Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.42 KB, 68 trang )

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Chương 1 – Các vấn đề lý luận chung
- Giới thiệu các khái niệm về chứng khoán, thị trường chứng khoán, lạm
phát, các chỉ số đánh giá hiệu quả chứng khoán.
- Giải thích tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán thông qua
các nhân tố lãi suất, giá cả và các chính sách của nhà nước nhằm kiềm chế lạm
phát như thay đổi mức lãi suất chiết khấu, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc v.v…
Chương 2 – Tình hình thực tế của Thị trường chứng khoán và các cổ
phiếu cụ thể trước và sau lạm phát
- Đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam ở hai giai
đoạn trước và trong thời kỳ lạm phát.
- Phân tích sự thay đổi của 5 cổ phiếu tiêu biểu cho các ngành ở hai giai
đoạn trước và sau thời kỳ lạm phát thông qua các số liệu cụ thể, các bảng, biểu đồ
giá, khối lượng giao dịch của các loại cổ phiếu này.
Chương 3 – Các giải pháp can thiệp vào Thị trường chứng khoán trong
giai đoạn kiềm chế lạm phát
- Định hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong thời gian
tới.
- Hoạt động của sàn GDCK Tp.HCM
- Các giải pháp can thiệp vào thị trường chứng khoán trong giai đoạn lạm từ
góc độ quản lý của nhà nước, giải pháp dành cho các doanh nghiệp phát hành
chứng khoán và các nhà đầu tư.
PHẦN 1 – GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1. Đặt vấn đề
Có thể nói từ năm 2005 đến nay, Thị Trường Chứng Khoán ở Việt Nam đã
có những bước phát triển nhanh chóng, là kênh huy động động vốn hiệu quả cho
các doanh nghiệp và trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của rất nhiều người. Tuy
nhiên từ giữa năm 2007, lạm phát đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế của
nước ta nói chung cũng như góp phần tạo nên một bức tranh đỏ ảm đạm trên Thị
Trường Chứng Khoán nói riêng. Chính vì thế, nhóm đã chọn nghiên cứu đề tài
“Ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng khoán và các giải pháp khắc


phục.”
2. Mục tiêu, phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ về những ảnh hưởng của lạm phát
tới Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam trong thời gian qua và tìm ra các giải pháp
khắc phục các ảnh hưởng ấy đối với việc quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp
cũng như giải pháp dành cho các nhà đầu tư.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài phương pháp duy vật biện chứng dựa trên
hai nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển xét theo các
tính chất khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng – phong phú của chúng với
những số liệu thực tế, các bảng biểu cũng như các đồ thị minh hoạ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: ảnh hưởng của lạm phát đến thị trường chứng
khoán nói chung và đến 5 loại cổ phiếu tiêu biểu của các ngành như Công ty cổ
phần khoáng sản Bình Định (BMC), Công ty cổ phần sữa Việt Nam (VNM), Ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (STB), Công ty cổ phần cơ điện
lạnh (REE), Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ (FPT)
- Phạm vi nghiên cứu: các cổ phiếu được khảo sát trên sàn GDCK TP.HCM
(HOSE); trong khoảng thời gian trước khi xảy ra lạm phát (năm 2006, đầu năm
2007) và trong thời gian xảy ra lạm phát (giữa năm 2007 đến tháng 10 năm 2008).
PHẦN 2 – NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1 – Các vấn đề lý luận chung
Giới thiệu chung về chứng khoán
1.1.1 Khái niệm chứng khoán
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được
thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm
các loại sau đây: a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; b) Quyền mua cổ phần,
chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng
khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
1.1.2 Đặc điểm và vai trò của chứng khoán

a) Đặc điểm:
Chứng khoán là giá khoán động sản, tức là các công cụ vốn dài hạn.
b) Vai trò của chứng khoán:
Chứng khoán là công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường để tạo nên
một lượng vốn tiền tệ khổng tồ tài trợ dài hạn cho các mục đích mở rộng sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư của Nhà Nước và tư nhân.
Chứng khoán là giấy tờ có giá trị kinh tế hay nói cách khác đó là công cụ tài
chính có giá trị tương ứng như tiền mặt và được mua bán hoặc chuyển nhượng.
Chứng khoán là một loại hàng hóa rất tiêu biểu trong cơ chế kinh tế thị trường tự
do.
1.1.3 Phân loại chứng khoán
a) Căn cứ vào nội dung chứng khoán
- Chứng khoán nợ là loại chứng khoán do Nhà Nước hoặc các doanh nghiệp
phát hành cần huy động vốn cho các mục đích tài trợ dài hạn. Ví dụ: trái phiếu.
- Chứng khoán vốn là giấy tờ chứng nhận sự góp vốn kinh doanh vào công
ty cổ phần. Ví dụ: các loại cổ phiếu.
b) Căn cứ vào hình thức chứng khoán
- Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không có gi tên người sở hữu
trên các cổ phiếu, trái phiếu. Loại chứng khoán này có thể dễ dàng mua bán hay
chuyển đổi trên thị trường chứng khoán.
- Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán mà tên người sở hữu lưu giữ
trong hồ sơ của chủ thể phát hành trên chứng khoán. Việc chuyển tên người sở
hữu chứng khoán này có phần khó khăn hơn và phải có sự đồng ý của cơ quan
phát hành chứng khoán.
c) Căn cứ vào lợi tức chứng khoán
- Chứng khoán có lợi tức ổn định là loại chứng khoán mà người cầm giữ
loại chứng khoán này được hưởng lợi tức ổn định theo tỷ lệ lãi suất tính trên mệnh
giá chứng khoán điển hình là trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi.
- Chứng khoán có lợi tức không ổn định là loại chứng khoán mà các nhà
đầu tư mong đợi 1 mức lợi tức cao hơn nhiều so với chứng khoán có lợi tức ổn

