ty tài chính Mỹ đã thực hiện trong

×