Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Công tác quản lý vốn tại chi nhánh công ty gang thép thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.64 KB, 39 trang )

Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 1 -
Tiểu luận
Công tác quản lý
vốn tại chi nhánh
công ty gang thép
Thái Nguyên
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
Mục lục
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN
1. Khái quát về tổ chức công tác kiểm toán
1.1 Tổ chức
Là mối liên hệ giữa các yếu tố trong một hệ thống .Mức độ liên hệ này
được xác định qua biên độ giao động từ không đến một.Ở mức độ không,
các yếu tố trong cùng một hệ thống không tồn tại bất kì mối liên hệ nào. Khi
đó hệ thống rơi vào tình trạng tan rã hay vô tổ chức.Ở độ một, ngược lại ,các
yếu tố quan hệ chặt chẽ,khoa học và hệ thống hoạt động ở mức độ tối ưu .
1.2 Tổ chức kiểm toán
Là khái niệm bao hàm trình tự kiểm toán .Một cuộc kiểm toán chỉ có
thể thực hiện thành công nếu đối tượng kiểm toán được xác định thống nhất
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 2 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
giữa chủ thể và khách thể kiểm toán, trong đó chủ thể kiểm toán được xác
định rõ mục tiêu và phạm vi kiểm toán và kết hợp khéo léo các phương pháp
kĩ thuật theo trình tự kiểm toán trong khuôn khổ những cơ sở pháp lý nhất
định để thực hiện cuộc kiểm toán, thoả mãn nhu cầu khách thể kiểm toán và
các bên quan tâm.theo đó tổ chức kiểm toán là một vấn đề cơ bản,có ý nghĩa
quyết định sự thành côngvà tính hiệu quả thực hiện một cuộc kiểm toán.


1.3 Trình tự
Là thứ tự diễn ra từ đầu đến cuối của một vấn đề đã được xắp xếp dự
tính từ trứơc lúc xảy ra hiện tượng đó.
1.4 Trình tự kiểm toán
Là một quy trình chung với 3 bước cơ bản
- Chuẩn bị kiểm toán
-Thực hành kiểm toán
- Kết thúc kiểm toán
2. Nội dung tổ chức công tác kiểm toán
2.1 Chuẩn bị kiểm toán
2.1.1 Lập kế hoạch
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên
cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý
cũng như những điều kiện cần thiết khác cho kiểm toán.
Việc lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của
cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm
toán, cho cuộc kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm
toán đã được quy định thành chuẩn mực và đòi hỏi các kiểm toán viên phải
tuân theo đầy đủ nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và
chất lượng.
2.1.2 Quy trình kiểm toán
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 3 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
Để đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế và tính hiệu lực của từng cuộc
kiểm toán cũng như để thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ có giá trị làm
căn cứ cho kết luận của kiểm toán viên về tính trung thực và hợp lý của số
liệu trên Báo cáo tài chính, cuộc kiểm toán thường được tiến hành theo quy
trình gồm ba giai đoạn như sau: lập kế hoạch và thiết kế các phương pháp
kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán, hoàn thành cuộc kiểm toán và

công bố báo cáo kiểm toán.
Sơ đồ 1: Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán
Giai đoạn I
Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm
Giai đoạn II
Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn III
Hoàn thành kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán
2.1.3 Trình tự giai đoạn lập kế hoạch và thiết kế phương án kiểm toán
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 4 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
Để giúp cho việc lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
được thực hiện có hiệu quả, các giám đốc kiểm toán và các kiểm toán viên
cao cấp thường lập chiến lược kiểm toán.
2.1.4 Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán
Quy trình kiểm toán bắt đầu khi kiểm toán viên và Công ty kiểm toán
thu nhận một khách hàng. Công ty kiểm toán sẽ tiến hành các công việc cần
thiết để chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán bao gồm: đánh giá khả năng chấp
nhận kiểm toán, nhận diện các lý do kiểm toán, lựa chọn đội ngũ nhân viên
kiểm toán và ký hợp đồng kiểm toán.
- Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán thông qua việc xem xét hệ
thống kiểm soát và xem xét tính liêm chính của ban giám đốc khách hàng
thông qua việc phỏng vấn các kiểm toán viên tiền nhiệm. Từ đó, xác định
khả năng có thể kiểm toán được công ty khách hàng.
- Nhận diện lý do kiểm toán của công ty khách hàng, để thực hiện việc
này kiểm toán viên có thể phỏng vấn trực tiếp ban giám đốc khách hàng
hoặc dựa vào kinh nghiệp của những cuộc kiểm toán trước.
- Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán: trong quá trình lựa chọn
nhân viên kiểm toán phải chú trọng đến 3 vấn đề:

+ Trong nhóm hay trong đoàn kiểm toán phải có những người có khả
năng giám sát cuộc kiểm toán.
+ Tránh thay đổi kiểm toán viên cho các cuộc kiểm toán đối với một
khách hàng trong nhiều năm.
+ Lựa chọn những kiểm toán viên có kiến thức và kinh nghiệm về
nghành nghề kinh doanh của khách hàng.
- Lập hợp đồng kiểm toán: khi chấp nhận kiểm toán thì công ty kiểm
toán lập một hợp đồng kiểm toán để tránh bất đồng trong hoặc sau cuộc
kiểm toán. Hợp đồng kiểm toán là thoả thuận chính thức giữa Công ty kiểm
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 5 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
toán và khách hàng về việc kiểm toán và thực hiện các dịch vụ có liên quan
khác. Về mặt pháp lý hợp đồng kiểm toán là hợp đồng kinh tế và bao gồm
các nội dung chủ yếu sau:
+ Mục đích và phạm vi kiểm toán.
+ Trách nhiệm của ban giám đốc công ty khách hàng và công ty kiểm toán.
+ Hình thức thông báo kết quả kiểm toán.
+ thời gian tiến hành, kết thúc và phát hành báo cáo kiểm toán.
+ Căn cứ tính giá phí của cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán.
+ Chỉ rõ trách nhiệm của kiểm toán viên và Công ty kiểm toán không liên
quan tới những sai sót do bản chất của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ
của khách hàng.
2.1.5 Thu thập thông tin cơ sở
- Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng. Cụ
thể, mỗi ngành nghề có một hệ thống kế toán riêng và có những nguyên tắc
đặc thù. Để tìm hiểm ngành nghề kinh doanh của công ty khách hàng có thể
trao đổi với kiểm toán viên tiền nhiệm hoặc trực tiếp trao đổi với nhân viên,
ban giám đốc của khách hàng. Ngoài ra kiểm toán viên có thể có được
những hiểu biết đó qua việc nghiên cứu các sách báo, tạp chí chuyên