định, lãi suất không được ghi trên chứng khoán. Các loại chứng khoán này thường
mang tính chất rủi ro cao và không ổn định.
1.2 Giới thiệu chung về Thị trường chứng khoán
1.2.1 Khái niệm và bản chất của Thị trường chứng khoán
a) Khái niệm: Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức
trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán.
b) Bản chất: Thị trường chứng khoán phản ánh các quan hệ trao đổi, mua
bán quyền sở hữu tư liệu sản xuất và vốn bằng tiền, tức là mua bán quyền sở hữu
vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn được lưu thông như một loại hàng hóa có
giá trị và giá trị sử dụng. Thị trường chứng khốn là hình thái phát triển cao của
nền sản xuất hàng hóa.
1.2.2 Đặc điểm và vai trò của Thị trường chứng khốn
a) Đặc điểm:
Thị trường chứng khốn là một bộ phận của thị trường tài chính, được
chun mơn hóa về mua bán các chứng khốn trung và dại hạn. Thị trường chứng
khốn ra đời là một tất yếu khách quan.
b) Vai trò:
- Thị trường chứng khốn là phương tiện huy động vốn đầu tư sản xuất kinh
doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Thị trường chứng khốn là cơng cụ khuyến khích dân cư tiết kiệm và sử
dụng tiền tiết kiệm này vào đầu tư, từ đó xã hội hóa việc đầu tư.
- Thị trường chứng khốn thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu
quả.
- Thị trường chứng khốn góp phần điều hòa vốn giữa các ngành trong nền
kinh tế, tạo nên sự phát triển nhanh và đồng đều trong nền kinh tế.
- Thị trường chứng khốn là cơng cụ thu hút và kiểm sốt vốn đầu tư nước
ngồi.
1.2.3 Phân loại Thị trường chứng khốn
a) Căn cứ vào phương diện pháp lý của hình thức tổ chức thò
trường

- Thò trường chứng khoán chính thức (The stock exchange) Hay còn
gọi là thò trường chứng khoán tập trung, là thò trường hoạt động theo
các qui đònh pháp luật, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được
đăng ký và chứng khoán ngoại lệ. Thò trường chứng khoán chính
thức có đòa điểm và thời gian mua bán rõ rệt, giá cả được đònh theo
thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của cơ quan quản lý
Nhà nước về chứng khoán. Thò trường chứng khoán chính thức được
thể hiện bằng các Sở giao dòch chứng khoán.
- Thò trường chứng khoán phi chính thức (Over the counter market –
OTC) Hay còn gọi là thò trường chứng khoán phi tập trung (còn gọi là
Thị trường chứng khốn ngầm), là thò trường mua bán chứng khoán ngoài
sở giao dòch, không có đòa điểm tập trung những người môi giới,
những người kinh doanh chứng khoán như ở sở giao dòch chứng khoán,
không có sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng
khoán, không có ngày giờ hay thủ tục nhất đònh mà do sự thoả
thuận của người mua và người bán được thực hiện bởi các công ty
chứng khoán thành viên. Phương thức giao dòch thông qua mạng điện
thoại và vi tính. Các chứng khoán giao dòch trên thò trường này thường
là các loại chứng khoán không được đăng ký, ít người biết hay ít được
mua bán.
b) Căn cứ vào tính chất phát hành hay quá trình lưu hành của
chứng khoán
- Thò trường chứng khoán sơ cấp
Thò trường chứng khoán sơ cấp còn gọi là thò trường cấp một
hay thò trường phát hành là thò trường phát hành các loại chứng
khoán. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán mới
phát hành lần đầu cho phép các chủ thể cần nguồn tài chính tiếp
nhận được các nguồn tài chính bằng việc phát hành các chứng khoán
mới, những chứng khoán bán cho người đầu tiên mua nó nhằm thu
hút vốn đầu tư.

Thò trường sơ cấp là thò trường tạo vốn cho đơn vò phát hành. Thò
trường này tập trung các nguồn vốn nhà rỗi của các nhà đầu tư về
phía các đơn vò phát hành, đồng thời các chứng khoán được chuyển
đến tay các nhà đầu tư lần đầu. Thò trường sơ cấp làm tăng vốn cho
nền kinh tế đồng thời tạo ra hàng hoá chứng khoán cho thò trường
thứ cấp. Việc phát hành chứng khoán ở thò trường sơ cấp nhằm thu
hút mọi nguồn vốn đầu tư, tiết kiệm vào phát triển kinh tế.
Đối tượng mua bán trên thò trường chứng khoán sơ cấp là quyền
sử dụng các nguồn tài chính. Thò trường này chỉ được tổ chức một
lần, việc phát hành chứng khoán được bắt đầu kể từ khi đơn vò phát
hành chứng khoán chào bán chứng khoán ra công chúng và chấm
dứt khi toàn bộ số chứng khoán của đợt phát hành đến tay các nhà
đầu tư thứ nhất.
- Thò trường chứng khoán thứ cấp
Thò trường chứng khoán thứ cấp là thò trường cấp hai hay thò
trường lưu thông, thò trường mua đi bán lại các chứng khoán đã được
phát hành trên Thị trường chứng khốn sơ cấp, làm thay đổi quyền sở
hữu chứng khoán. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng
khoán đến tay người thứ hai, tức là thò trường diễn ra việc mua bán lại
các chứng khoán đã được phát hành trên thò trường chứng khoán sơ
cấp.
Thò trường chứng khoán thứ cấp là một thò trường cạnh tranh tự
do. Trên thò trường này, các nhà đầu tư, các nhà môi giới, các nhà
kinh doanh chứng khoán được tự do tham gia. Mặt khác, giá cả của
chứng khoán phản ảnh nguyên tắc cạnh tranh và kết quả của quan hệ
cung cầu chứng khoán. Thò trường thứ cấp là một thò trường hoạt
động liên tục không ngừng nghỉ. Các nhà đầu tư có thể mua bán
chứng khoán nhiều lần trên thò trường này.
c) Căn cứ vào phương thức giao dòch
- Thò trường giao ngay (Spot market) còn gọi là thò trường thời

điểm, tức là thò trường thực hiện việc giao dòch mua bán chứng khoán
theo giá thỏa thuận của ngày giao dòch nhưng việc thanh toán và giao
hoán sẽ diễn ra tiếp sau đó hai ngày.
- Thò trường tương lai (Future market) là thò trường mua bán chứng
khoán theo một hợp đồng đònh sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày
giao dòch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ
hạn nhất đònh trong tương lai.
d) Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hoá lưu hành trên thò
trường chứng khoán
Theo căn cứ này, thò trường chứng khoán được chia ra thành ba
loại thò trường:
- Thò trường cổ phiếu
-Thò trường trái phiếu
- Thò trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán
1.3 Lạm phát và các ngun nhân gây ra lạm phát
1.3.1 Khái niệm và bản chất của lạm phát
a) Khái niệm: Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ kéo dài làm cho mức giá
cả chung của nền kinh tế tăng lên liên tục trong một thời gian nhất định.
b) Bản chất: Lạm phát là một hiện tượng tiền tệ khi những biến động tăng
lên của giá cả diễn ra trong một thời gian dài.
1.3.2 Phân loại lạm phát
Dựa vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh té chia làm 3 loại:
- Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát một số, tỷ lệ tăng giá thấp dưới
10%/năm
Đồng tiền mất giá không lớn, chưa ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh
doanh. Mọi người vẫn sẵn sàng giữ tiền để thực hiện giao dịch.
- Lạm phát phi mã: là loại lạm phát 2 hay 3 só, tức trong khoảng hơn 10%.
Lạm phát phi mã trong 1 thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiem
trọng, đồng tiền bị mất giá nhanh.
- Siêu lạm phát: là loại lạm phát trên 4 số, tức tỷ lẹ lạm phát lên đến hàng

ngàn phần trăm, người ta ví nó như căn bệnh ung thư gây chết người, có tác động
rất lớn đến nền kinh tế, người ta bị chìm trong khối tiền tẹ khi hàng hóa đều khan
hiếm. Tiền tệ không thực hiện chức năng phương tiện trao đổi vì không ai muốn
bán hàng để lấy những đồng tiền vô giá trị.
1.3.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát
a) Xét theo nguồn gốc:
- Nguyên nhân cơ bản và sâu xa: nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, sản
xuất sút kém, ngân sách quốc gia bị thâm hụt dẫn đến lạm phát.
- Nguyên nhan trực tiếp: cung cấp tiền tệ tăng trưởng quá mức cần thiết.
- Nguyên nhân quan trọng: hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác
động bên trong hoặc bên ngoài làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ của
Nhà Nước bị xói mòn, từ dó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút,
họ không tiêu xài hoặc đánh giá thấp giấy bạc mà Nhà Nước phát hành.
b) Xét theo chủ quan – khách quan
- Nguyên nhân chủ quan: những chính sách quản lý kinh tế không phù hợp
của Nhà Nước như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất, chính sách thuế
… làm cho nền kinh tế bị mất cân đối, hiệu quả sản xuất bị sút kém, ảnh hưởng
đến nền tài chính quốc gia..
- Nguyên nhân khách quan: thiên tai, động đất, sóng thần … là những
nguyên nhân bất kahr kháng hoặc nền kinh tế sau chiến tranh bị tàn phá, tình hình
biến động của thị trường nhiên liệu, vàng, ngoại tệ thế giới … dẫn tới thiếu hàng
hóa, đồng tiền mất giá.
c) Xét theo lý thuyết cung – cầu
- Lạm phát cầu kéo (Demand-pull inflation) xảy ra khi tổng cầu tăng trong
khi tổng cung không tăng hoặc tăng chậm hơn tổng cầu. Lúc đó, một lượng tiền
lớn dùng để mua hàng hóa ít ỏi sẽ làm tăng giá.
- Lạm phát chi phí đẩy (Cost-push inflation) xảy ra khi chi phí sản xuất gia
tăng hoặc khi năng lực sản xuất của quốc gia giảm sút.
1.4 Các nhân tố của lạm phát ảnh hưởng tới Thị trường chứng khoán
1.4.1 Nhân tố giá cả