nghành, và ở Việt Nam kiểm toán viên có thể lấy các thông tin từ Niên giám
thống kê do Tổng cục Thống kê phát hành hàng năm.
1 - Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán
thường xuyên. Các hồ sơ kiểm toán thường xuyên thường chứa đựng rất
nhiều thông tin về khách hàng, về công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức và
các đặc điểm hoạt động khác. Ngoài ra đa phần các công ty kiểm toán đều
duy trì hồ sơ kiểm toán thường xuyên đối với mỗi khách hàng. Hồ sơ này có
các bản sao của các tài liệu như: sơ đồ tổ chức bộ máy, điều lệ công ty,
chính sách tài chính, kế toán… Qua đó kiểm toán viên sẽ tìm thấy những
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 6 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
thông tin hữu ích về công việc kinh doanh của khách hàng. Việc cập nhật và
xem xét các sổ sách của công ty là rất cần thiết vì qua đó kiểm toán viên
không chỉ xác định được các quyết định của các nhà quản lý có phù hợp với
pháp luật của Nhà nước, với các chính sách hiện hành của công ty hay
không mà còn giúp kiểm toán viên hiểu được bản chất của các số liệu cũng
như sự biến động của chúng trên các báo cáo tài chính được kiểm toán.
1 - Tham quan nhà xưởng, kho bãi, trụ sở làm việc của công ty khách
hàng. Công việc này cung cấp cho kiểm toán viên một bức tranh tổng thể về
hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty khách hàng, về sản phẩm tồn
kho, dây truyền công nghệ, cách phân công công tác, phong cách quản lý
điều hành của ban giám đốc.
2 - Nhận diện các bên hữu quan: phải được thực hiện ngay trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thông qua phỏng vấn ban giám đốc, xem sổ
theo dõi cổ đông, các bên tham gia góp vốn, hoặc sổ theo dõi khách hàng.
Từ đó dự đoán các vấn đề có thể phát sinh để hoạch định một kế hoạch kiểm
toán phù hợp hơn.
3 - Dự kiến nhu cầu đối với các chuyên gia bên ngoài: kiểm toán viên
phải đánh giá khả năng chuyên môn, mục đích, phạm vi công việc của họ,

cũng như việc sử dụng tài liệu của các chuyên gia bên ngoài cho các mục
tiêu kiểm toán.Ngoài ra, còn phải xem xét mối quan hệ giữa các chuyên gia
bên ngoài với khách hàng hoặc các yếu tố có thể ảnh hưởng tới tính khách
quan của chuyên gia đó.
2.1.6 Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng
Nếu các thông tin cơ sở được thu thập ở trên giúp cho kiểm toán viên
hiểu được về các mặt hoạt động kinh doanh của khách hàng thì việc thu thập
các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng giúp cho kiểm toán viên
nắm bắt được các quy trình mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến các mặt
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 7 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
hoạt động kinh doanh này, những thông tin này được thu thập trong quá
trình tiếp xúc với Ban giám đốc khách hàng bao gồm các loại sau:
1 - Giấy phép thành lập và điều lệ thành lập của công ty khách hàng.
Việc nghiên cứu những giấy tờ này giúp cho kiểm toán viên hiểu được quá
trình hình thành, mục tiêu hoạt động và những lĩnh vực kinh doanh hợp pháp
của đơn vị.
2 - Các báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán, biên bản thanh tra, kiểm
tra của năm hiện hành hoặc một vài năm trước. Các báo cáo trên cung cấp về
thực trạng tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh và dự kiến về phương án
kiểm tra thông qua các biên bản kiểm tra, thanh tra trước.
3 - Biên bản họp của hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và ban giám
đốc. Thông qua việc nghiên cứu các biên bản này kiểm toán viên sẽ xác định
được những yếu tố ảnh hưởng tới thông tin trên báo cáo tài chính.
1 - Các hợp đồng và cam kết quan trọng: Trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán việc xem xét sơ bộ các hợp đồng đó giúp cho kiểm toán viên hình
dung được những khía cạnh pháp lý có ảnh hưởng đến tình hình tài chính và
kết quả hoạt động của đơn vị.
2.1.7 Thiết kế chương trình kiểm toán

2.1.7.1 Chương trình kiểm toán
Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về các công việc
kiểm toán cần thực hiện, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa
các kiểm toán viên cũng như dự kiến về những tư liệu, thông tin liên quan
cần sử dụng và thu thập. Trọng tâm của chương trình kiểm toán là các thủ
tục kiểm toán cần thực hiện đối với từng khoản mục hay bộ phận được kiểm
toán.
2.1.7.2 Quy trình thiết kế chương trình kiểm toán
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 8 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
Chương trình kiểm toán của hầu hết các cuộc kiểm toán được thiết kế
thành 3 phần: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm phân tích và trắc nghiệm
trực tiếp các số dư. Mỗi phần được chia nhỏ thành các chu kỳ nghiệp vụ và
các khoản mục trên Báo các tài chính.
2.2 Thực hành kiểm toán
2.2.1 Khái quát quá trình thực hiện kế hoạch kiểm toán
Thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp
kỹ thuật kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập
bằng chứng kiểm toán. Đó là quá trình triển khai một cách chủ động và tích
cực các kế hoạch, chương trình kiểm toán nhằm đưa ra những ý kiến xác
thực về mức độ trung thực và hợp lý của Báo cáo tài chính trên cơ sở những
bằng chứng kiểm toán đầy đủ và tin cậy.
2.2.2 Thực hiện thủ tục kiểm soát
Thủ tục kiểm soát chỉ được thực hiện sau khi tìm hiểu hệ thống kiểm
soát nội bộ với đánh giá ban đầu là khách thể kiểm toán có hệ thống kiếm
soát nội bộ hoạt động có hiệu lực. Khi đó, thủ tục kiểm soát được triển khai
nhằm thu thập các bằng chứng kiểm toán về thiết kế và về hoạt động của hệ
thống kiểm soát nội bộ
2.2.3 Thực hiện thủ tục phân tich

Các giai đoạn chủ yếu thực hiện thủ tục phân tích:
- Phát triển một mô hình: kết hợp với các biến tài chính và hoạt động.
Khi phát triển một mô hình, chúng ta xác định các biến tài chính hoặc hoạt
động và mối quan hệ giữa chúng. chẳng hạn, chi phí về tiền lương có thể là
sản phẩm của các biến số như: số lượng nhân viên và mức tiền lương bình
quân hoặc số lượng sản phẩm và đơn giá tiền lương hoặc tỷ lệ tiền lương và
tổng chi phí hay doanh thu…Khi kết hợp được những biến độc lập có liên
quan, mô hình sẽ cho ta nhiều thông tin hơn và vì vậy dự đoán sẽ chính xác
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 9 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
hơn. Ngược lại, nếu mô hình và dự đoán đơn giản hoá quá nhiều cũng đồng
nghĩa với đơn giản hoá các phép so sánh và mức hạn của bằng chứng kiểm
toán. Để có thể tăng tính chính xác cho các dự đoán bằng cách phát triển mô
hình theo hướng chi tiết hoá dữ liệu, thậm chí chi tiết hoá thành nhiều mô
hình nhỏ hơn.
- Xem xét tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ: tính
độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ sử dụng trong mô hình
có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chính xác của dự đoán và tới bằng chứng
kiểm toán thu được từ thủ tục phân tích.
- Ước tính giá trị và so sánh với giá trị ghi sổ: dựa theo mô hình và trên
cơ sở dữ liệu độc lập và tin cậy có thể so sánh ước tính này với giá trị ghi sổ.
Phép so sánh này cần chú ý tới những xu hướng sau:
1 + Tính thường xuyên của việc đánh giá mối quan hệ đang được nghiên
cứu.
2 + Tính biến động tất yếu và biến động bất thường.
- Phân tích nguyên nhân chênh lệch: chênh lệch phát sinh có thể do số dư
tài khoản hay loại nghiệp vụ được kiểm toán chứa đựng sai sót nhưng có thể
chênh lệch được hình thành từ chính ước tính trong phân tích.
- Xem xét những phát hiện qua kiểm toán: bằng chứng kiểm toán thu

nhận được từ thủ tục phân tích cần được đánh giá do phát hiện qua kiểm
toán không chỉ bao gồm những sai sót trong tài khoản mà cả những quan sát
hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống thông tin và những vấn đề khác.
2.2.4 Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro
Nếu ở các bước trên, kiểm toán viên mới chỉ thu thập được các thông
tin mang tính khách quan về khách hàng thì ở bước này, kiểm toán viên sẽ
căn cứ vào các thông tin đã thu thập được để đánh giá, nhận xét nhằm đưa ra
một kế hoạch kiểm toán phù hợp.
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 10 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
2.2.4.1 Đánh giá mức trọng yếu
Trọng yếu là khái niềm dùng để chỉ tầm cỡ và bản chất các sai phạm
của các thông tin tài chính, hoặc đơn lẻ hoặc theo nhóm.
- Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải đánh
giá mức trọng yếu để ước tính mức độ sai sót trên báo cáo tài chính có thể
chấp nhận từ đó xác định nội dung và trình tự thực hiện các thử nghiệm
kiểm toán.
- Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải đưa ra
ước tính ban đầu về tính trọng yếu và phân bổ các ước tính ban đầu đó cho
các khoản mục
+ Ước tính ban đầu về mức trọng yếu: mức ước tính ban đầu về tính
trọng yếu là giá trị tối đa mà kiểm toán viên tin rằng tại giá trị tối đa đó các
báo cáo tài chính có thể bị sai nhưng không ảnh hưởng đến các quyết định
của những người sử dụng thông tin tài chính, hay nói cách khác là mức sai
sót có thể chấp nhận được đối với báo cáo tài chính.
Ý nghĩa: việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho kiểm toán
viên lập kế hoạch để thu thập bằng chứng kiểm toán một cách đầy đủ và
thích hợp. Cụ thể, nếu kiểm toán viên ước lượng mức trọng yếu càng thấp
thì độ chính xác của các số liệu trên các báo cáo tài chính càng cao và do đó