Bình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một
ngưòi phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Thế nhưng câu chuyện về lãi
suất khi nó chạy sang thị trường chứng khoán lại không dừng lại ở đó.
Lạm phát gia tăng thì giá phải trả để sử dụng vốn của người khác sẽ tăng lên
để tương xứng với mức độ gia tăng của giá cả. Chính vì vậy, lãi suất huy động của
ngân hàng phải tăng lên dẫn tới lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng tăng lên,
nó tác động đến hành vi tiêu dùng của các cá nhân và chiến lược kinh doanh của
các doanh nghiệp, gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, khiến cho thu nhập thấp
hơn và cuối cùng là nó có khuynh hướng làm cho thị trường chứng khoán trở nên
kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Dễ thấy, chính bản thân các doanh nghiệp cũng cần vay tiền từ ngân hàng
thương mại để duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất. Một khi các khoản vay từ
ngân hàng trở nên đắt hơn thì các doanh nghiệp sẽ có tâm lý ngại vay tiền và thực
tế thì họ phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay. Với một doanh nghiệp trong
thời kỳ tăng trưởng thì điều này có thể tác động nghiêm trọng, doanh nghiệp phải
thu hẹp phạm vi hoạt động và kết quả là lợi nhuận bị giảm sút.
Như chúng ta đã biết, một trong những cách để định giá một doanh nghiệp
chính là đưa tất cả các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện tại.
Lấy giá trị của doanh nghiệp chia cho số lượng cố phần đang lưu hành ta có giá trị
một cổ phần. Gía chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng khác nhau của nhà
đầu tư về công ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà đầu tư sẵn sàng mua
hoặc bán cổ phần ở các mức giá khác nhau.
Một khi doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí đầu
tư tăng trưởng hoặc là doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi phí vay nợ
tăng cao hoặc là doanh thu sụp giảm do người tiêu dùng thì dòng tiền tương lai
được dự đoán sẽ giảm đi. Và hệ quả là giá cổ phần của doanh nghiệp sẽ thấp
xuống. Nếu số lượng doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán có sự sụp giảm
này đủ lớn thì xét toàn bộ thị trường, chỉ số thị trường chứng khoán sẽ giảm.
1.4.2. Nhân tố lãi suất
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu là mối quan hệ trực tiếp và

ngược chiều nhau. Giá của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi
suất thị trường càng cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với lãi suất càng lớn, do
vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ. Do đó, giữa lãi suất thị trường và lãi suất trái
phiếu có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái
phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm.
Khơng chỉ vậy, quan hệ giữa lãi suất thò trường và lãi suất chứng
khoán là mối quan hệ gián tiếp tác động đến giá của chứng khoán.
Nếu lãi suất thò trường cao hơn lãi suất chứng khoán thì giá chứng
khoán sẽ giảm, đều này khiến cho hoạt động trên thò trường chứng
khoán giảm sút vì người ta thích gởi tiền vào ngân hàng hơn là mua
chứng khoán.
Lãi suất của chứng khoán sẽ ảnh hưởng đến giá của chứng
khoán. Ảnh hưởng này càng lớn nếu kỳ hạn của chứng khoán càng
dài. Vì các chứng khoán dài hạn rủi ro cao hơn các chứng khoán ngắn
hạn. Nếu những nhà đầu tư muốn mua chứng khoán dài hạn thì họ sẽ
đòi hỏi một lãi suất chứng khoán cao hơn nhiều để bù đắp các rủi
ro đó.
1.4.3 Các chính sách của nhà nước trong việc kiềm chế lạm phát
a) Thay đổi lãi suất chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu là chi phí mà các ngân hàng thuơng mại phải trả cho
việc vay tiền từ ngân hàng trung ương. Nói rõ ràng hơn thì khi các ngân hàng
thương mại cần tiền, họ có thể vay ở ngân hàng trung ương bằng cách mang chiết
khấu các giấy tờ có giá với một lãi suất do ngân hàng trung ương cơng bố từ trước,
gọi là lãi suất chiết khấu.
Bởi đó là một trong những cách hữu hiệu nhất mà ngân hàng trung ương nỗ
lực để kiểm sốt lạm phát. Khơng một quốc gia nào muốn để lạm phát ở mức cao.
Việt Nam cũng khơng nằm ngồi mục tiêu đó, chúng ta đang cố gắng khống chế tỷ
lệ lạm phát ở mức 8%. Bằng việc thay đổi lãi suất chiết khấu, ảnh hưởng đến
lượng cung tiền trong xã hội, ngân hàng trung ương hy vọng có thể kiểm sốt lạm
phát. Đây cũng là cách làm phổ biến của hầu hết các quốc gia.

Hiểu một cách cơ bản nhất thì khi ngân hàng trung ương gia tăng lãi suất
chiết khấu tức là họ đang nỗ lực làm cho lượng cung tiền trong xã hội giảm bằng
cách tạo chi phí vay tiền đắt hơn. Nó khiến cho việc vay tiền của ngân hàng
thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt hơn. Người chơi chứng khoán sẽ
không thể vay của ngân hàng để đầu tư vào Thị trường chứng khoán như trước
đây, do đó, lượng người và lượng vốn tham gia Thị trường chứng khoán sẽ ít đi.
b) Quy định mức dự trữ bắt buộc
Khi lượng dự trữ tiền cơ sở của các ngân hàng thương mại thay đổi vì chính
sách tiền tệ thắt chặt của Nhà Nước sẽ dẫn đến ngân hàng thương mại phải điều
chỉnh tương ứng các mức hạn cho vay tương ứng trên tổng dư nợ của ngân hàng,
lượng tiền cung từ ngân hàng ít đi, số tiền vay được để chơi chứng khoán ít hơn,
dân tự huy động tiền nhàn rỗi của mình nhiều hơn
c) Chỉ thị 03 về thắt chặt cho vay chứng khoán
Sau nhiều đánh giá của các chuyên gia về tình trạng bong bóng của thị
trường, chính phủ đã quyết định ban hành chỉ thị 03 về thắt chặt cho vay chứng
khoán. Chỉ thị này ngay khi mới ra đời đã làm cho thị trường chứng khoán chấn
động.
Trên sàn giao dịch CK TPHCM, chỉ số VN - Index trong thời điểm đó cũng
chỉ xoay quanh ngưỡng trên 1.000 điểm. So với xu thế tăng, VN - Index nghiêng
về chiều hướng điều chỉnh giảm nhiều hơn. Giám đốc điều hành một quỹ đầu tư
nước ngoài đang hoạt động tại VN nhận định, nguyên nhân khiến TTCK đi đến
kết quả trên là tác động bởi Chỉ thị 03 của NHNN vừa mới ban hành. Mặc dù đến
thời điểm đó, NHNN vẫn chưa có động thái nào trước sự phản ứng quyết liệt của
các NH cổ phần và NĐT. Nhưng trên thực tế, các NH cổ phần đã và đang dần tạm
ngừng cho vay cầm cố CP. Chính vì vậy, tâm lý của NĐT rất hoang mang trong
việc quan sát tình hình để kiếm cơ hội đẩy hàng thu hồi vốn trả nợ cho nhà băng.
Theo vị giám đốc trên, nhiều khả năng CK sẽ bị ảnh hưởng mạnh trong thời gian
tới khi các NH cổ phần mạnh tay siết chặt cho vay cầm cố hơn so với hiện nay.
Trên thực tế, lượng tiền NĐT đổ vào thị trường đang dần bị thu hẹp. Điều
này được chứng minh qua hiện tượng bỏ cọc mua CP của Tập đoàn Bảo Việt trong

đợt đấu giá vừa qua, khiến giá CP của tập đoàn này đang trong trạng thái điều
chỉnh. Không chỉ có CP của Bảo Việt, mà theo vị GĐ điều hành trên, nếu hạn chế
mức cho vay cầm cố dưới 3% trên tổng dư nợ thì chắc chắn luồng tiền NĐT bỏ
mua các CP khác sẽ bị hạn chế lại, vì lượng tiền NĐT đang bỏ vào trên thị trường
phần lớn vay mượn từ NH.
Theo ông, nếu NHNN cương quyết khống chế hạn mức cho vay cầm cố
dưới hạn mức 3% trên tổng dư nợ thì không còn cách nào khác là NH phải thu hồi
nợ. Tuy nhiên, ông cho rằng, như vậy NHNN đã vô tình hạn chế sự phát triển dịch
vụ tín dụng và tính tự chủ của các NH cổ phần. Vì trên thực tế, nếu NĐT muốn
tham gia mua cổ phần của một DN nào đó để trở thành đối tác chiến lược thì
không lý do gì các NH lại từ chối. Vả lại, trước khi quyết định cho vay, các NH
đều có sự phân chia danh mục, khoản vay để đảm bảo nguồn vốn và hạn chế rủi
ro. Như vậy, theo ông này nếu hạn chế cho vay cầm cố CK, NHNN chỉ nên kiểm
soát chặt NH khi cho các nhà đầu cơ vay kinh doanh CP.
Không chỉ có NĐT cá nhân mà ngay cả những NĐT có tổ chức cũng luôn
cần đến nguồn vốn của NH. Duy chỉ có các NĐT nước ngoài mới có sẵn nguồn
tiền lớn đầu tư. Do vậy, việc NHNN hạn chế cho vay cầm cố sẽ ảnh hưởng nhất
định đến NĐT trong nước, nhưng đồng thời lại là cơ hội cho NĐT nước ngoài. Vì
thông thường, NĐT ngoại vẫn luôn có xu hướng mua vào khi giá CP trên thị
trường có dấu hiệu sụt giảm.
Tuy nhiên không thể đổ lỗi cho quyết định này hoàn toàn, mà nguyên nhân
chính là do tâm lý bất ổn của nhà đầu tư. Phó Tổng giám đốc một ngân hàng
thương mại cho biết: “Theo tơi, Chỉ thị 03 sẽ khơng gây tác hại q lớn như một
số thơng tin thổi phồng lên đâu. Những người chơi chứng khốn phần lớn bằng
vốn vay mượn NH chiếm tỷ lệ bao nhiêu chưa ai biết được mà đã vội cho rằng thị
trường đã bị cho uống thuốc q liều”.
Tuy nhiên nói gì thì nói, sau thời điểm đó, TTCK Việt bắt đầu chuỗi mất
điểm và trở lại vị trí thực của nó
1.5 Các nhóm chỉ số dùng để đánh giá hiệu quả của chứng khốn
1.5.1 Chỉ số thanh khoản

Chỉ ra khả năng của công ty đáp ứng nợ ngắn hạn cũng như
chuyển tài sản hiện thời thành tiền mặt để trả nợ
a) Chỉ tiêu vốn hoạt động thuần
Chỉ tiêu vốn hoạt động thuần là chênh lệch giữa tài sản lưu
động và nợ ngắn hạn, là số vốn mà công ty cần để đưa vào các
hoạt động hàng ngày. Số tiền này nhằm duy trì mức độ hữu hiệu
của vốn hoạt động. Đảm bảo điều này cho phép công ty nâng cao
khả năng thanh toán những món nợ đến hạn.
hạnngắn nợ bộToàn - hạnngắn sản tài bộToàn thuần động hoạt Vốn
=
b) Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành (R
c
)
hạnngắn nợ bộToàn
hạnngắn sản tài bộToàn

c
R
=
Chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành cho thấy doanh nghiệp
có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo
thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này đo lường khả
năng trả nợ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được chấp nhận hay
không tuỳ thuộc vào sự so sánh với tỷ số thanh toán trung bình ngành
mà doanh nghiệp đang kinh doanh hoặc so sánh với các năm trước để
thấy sự tiến bộ hoặc giảm sút.
Nếu chỉ tiêu R
c
giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm và
cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra.