số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại.
- Yếu tố định lượng của tính trọng yếu : kiểm toán viên sử dụng các
bảng hướng dẫn của công ty kiểm toán trong việc xác định ban đầu về tính
trọng yếu. Trong đó, thu nhập thuần trước thuế, tài sản lưu động, tổng tài
sản… thường được chọn làm chỉ tiêu làm gốc.
-Yếu tố định tính của tính trọng yếu: Trong thực tế để đánh giá một
sai sót có phải là trọng yếu hay không thì kiểm toán viên không chỉ đánh giá
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 11 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
về mặt giá trị mà còn phải đánh giá về mặt bản chất của sai sót đó, trong đó
có một số sai sót luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô lớn hay nhỏ.
- Sau khi kiểm toán viên có được ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
thì kiểm toán viên cần phân bổ mức trọng yếu này cho từng khoản mục trên
báo cáo tài chính, đó chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng
khoản mục. Mục đích của việc phân bổ này nhằm giúp kiểm toán viên xác
định được số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với
từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất, mà vẫn đảm bảo được tổng hợp
các sai sót trên báo cáo tài chính không vượt quá ước lượng ban đầu về tính
trọng yếu.
- Do hầu hết các thủ tục kiểm toán thường tập trung vào các tài khoản
trên bảng cân đối kế toán nên việc phân bổ các ước lượng ban đầu về tính
trọng yếu thường được tiến hành đối với bảng cân đối kế toán. Việc phân bổ
được thực hiện theo cả hai chiều hướng mà các sai phạm có thể xảy ra là
khai khống và khai thiếu.
- Cơ sở để tiến hành phân bổ: dựa vào bản chất của các khoản mục,
đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kinh nghiệm của kiểm toán
viên và chi phí kiểm toán cho từng khoản mục. Trong thực tế khả năng xảy
ra sai sót cũng như chi phí kiểm toán cho từng khoản mục thường khó dự
đoán trước, cho nên sự phân bổ ban đầu ước lượng về mức trọng yếu thường

mang tính chủ quan đòi xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên.
2.2.4.2 Đánh giá rủi ro
Trên cơ sở mức trọng yếu và phân bổ mức trọng yếu thì kiểm toán
viên cần đánh giá khả năng xảy ra sai sót trọng yếu trên toàn bộ báo cáo tài
chính cũng như trên từng khoản mục để phục vụ cho việc thiết kế các thủ tục
kiểm toán và xây dựng chương trình kiểm toán phù hợp. Công việc này được
gọi là đánh giá rủi ro kiểm toán để lập kế hoạch kiểm toán.
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 12 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
- Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên thường phải
xác định một mức rủi ro kiểm toán mong muốn, mức rủi ro này được xác
định phụ thuộc vào hai yếu tố:
+ Mức độ mà theo đó người sử dụng thông tin tài chính bên ngoài tin
tưởng báo cáo tài chính.
+ Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo
kiểm toán được phát hành.
- Đánh giá rủi ro tiềm tàng: được thực hiện dựa vào các yếu tố:
1 + Báo cáo công việc kinh doanh của khách hàng
2 + Tính liêm chính của ban giám đốc
3 + Hợp đồng kiểm toán lần đầu hay hợp đồng kiểm toán đã ra
1 + Các nghiệp vụ kt bất thường
2 + Các ước tính kế toán
3 + Quy mô của các số dư trên các tài khoản
- Đánh giá rủi ro kiểm soát : liên quan đến sự yếu kém của hệ thống kiểm
soát nội bộ, rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá trên toàn bộ báo
cáo tài chính, cũng như đối với các khoản mục trên báo cáo tài chính.
- Đánh giá rủi ro phát hiện: được xác định từ 3 loại rủi ro trên, xảy ra do các
nhân tố :
1 + Kiểm toán viên thực hiện các bước kiểm toán không thích hợp do kế

hoạch kiểm toán chi tiết không được chú trọng hoặc do không áp dụng
quy trình hợp lý cho từng phần hành.
2 + Kiểm toán viên có phát hiện được các bằng chứng nhưng không nhận
thức được các sai sót cũng như ảnh hưởng của nó tới báo cáo tài chính.
3 + Hoàn toàn không phát hiện được sự sai sót do có sự thông đồng.
2.2.5 Thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết
2.2.5.1 Lập kế hoạch kiểm tra chi tiết
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 13 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
1 Bước này bao gồm những công việc chủ yếu như:
- Xác định mục tiêu của các biện pháp kỹ thuật: mục tiêu này có thể:
2 + Thu thập bằng chứng kiểm toán về sai phạm trọng yếu trong các cơ sở
dẫn liệu thuộc các mục tiêu kiểm toán.
3 + Ước tính giá trị chênh lệch kiểm toán đối với những cơ sở dẫn liệu của
Báo cáo tài chính đang chứa đựng khả năng có sai phạm trọng yếu.
- Lựa chọn các khoản mục trong tổng thể: bao gồm cả xác định số lượng
các khoản mục và chọn mẫu khoản mục để kiểm toán. Xác định mẫu chọn
cụ thể phải căn cứ vào tình hình thực tế của khách thể kiểm toán và kinh
nghiệm của kiểm toán viên. Với loại hình nghiệp vụ, xác định mẫu chọn cần
chú ý tới thời điểm chọn mẫu để bảo đảm tính đại diện của mẫu chọn.
2.2.5.2 Lựa chọn các khoản mục để kiểm tra chi tiết
Có thể áp dụng các biện pháp kiểm tra chi tiết với từng khoản mục
trong tổng số hoặc với nhóm các khoản mục. Nếu áp dụng các biện pháp
kiểm tra chi tiết không phải với tất cả các khoản mục trong một tài khoản thì
phải chấp nhận mức độ không chắc chắn của bằng chứng kiểm toán thu
được. Điều này có thể chấp nhận được vì những lý do sau:
1 - Trong kiểm toán cần thu nhận những bằng chứng kiểm toán có tính
thuyết phục chứ không phải là bằng chứng kiểm toán có tính kết luận.
2 - Có thể kết hợp bằng chứng kiểm toán từ nhiều nguồn.