Nếu chỉ tiêu R
c
khá cao và cóõ1u hướng tăng nghóa là công ty
luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên nếu R
c
quá cao sẽ
làm giảm hiệu quả sử dụng vốn vì công ty đầu tư quá nhiều vào tài
sản ngắn hạn, tức là công ty quản lý tài sản ngắn hạn chưa có hiệu
quả. Theo quan điểm của nhiều nhà phân tích, xu hướng của phân tích
chỉ số R
c
ở mức độ an toàn trong khoảng 2,0
c) Chỉ số khả năng thanh toán nhanh (R
q
)
Chỉ số khả năng thanh toán nhanh (R
q
) là chỉ tiêu được tính toán
dựa trên những tài sản lưu động có thể nhanh chóng được chuyển đổi
thành tiền, bao gồm tất cả các tài sản lưu động trừ hàng tồn kho
hạnngắn nợ bộToàn
khotồn Hàng - hạnngắn sản tài bộToàn

q
R
=
d) Chỉ số thanh khoản (k)
Chỉ số thanh khoản là chỉ tiêu đánh giá chính xác nhất khả
năng thanh toán nợ đến hạn của công ty, đánh giá ngân quỹ mà
công ty có thể sử dụng tức thời

hạnngắn nợ bộToàn
trường thò trên c đượ bánthể có khoánchứng Các Tiền
k
+
=
Nếu k >1: tốt
k=1: bình thường
k<1: có khó khăn
e) Lưu chuyển tiền tệ (dòng lưu kim)
Dòng lưu kim phản ánh số tiền phát sinh từ hoạt động của công
ty. Chỉ tiêu này đánh giá khả năng thanh toán những chi phí hiện
hành của công ty như việc thanh toán cổ tức
năm hàng hao khấu (lỗ) ròngnhuận Lợi tệ tiền chuyển Lưu
+=
Nếu lưu chuyển tiền tệ dương cho thấy công ty có thu nhập đầy
đủ để chi trả các chi phí và phân chia cổ tức
Nếu lưu chuyển tiền tệ âm có nghóa rằng công ty bò thua lỗ và
có thể gặp khó khăn trong thanh toán nợ ngắn hạn.
1.5.2 Chỉ số về khả năng tái tạo vốn
a) Chỉ số trái phiếu
Chỉ số trái phiâếu chỉ ra số vốn huy động là trái phiếu chiếm
bao nhiêu phần trăm trong toàn bộ vốn dài hạn
hạndài vốn bộToàn
phiếutrái giá Mệnh
phiếutrái số Chỉ
=
b) Chỉ số cổ phiếu ưu đãi
Chỉ số cổ phiếu ưu đãi chỉ ra số vốn huy động từ cổ phiếu ưu
đãi chiếm bao nhiêu phần trăm trong toàn bộ vốn dài hạn
hạndài vốn bộToàn

đãi ưu phiếucổ giá Mệnh
đãi ưu phiếucổ số Chỉ
=
c) Chỉ số cổ phiếu thường
Chỉ số cổ phiếu thường cho biết số vốn dài hạn huy động được
từ cổ phiếu thường chiếm bao nhiêu phần trăm trong toàn bộ vốn dài
hạn

hạndài vốn bộToàn
lại giữ nhập thu vốn dư thặng thường phiếucổ giá Mệnh
thường phiếucổ số Chỉ
++
=
Nếu chỉ số trái phiếu chiếm tỷ trọng lớn chứng tỏ trái phiếu
đang lưu hành cao, được xem như cán cân nợ của công ty lớn. Điều này
ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của công ty bò ảnh hưởng lớn vào
sự thay đổi của lãi suất.
d) Chỉ số nợ trên vốn cổ phần
Chỉ số nợ trên vốn cổ phần là tỷ lệ giữa trái phiếu và cổ
phiếu ưu đãi trên cổ phiếu thường
lại giữ nhập thu vốn dư thặng thường phiếucổ giá Mệnh
đãi ưu phiếuCổ phiếuTrái
phầncổ vốn trên nợ số Chỉ
++
+
=
1.5.3 Chỉ số bảo chứng
Chỉ số bảo chứng còn gọi là chỉ số trang trải, nhằm đo lường
khả năng của công ty để đáp ứng việc trả lãi cho các trái chủ và
trả cổ tức cho các cổ đông ưu đãi

a) Hệ số thanh toán lãi trái phiếu
Hệ số thanh toán lãi trái phiếu là tỷ lệ giữa lợi nhuận trước
khi trả lãi và thuế với tiền lãi trái phiếu phải trả hàng năm.

năm hàngtrả phải phiếutrái Lãi
(EBIT) vay lãi và thuế trước nhuận Lợi
phiếutrái lãi toán thanh số Hệ
=
Hệ số trên quá thấp hay không đáp ứng thanh toán tiền lãi cho
các trái chủ làm cho công ty thất bại trong việc vay nợ. Hệ số này cho
thấy mức độ an toàn trong thanh toán lãi cho các trái chủ. Khi công ty
thiếu khả năng thanh toán lãi cho các trái chủ sẽ đặt công ty vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ.
b) Hệ số thanh toán cổ tức ưu đãi
đãi ưutức Cổ
thuế sau nhuận Lợi
đãi lưu tức cổ toán thanh số Hệ
=
Hệ số này cho thấy mức độ an toàn trong viêc thanh toán cổ tức
cho các cổ đông. Khi công ty không đủ khả năng thanh toán cổ tức
cho cổ đông, sẽ đặt công ty vào tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ và ảnh hưởng đến giá trò cổ phiếu ưu đãi trên thò trường
1.5.4 Chỉ số về khả năng lợi nhuận và sử dụng tài sản
Việc tính toán khả năng lợi nhuận chỉ ra số lợi nhuận mà công
ty đạt được cho mỗi đồng doanh thu (doanh số). Các nhà phân tích
thường nhìn vào cả lợi nhuận gộp và lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau
thuế) để đánh giá khả năng tạo lợi nhuận
a) Hệ số lợi nhuận gộp
thuần thu Doanh
gộp nhuận Lợi