3 - Chi phí kiểm tra tất cả các khoản mục là không kinh tế.
Khi không lựa chọn tất cả các khoản mục từ một tài khoản thì chúng ta
có thể lựa chọn một số khoản mục dựa trên cơ sở chọn điển hình những
khoản mục chính chính hoặc chọn mẫu đại diện hoặc kết hợp cả hai phương
pháp.
2.2.5.3 Lựa chọn khoản mục chính
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 14 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
Các khoản mục chính là những khoản mục mà dựa trên đánh giá, kinh
nghiệm và sự hiểu biết về tình hình kinh doanh của khách hàng, kiểm toán
viên thấy chúng là khoản mục không phát sinh thông thường, không dự đoán
trước được hay dễ có sai phạm. Để lựa chọn được những khoản mục chính
cần đọc những chứng từ tài liệu.
2.2.5.4 Thực hiện các biện pháp kỹ thuật kiểm tra chi tiết trên các khoản
mục đã chọn.
Trên cơ sở các khoản mục đã chọn, cần thực hiện các biện pháp kỹ
thuật để kiểm tra chi tiết. Có thể áp dụng các kỹ thuật kiểm toán thích hợp
đối với mỗi khoản mục lựa chọn để tiến hành kiểm tra chi tiết nhằm xác định
khả năng tồn tại những chênh lệch đến mức đòi hỏi điều tra và theo dõi.
Trong các biện pháp kỹ thuật kiểm tra chi tiết xác nhận và kiểm tra thực tế là
những kỹ thuật thường được áp dụng rộng rãi trong kiểm toán báo cáo tài
chính và cần được thực hiện trên cơ sở xác định.
+ Xác nhận: Xác nhận số dư và những nghiệp vụ bằng một nguồn bên
ngoài thường cung cấp bằng chứng kiểm toán có tính thuyết phục. Xác nhận
thường là một thủ tục kiểm toán có hiệu quả vì thủ tục này có thể xác nhận
được thời điểm bắt đầu của nghiệp vụ và những hoạt động xử lý nghiệp vụ
đó. Về loại xác nhận, tuỳ theo loại câu hỏi và câu trả lời tương ứng, có thể
áp dụng các loại xác nhận khác nhau: xác nhận mở, xác nhận đóng, xác nhận
chủ động, những thủ tục kiểm toán thay thế, và xác nhận thụ động.

+ Kiểm tra thực tế: kiểm tra thực tế được ứng dụng rộng rãi trong
kiểm toán tài sản nói chung và đặc biệt trong kiểm toán hàng tồn kho.
2.2.5.5 Đánh giá kết quả kiểm tra chi tiết
Cần đánh giá những bằng chứng kiểm toán đã thu thập được từ quá
trình kiểm tra chi tiết. Những phát hiện bao gồm các sai sót không chỉ về tài
khoản mà còn về chức năng hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 15 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
thống thông tin và có thể về tính khách quan của ban giám đốc, và năng lực
của đội ngũ nhân viên. Nếu sau kiểm tra xác đinh có chênh lệch kiểm toán
thì phải điều tra về tính chất và nguyên nhân, cân nhắc tính trọng yếu của
chênh lệch kiểm toán này trong cơ sở dẫn liệu Báo cáo tài chính về một mục
tiêu kiểm toán. Cũng cân nhắc ảnh hưởng của chênh lệch này đối với tình
hình kinh doanh của khách hàng.
2.2.6 Xử lý chênh lêch kiêm toán
Xử lý chênh lệch kiểm toán tuỳ thuộc vào loại chênh lệch kiểm toán,
nguyên nhân của những chênh lệch và cả những thủ tục tiến hành khi phát
hiện trong quá trình kiểm toán cho thấy có sai sót.
Các loại chênh lệch kiểm toán: cần được phân loại theo kỳ quyết toán
chênh lệch của năm trước và chênh lệch của năm nay.
Điều tra tính chất và nguyên nhân của những chênh lệch kiểm toán
cần được thực hiện với một mức độ hoài nghi nghề nghiệp thích hợp. Theo
đó, chênh lệch kiểm toán trước hết được phân loại theo tính chất của vi
phạm cố ý hoặc sai sót vô tình.
Những thủ tục tiến hành khi phát hiện dấu hiệu vi phạm tuỳ thuộc vào
mức độ ảnh hưởng tiềm tàng của nó tới báo cáo tài chính.
Báo cáo về những chênh lệch kiểm toán: cần được thực hiện ngay lập
tức cho Ban giám đốc và tuỳ thuộc vào hoàn cảnh có thể thông tin cho Hội
đồng quản trị trong những trường hợp sau đây:

1 - Phát hiện ra sai sót trọng yếu trong Báo cáo tài chính.
2 - Phát hiện ra một điểm yếu quan trọng hoặc một khía cạnh cần phải báo
cáo về hệ thống kiểm soát nội bộ.
1 - Phát hiện ra sai phạm cố ý.
2 - Tin rằng có tồn tại sai phạm thậm chí có ảnh hưởng không trọng yếu đối
với Báo cáo tài chính.
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 16 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
Với những chênh lệch kiểm toán không được sửa đổi cần lập một tóm
tắt tính trọng yếu của những chênh lệch này và xét khả năng ảnh hưởng của
chúng đến Báo cáo tài chính.
2.3 Kết thúc kiểm toán
2.3.1 Xem xét các khoản nợ ngoài dự kiến
Trong thực tế, có những sự kiện phát sinh trong năm có thể dẫn đến một
khoản công nợ hay thiệt hại mà cho đến thời điểm khoá sổ vẫn chưa thể xác
định liệu có thể chắc chắn xảy ra hay không, và số tiền cụ thể là bao nhiêu?
Những khoản công nợ hay thiệt hại đó được gọi là công nợ ngoài dự
kiến hay còn gọi là các khoản còn mập mờ. Đó là các nghĩa vụ có thể có do
một sự kiện đã xảy ra tạo nên; và việc nghĩa vụ này có thực sự có hay
không, và số tiền cụ thể là bao nhiêu thì còn tuỳ thuộc vào một số sự kiện
trong tương lai. Nói cách đây là những thiệt hại có thể chắc chắn xảy ra, hay
có thể xảy ra, hay là rất khó xảy ra, sự mập mờ đó chủ yếu là do tuỳ thuộc ở
các sự kiện tương lai. Các chuẩn mực kế toán thường yêu cầu khai báo các
khoản công nợ ngoài dự kiến trọng yếu trên Báo cáo tài chính dưới dạng chú
thích.
Các loại công nợ ngoài dự kiến thường có:
- Các vụ kiện chưa xét xử hoặc đang đe doạ về trách nhiệm pháp lý đối với
sản phẩm, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp v.v…
- Các sự tranh chấp về thuế với cơ quan thuế.