gộp nhuận lợi số Hệ
=
b) Hệ số lợi nhuận ròng
thuần thu Doanh
ròngnhuận Lợi
ròngnhuận lợi số Hệ
=
d) Tỷ lệ hoàn vốn cổ phiếu thường
Tỷ lệ hoàn vốn cổ phiếu thường là một trong các chỉ tiêu đo
lường quan trọng khả năng tạo lợi nhuận của công ty năm này so với
năm khác

lại giữ nhập thu vốn dư thặng thường phiếucổ giá Mệnh
đãi ưutức Cổ - ròngnhuận Lợi
thường phầncổ vốn hoànlệ Tỷ
++
=
e) Giá sổ sách của cổ phiếu thường

thường
thường phiếucổ Số
đãi ưu phiếucổ - trả phảinợ tổng - hìnhvô sản tài - sản tài Tổng
phiếucổ của
sách sổ Giá
=
1.5.5 Đánh giá thu nhập
a) Thu nhập của mỗi cổ phiếu thường (EPS)
hànhlưu đang thường phiếucổ Số
đãi ưutức Cổ - thuế sau nhuận Lợi
EPS

=
b) Cổ tức cho một cổ phiếu thường (DPS)
hànhlưu đang thường phiếucổ Số
lại giữ nhuận Lợi - đãi ưutức Cổ - thuế sau nhuận Lợi
DPS
=
c) Chỉ số giá cả trên thu nhập (P/E)
EPS
phiếucổ của trường thò Giá
nhập thu trên cả giá số Chỉ
=
Hệ số P/E cao chỉ ra rằng nhà đầu tư đang trả giá cao cho thu
nhập ngày hôm nay. Họ làm như vậy hy vọng thu nhập tương lai sẽ cao
hơn. Các cổ phiếu có hệ số P/E cao có khuynh hướng trả cổ tức thấp
d) Hệ số chi trả cổ tức
Hệ số này là tỷ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông
thường dưới dạng cổ tức
EPS
DPS
tức cổ trả chi số Hệ
=
e) Lơiï tức hiện thời (hệ số lãi cổ phần trên thời giá)
Lợi tức hiện thời cho cổ phiếu thường thể hiện tỷ lệ hoàn vốn
cổ tức dựa trên giá trò thò trường hiện thời của cổ phiếu.

thường phiếucổ mỗi của trường thò trò Giá
thường phiếucổ mỗi của năm hàngtức Cổ
thường phiếucổ 1 của thời hiệntức Lợi
=
Chương 2 – Tình hình thực tế của Thị trường chứng khốn và các cổ phiếu cụ thể

trước và sau lạm phát
2.1 Tình hình Thị trường chứng khốn Việt Nam
2.1.1 Chỉ số chứng khốn trước lạm phát
Sau khi ra nhập WTO, Thị trường chứng khốn Việt Nam đã có những
bước chuyển biến đáng kể. Thị trường chứng khốn VN bắt đầu có những sự khởi
sắc nhất định. Chúng ta có thể thấy rõ điều này thơng qua số lượng các quỹ đầu tư
nước ngoài đăng ký tham gia hoạt động tại thị trường tài chính VN tăng nhanh.
Mức cầu chứng khoán gia tăng đã giúp chỉ số VN Index liên tục tăng trong 4-5
tháng đầu năm 2006, và đạt mức kỷ lục là 632,69 điểm (ngày 25/4/2006). Sau giai
đoạn đó, Thị trường chứng khoán tiếp tục khởi sắc với những phiên tăng điểm kéo
dài và ổn định. Trong giai đoạn đó, những cơn sốt cổ phiếu đang diễn ra. Giới đầu
tư bắt đầu săn lùng những cổ phiếu lần đầu IPO. Điều này đã đẩy giá chứng
khoán tăng mạnh. Những công ty lớn lần đầu niêm yết được giới đầu tư quan tâm
như ACB, FPT … liên tiếp tạo lập kỷ lục về giá niêm yết.
Tiếp nối thành công của năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp
tục có những bước chuyển mình trong năm 2007. Với những phát triển vượt bậc
về quy mô, chất lượng, thị trường chứng khoán đã và đang chứng minh vị thế và
tầm ảnh hướng đáng phải có của nó với đời sống kinh tế đất nước. Nền kinh tế
bước vào năm 2007 tràn đầy tín hiệu lạc quan. Việc tổ chức thành công hội nghị
cấp cao APEC, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO cùng với tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm tạo cơ sở cho niềm tin về tương lai
phát triển của kinh tế đất nước.
Niềm tin được thể hiện mạnh mẽ trên thị trường chứng khoán. Giới đầu tư
nước ngoài liên tục huy động vốn và chuyển tiền vào Việt Nam chuẩn bị cho
những kế hoạch giải ngân dài hơi với quy mô lớn. Nhà đầu tư và các công ty trong
nước cũng tập trung nhiều hơn vào lĩnh vực tài chính chứng khoán – chính xác, tài
chính và chứng khoán trở thành một dạng “mốt”.
Thị trường chứng khoán chính thức có một bước nhảy vọt cả về số lượng
các công ty niêm yết, chất lượng hàng hóa và quy mô giao dịch. Làn sóng các
công ty niêm yết cuối năm 2006 nhằm hưởng ưu đãi thuế đã không gây ra khủng