- Các bảo lãnh công nợ của người khác v.v…
- Các cam kết thường có mối quan hệ gần gũi với công nợ ngoài dự kiến.
Một số thủ tục kiểm toán để phát hiện các khoản công nợ ngoài dự kiến của
đơn vị:
1 - Trao đổi với người quản lý đơn vị về khả năng có thể có các khoản
công nợ ngoài dự kiến chưa được khai báo. Kiểm toán viên cần trình bày rõ
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 17 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
cho người quản lý biết về các khoản công nợ ngoài dự kiến nào cần phải
khai báo trên Báo cáo tài chính. Thủ tục phỏng vấn này chỉ hữu ích nếu
người quản lý đơn vị không có chủ định giấu các khoản công nợ này. Cuối
cùng, kiểm toán viên sẽ yêu cầu người quản lý đơn vị cung cấp một thư giải
trình xác định đã khai báo đầy đủ các khoản công nợ ngoài dự kiến mà đơn
vị đã biết.
2 - Gửi thư yêu cầu luật sư, hay tư vấn pháp lý của đơn vị cung cấp thư
xác nhận, trong đó:
+ Mô tả nội dung các vụ kiện hoặc bất đồng về thuế
+ Đánh giá hậu quả,
+ Đánh giá khả năng thiệt hại.
1 - Xem xét các biên bản họp hội đồng quản trị để biết được các hợp
đồng, các vụ kiện quan trọng v.v…
Sau cùng, kiểm toán viên cần đánh giá tầm quan trọng của các khoản
công nợ ngoài dự kiến và nội dung cần thiết khai báo trên Báo cáo tài chính.
Nếu khả năng xảy ra của các khoản công nợ này đã rõ, và sai số tiền thiệt hại
có thể ước tính gần đúng, nó cần được ghi nhận vào sổ kế toán như một
khoản công nợ thực sự. Nếu khả năng xảy ra của các khoản công nợ này là
hiếm, hoặc khoản công nợ không trọng yếu, lúc đó việc khai báo trên Báo
cáo tài chính sẽ là không cần thiết. Việc đánh giá của kiểm toán viên phải
được tiến hành một cách độc lập chứ không phải dựa vào ý kiến của đơn vị.

2.3.2 Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày khóa sổ kế toán
Phần lớn công việc quan trọng của một cuộc kiểm toán được tiến hành
sau ngày kết thúc niên độ. Riêng từ ngày kết thúc niên độ cho đến hoàn
thành Báo cáo kiểm toán, có thể xảy ra những sự kiện có ảnh hưởng đến việc
đánh giá hoặc khai báo trên Báo cáo tài chính. Do đó, kiểm toán viên còn có
trách nhiệm xem xét các sự kiện xảy ra trong thời gian này, tức là những sự
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 18 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
kiện hay nghiệp vụ xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán cho đến trước ngày hoàn
thành kiểm toán và phát hành Báo cáo kiểm toán.
Công việc xem xét sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán thường
được kiểm toán viên tiến hành vào cuối cuộc kiểm tra.
Có hai loại sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán cần được quan tâm
bởi những là quản lý đơn vị và kiểm toán viên là: các sự kiện có ảnh hưởng
trực tiếp đến Báo cáo tài chính và đòi hỏi phải điều chỉnh lại Báo cáo tài
chính; và các sự kiện không ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính nhưng cần
phải khai báo trên Báo cáo tài chính.
2.3.3 Các thủ tục kiểm toán
Các thủ tục kiểm toán có thể áp dụng để xem xét các sự kiện xảy ra sau
ngày khoá sổ có thể chia làm hai loại: Loại thứ nhất bao gồm các thủ tục
kiểm tra số dư cuối nămcủa các tài khoản, và loại thứ hai là các thủ tục
chuyên dùng để phát hiện các sự kiện sau ngày khoá sổ .
Loại thứ nhất thường là các thủ tục kiểm tra chung quanh thời điểm khoá
sổ và các thử nghiệm đánh giá. Dó chính là các thử nghiệm cơ bản được tiến
hành khi kiểm toán các khoản mục trên Báo cáo tài chính. Bên cạnh việc
cung cấp các bằng chứng về sự chuẩn xác của các số liệu này, nó còn cho
thấy nhiều sự kiện xảy ra sau thời điểm khoá sổ. Ví dụ khi kiểm tra khả năng
thu hồi nợ của các khoản phải thu, kiểm toán viên sẽ phải xem xét việc thu
hồi các khoản nợ được ghi trên Báo cáo tài chính sẽ tiến hành thế nào sau

thời điểm khoá sổ.
Loại thứ hai đựơc thiết kế để tìm các thông tin về các sự kiện xảy ra
sau ngày khoá sổ để tiến hành các điều chỉnh, hoặc bổ sung các thuyết minh
trên Báo cáo tài chính. Các biện pháp cần thực hiện nhằm thẩm tra về các sự
kiện tiếp theo bao gồm những nội dung sau:
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 19 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
a) Đọc các biên bản họp Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc,
các biên bản kiểm toán nội bộ sau ngày lập bảng cân đối kế toán, và chú ý
thẩm tra các vấn đề đã được thảo luận tài đại hội mà biên bản chưa ghi.
b) Đọc và so sánh các bản Báo cáo tài chính định kỳ gần nhất của doanh
nghiệp, cũng như các văn bản cần thiết khác, chẳng hạn như các báo cáo về
ngân sách, dự đoán lưu chuyển tiền tệ, và các báo cáo quản lý có liên quan .
c) Thẩm tra hoặc đánh giá các phiếu thẩm tra viết hoặc vấn đáp của bộ
phận tư vấn pháp lý của doanh nghiệp về các vấn đề đang còn tranh chấp.
d) Soát xét lại các biện pháp mà các nhà quản lý đã thiết lập để khẳng định
rằng các sự kiện tiếp sau quan trọng đã được xác định. Hỏi lại các nhà quản
lý xem các sự kiện đã được công bố trên Báo cáo tài chính hay chưa? kiểm
toán viên có thể hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp về các vấn đề sau:
+ Có phát hành cổ phiếu hoặc giấy nợ hay không?
+ Có sự xáo trộn, hoặc có ý định xáo trộn về tổ chức hay không (phân
chia, giải thể, sát nhập các bộ phận…)?
+ Có dự kiến bán hay đã bán tài sản hoặc một bộ phận của doanh nghiệp
hay không?
+Tài sản của doanh nghiệp có bị tổn thất hay không (do hoả hoạn, bị
thiếu hụt, bị mất cắp…)?
+ Có sự điều chỉnh bất thường nào, hoặc có ý định điều chỉnh Báo cáo
tài chính sau ngày lập bảng cân đối kế toán hay không?
+ Các nhà quản lý doanh nghiệp có nhận thức được những sự kiệnđã xảy

ra, hoặc sẽ xảy ra làm nảy sinh các vấn đề cần phải xem xét trong Báo cáo
tài chính hay không? Ví dụ như các sự kiện có tính chất vi phạm khái niệm
hoạt động liên tục…
Nếu xét thấy các sự kiện tiếp theo có ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo
tài chính, thì kiểm toán viên phải áp dụng bổ sung những biện pháp kiểm tra
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 20 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
để xác định xem các sự kiện đó có được công bố trong báo cáo tài chính hay
không? Kiểm toán viên có thể yêu cầu cung cấp thư giải trình xác định đã
khai báo các sự kiện trọng yếu.
Nếu kiểm toán viên nhận thấy cần phải điều chỉnh Báo cáo tài chính hay
công bố, nhưng các nhà quản lý doanh nghiệp không chịu thực hiện, thì hành
động của kiểm toán viên tuỳ thuộc vào nội dung Báo cáo kiểm toán mà kiểm
toán viên sẽ đưa cho khách hàng… ở đây kiểm toán viên cần chú ý về trách
nhiệm pháp lý của mình, và cần tham khảo ý kiến của luật sư.
2.3.4 Xem xét tính hoạt động liên tục của doanh nghiệp
Ta phải xem xét các dấu hiệu xem doanh nghiệp có khả năng sắp phải
chấm dứt mọi hoạt động hay phải thu hẹp quy mô hoạt động hay không?
• Các dấu hiệu về tài chính:
1 + Giá trị thuần hoặc vốn lưu động âm.
+ Các khoản vay dài hạn đến hạn trả mà không có triển vọng gia hạn
hoặc trả nợ, hoặc chỉ sử dụng các khoản tín dụng ngắn hạn để tài trợ cho các
khoản tài sản dài hạn.
1 + Các tỉ suất tài chính cho dấu hiệu xấu.
2 + Lỗ kinh doanh lớn.
3 + Chậm trả hoặc không phân phối cổ tức.
4 + Không thể trả các chủ nợ đúng thời hạn.
5 + Khó khăn trong việc dấp ứng các điều kiện của hợp đồng vay.
+ Người cung cấp tín dụng từ chối cấp tín dụng trong trường hợp

không thanh toán khoản nợ cũ.
+ Không thể tìm được nguồn tài trợ để phát triển các sản phẩm mới
hoặc các khoản đầu tư mấu chốt khác…
• Dấu hiệu về hoạt động của đơn vị:
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 21 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
* Thành viên quan trọng của ban giám đốc từ chức mà không có người thay
thế.
+Mất một thị trường quan trọng, một cơ sở sử dụng biển hiệu hay cơ
sở thuê nhãn hiệu thương mại quan trọng, hoặc mất một nhà cung cấp chính.
1 + Rối loạn trong công ty hay thiếu những nguyên vật liệu quan trọng.
• Các dấu hiệu khác
+ Không tuân thủ các nghĩa vụ về vốn pháp định hay các quy định ghi
trong điều lệ khác.
+ Những vụ kiện các đang diễn ra có thể có kết cục rất xấu đến sự tồn
tại của doanh nghiệp.
+ Những thay đổi của luật pháp hay trong quyết định của Chính
phủ…
Trong trường hợp nghi ngờ về tính liên tục hoạt động kinh doanh, kiểm
toán viên phải thu thập các bằng chứng đủ và thích hợp để đảm bảo một
cách thoả đáng khả năng tiếp tục hoạt động kinh doanh trong một tương lai
gần của đơn vị.
• Các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập các bằng chứng về tính liên
tục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
+ Phân tích và trao đổi với ban giám đốc về những nhu cầu ngân quỹ của
đơn vị, về các kết quả mong đợi và các khoản dự trù khác.
+ Xem xét các sự kiện sau ngày kết toán để xác định những yếu tố có thể
tác động tới tính liên tục của hoạt đông kinh doanh.
+ Phân tích và trao đổi về các Báo cáo tài chính giữa kỳ cuối cùng.