hoảng như một số chuyên gia dự báo, mà trái lại, đã trở thành một lực đẩy tích
cực. Với sự góp mặt của FPT, PVD, PPC, SSI, DPM, HPG…, số lượng các cổ
phiếu lớn có ảnh hưởng liên thông gần với VN-Index tăng lên. Thị trường không
còn chịu tác động chỉ từ một hai mã cổ phiếu nên có độ cân bằng cao hơn.
Tính thanh khoản lên cao chưa từng thấy, đưa thị trường vào giai đoạn phát
triển bùng nổ. Số lượng tài khoản nhà đầu tư cũng như giá trị giao dịch tăng từng
phiên. Nếu như đầu năm 2006, giá trị giao dịch mỗi phiên chỉ vài chục tỉ đồng thì
năm 2007 con số này đạt khoảng 1.000 tỉ đồng. Thị trường chứng khoán chính
thức trở thành kênh thu hút vốn cho doanh nghiệp, kênh đầu tư sinh lời của người
dân – nơi đâu đó giấc mơ đổi đời đã trở thành sự thật.
Khởi đầu năm 2007 với con số 751,77 điểm, chỉ sau hơn 3 tháng VN-Index
đã vọt lên đỉnh 1170,67 điểm ngày 12/3. Đây chính là giai đoạn thăng hoa nhất
trong lịch sử 8 năm vận hành của Thị trường chứng khoán. Trái “bong bong chứng
khoán” trở thành chiếc túi không đáy hút liên tục các nguồn tiền khác nhau.
Chặng đường tới đỉnh bắt đầu với đợt tăng giá của các công ty lớn
(bluechip) có kết quả kinh doanh tốt. Thị trường được đẩy lên khỏi mức 1.000
điểm. Lợi nhuận đem lại từ đầu tư chứng khoán đi vào câu chuyện thường ngày
của mọi nhà, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên Đán, kéo một lượng nhà đầu tư mới
ra nhập thị trường. Các cổ phiếu tiếp tục tăng giá sau Tết. Nổi bật ở giai đoạn này
là các cổ phiếu mang tính đầu cơ cao như các cổ phiếu các công ty nhỏ sàn HOSE
(TP.HCM) và cổ phiếu các công ty thuộc tổng công ty Sông Đà, các công ty in
sách giao khoa trên sàn HASTC (Hà Nội). Giá nhiều cổ phiếu tăng không ngừng
khiến các chỉ số phân tích cơ bản bị bỏ lại đằng sau đủ để nhiều nhà đầu tư cảm
thấy chúng quá đắt. Khi mọi người đều nghĩ “quá cao” thì giảm giá là điều tất yếu.
Thị trường giảm liên tục từ giữa tháng 3. Cổ phiếu mất giá khiến không ít nhà đầu
tư mà đa phần là những người mới gia nhập thị trường thua lỗ nặng. Đây là bài
học đầu tiên trong năm nhưng cũng rất cần thiết với nhà đầu tư. Chỉ có mất mát từ
thị trường mới có thể tác động được vào những quan niệm như: Thị trường chứng
khoán là cỗ máy in tiền, cứ mua là lãi, đầu tư là công việc nhàn hạ, dễ dàng, thậm
chí nhiều người còn coi Thị trường chứng khoán như sòng bạc. Từ mức đỉnh

1170,67 điểm thị trường rơi xuống mức đáy 905,53 ngày 24/4.
Khi mà nhiều người, thậm chí là các chuyên gia đã nghĩ đến sự sụp đổ,
bong bong vỡ hay hiệu ứng domino thì thị trường chứng minh điều ngược lại. Thị
trường và những người tham gia vào nó đã trưởng thành. Đợt giảm giá chỉ là điều
chỉnh mà không có đổ vỡ. Khi giá nhiều mã cổ phiếu giảm khoảng 30% cũng là cơ
hội đầu tư quay trở lại. Được tiếp thêm sức mạnh sau kì nghỉ lễ 30/4 và 1/5, thị
trường bắt đầu tăng giá trong tháng năm. Thị trường giai đoạn này tăng trở lại khá
nhanh nhưng không lập lại được mức đỉnh cũ, chỉ đạt 1113,19 điểm ngày 23/5.
Bị ảnh hưởng bởi đợt đấu giá Bảo Việt, thị trường lại một lần nữa đi xuống.
Tuy nhiên, trong xu thế giảm giá kéo dài của toàn thị trường lại xuất hiện những
con cá hồi bơi ngược dòng. Tiêu điểm thời gian này là giao dịch của cá cổ phiếu
“hiếm” như BMC, TCT, SGH,LBM. Các cổ phiếu này có đặc điểm chung là số
lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường ít, phần nào được kiểm soát. Khi có các
thông tin tốt về kết quả sản xuất hay những lợi thế về tài nguyên, đất đai, giá lập
tức được đẩy lên. Số lượng đặt mua có thể đạt đến triệu đơn vị, trong khi đó số
lượng bán ra chỉ nhỏ giọt từng chút một như một động tác để đẩy giá lên kịch trần.
Sau gần 3 tháng đến ngày 23/8 VN Index lại rơi xuống 887,62 điểm.
Thị trường tiếp tục cho thấy sức đẩy ở mức 900 điểm. Như được hồi sức sau
ngày nghỉ lễ 2/9, VN-Index quay lại con đường chinh phục đỉnh cao. Tuy nhiên,
dẫn đạo xu hướng không còn là bluechip mà là các cổ phiếu nhỏ, các cổ phiếu sàn
hà Nội và các cổ phiếu mới niêm yết. VN Index quay trở lại 1106,6 điểm ngày
3/10.
Việc giá cổ phiếu các công ty mới niêm yết tăng mạnh như động lực đưa
các công ty đã có dự định niêm yết nhanh chóng lên sàn. Nhưng khi thời gian

×