+ Xem xét các điều kiện và nghĩa vụ của hợp đồng vay để tìm ra tất cả
những điều kiện không được đơn vị tuân thủ.
+ Đọc các biên bản họp đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và các uỷ ban
quan trọng để tìm ra việc nhắc tới những khó khăn tài chính nào đó.
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 22 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
+ Hỏi thông tin từ các luật sư về các vụ kiện cáo hay tranh chấp.
+ Xác minh tính hiện hữu, tính hợp pháp và việc áp dụng những thoả
thuận ký với một bên liên quan hay một bên thứ ba về việc đảm bảo hỗ trợ
tài chính, đánh giá khả năng tài chính của bên này để có thể cung cấp các
nguồn vốn bổ sung.
+ Xem xét các tình hình đơn vị về các đơn đặt hàng miễn phí.
Khi thấy có vấn đề về tính liên tục hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, thì tuỳ theo mức độ kiểm toán viên sẽ có những giải trình cần thiết.
2.3.5 Thu thập thư giải trình của ban giám đốc khách hàng
Kiểm toán viên phải thu thập được các giải trình cần thiết của ban
giám đốc đơn vị:
- Sự thừa nhận của ban giám đốc về trách nhiệm lập báo cáo tài chính
Chuyên gia kiểm toán phải thu thập được các bằng chứng rằng ban
giám đốc thừa nhận trách nhiệm của mình đối với việc lập và trình bày trung
thực Báo cáo tài chính, phù hợp với một chuẩn mực kế toán xác định và đã
thông qua Báo cáo tài chính được lập theo tiêu chuẩn trên. Kiểm toán viên
có thể được đảm bảo về sự thừa nhận trách nhiệm này và về việc thông qua
Báo cáo tài chính bằng cách xem xét các biên bản họp hội đồng quản trị
hoặc cơ quan tương đương bằng cách yêu cầu các văn bản giải trình của ban
Giám đốc hoặc bản sao các Báo cáo tài chính đã được ký.
- Sử dụng các giải trình của ban giám đốc như một bằng chứng kiểm toán:
+ Chuyên gia kiểm toán phải thu thập các giải trình bằng văn bản của
các nhà quản lý doanh nghiệp về những vấn đề trọng yếu đối với các Báo

cáo tài chính khi thiếu các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp khác.
Để tránh mọi sự hiểu lầm giữa chuyên gia kiểm toán và ban giám đốc, các
giải trình bằng miệng nên được ban Giám đốc xác nhận lại bằng văn bản.
- Lưu vào hồ sơ các giải trình của ban giám đốc:
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 23 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
+ Thồng thường, kiểm toán viên lưu vào trong hồ sơ làm việc của mình
bằng chứng các giải trình của ban giám đốc dưới hình thức tóm tắt các lần
thảo luận miệng hoặc các bản giải trình viết của họ.
+ Giải trình viết là bằng chứng kiểm toán có giá trị hơn giải trình bằng
miệng và có thể theo các hình thuức dưới đây:
1 _ Thư giải trình của nhà quản lý
2 _ Thư của kiểm toán viên nêu lên những hiểu biết chính của chuyên
gia kiểm toán về các giải trình của ban giám đốc và được ban giám
đốc xác nhận là đúng;
3 _ Các biên bản họp hội đồng quản trị hoặc cơ quan tương đương,
hoặc một bản sao Báo cáo tài chính đã được ký.
2.3.6 Tổng hợp kết quả kiểm toán
Trước khi lập Báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên cần phải đánh giá tổng
quát về các kết quả thu thập được. Công việc này nhằm soát xét lại toàn bộ
quá trình kiểm toán,
kết quả thu được và cân nhắc các cơ sở để đưa ra ý kiến về Báo cáo tài
chính. Để đạt được mục đích này, kiểm toán viên thường tiến hành các thủ
tục sau:
2.3.7 Lập báo cáo kiểm toán
Trừ khi có lý do để đưa ra một ý kiến chấp nhận từng phần, nếu không
ta có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần khi:
1 - Các báo cáo tài chính được lập phù hợp với các chế độ kế toán có
thể chấp nhận, được áp dụng nhất quán hoặc nếu có sự thay đổi, những thay

đổi kế về kế toán được trình bày một cách phù hợp.
2 - Thông tin thích hợp được thuyết minh, phân loại và mô tả phù hợp
với các chế độ kế toán được chấp nhận và các đòi hỏi về mặt pháp lý, nếu có
thể
3 - Thông tin trong các báo cáo tài chính phù hợp với các hiểu biết của
kiểm toán viên về tình hình kinh doanh của khách hàng.
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 24 -
Bài tiểu luận GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng Minh
PHẦN II
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY
KIỂM TOÁN VÀ TƯ VẤN THUẾ A.TAX
1. Gới thiệu về công ty
Công ty TNHH kiểm toán và tư vấn thuế T.TAX thành lập ngày
30/6/2006. Theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Công ty TNHH có 2
thành viên trở lên số 3202003333 của sở kế hoạch đầu tư Đà Nẵng. Trụ sở
chính 32- Lê Đình Lý.
Công ty TNHH kiểm toán và tư vấn thuế A.TAX cung cấp các dịch vụ
sau:
- Dịch vụ kiểm toán:
+ Kiểm toán BCTC
Thực hiện: Võ Thị Linh
Lớp: K13CK2 -Trang 25 -

×