Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến sinh kế của hộ nông dân ở xã đa tốn, huyện gia lâm, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 112 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được sử dụng để
bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả khóa luận
Nguyễn Duy Thăng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài: “Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp
đến sinh kế của hộ nông dân ở xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà
Nội ", tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả các thầy cô giáo: Khoa kinh
tế và phát triển nông thôn, bộ môn Kinh tế nông nghiệp và Chính sách đã
truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong quá trình học tập và thực
hiện khóa luận này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo cùng với các cán bộ UBND xã
Đa Tốn, Hợp tác xã Nông nghiệp xã Đa Tốn cùng với các nông dân đã tạo
điều kiện giúp đỡ cho tôi trong suất quá trình diều tra thu thập số liệu tại
địa phương.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn Th.s
Nguyễn Thị Thiêm, người đã nhịêt tình chỉ dẫn, định hướng, truyền thụ
kiến thức trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả các đồng
nghiệp, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014.
Tác giả khóa luận
Nguyễn Duy Thăng

I. MỞ ĐẦU
1.1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu


Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Do yêu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, việc xây dựng các khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị, … là tất yếu. Tuy nhiên, quá trình trên
cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế, xã hội rất bức xúc ở các địa phương,
nhất là ở những nơi có tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh chóng. Nước
ta là một nước nông nghiệp, một trong những nước đi đầu về tăng trưởng kinh
tế nông nghiệp, nhất là lương thực. Với hơn 70% dân số sống ở khu vực nông
thôn, sản xuất lúa nước là chính. Trước thách thức đất nông nghiệp ngày càng
bị thu hẹp, sinh kế của hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất được coi là bức xúc
nhất, đây cũng là thách thức lớn nhất đối với chiến lược phát triển nông
nghiệp, nông thôn nói riêng và phát triển đất nước nói chung.
Xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm là nơi thuộc ngoại thành Hà Nội, thuộc khu
vực nông nghiệp, nông thôn, cung cấp lương thực, thực phẩm cho thủ đô. Do
là khu vực ngoại thành thủ đô, xã có quá trình đô thị hóa nhanh, đất sản xuất
nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, thay vào đó là những KCN, KĐT. Người
dân ở đây sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, khi mất đất, mất tư
liệu sản xuất, người dân không có việc làm, cuộc sống gặp nhiều khó khăn
hơn. Thực tế có một số hộ có thu nhập cao hơn so với trước khi thu hồi đất,
nhưng cũng có nhiều hộ gặp khó khăn trong việc tạo lập sinh kế mới cho
mình. Sau một thời gian tìm hiểu việc thu hồi đất nông nghiệp ở đây, tôi
quyết định chọn đề tài: “Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến
sinh kế của hộ nông dân xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội” để
phân tích sự thay đổi về các nguồn vốn sinh kế, chiến lược sinh kế và kết quả
sinh kế của hộ nông dân trước và sau khi bị thu hồi đất từ đó có những cơ sở
đưa ra những giải pháp hợp lý để phát triển ổn định và bền vững sau khi nhà
nước thu hồi đất.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến sinh kế
của hộ nông dân, đề xuất những giải pháp nhằm đảm bảo sinh kế bền vững

cho hộ nông dân tại xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về sinh kế, ảnh hưởng
của việc thu hồi đất đến sinh kế hộ nông dân.
Phân tích ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến các nguồn vốn sinh kế,
chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế của hộ nông dân sau khi thu hồi đất ở xã
Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Đề một số giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo sinh kế bền vững cho hộ
nông dân sau khi thu hồi đất.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Sinh kế là gì? Sinh kế bền vững?
Việc thu hồi đất có những ảnh hưởng như thế nào đến nguồn vốn sinh
kế, chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế của các hộ nông dân?
Cần làm gì để các nguồn vốn sinh kế, chiến lược sinh kế của các hộ
nông dân được duy trì, phát triển và kết quả sinh kết được cải thiện.
1.4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những ảnh hưởng của việc thu hồi
đất nông nghiệp đến nguồn lực sinh kế, chiến lược sinh kế, kết quả sinh kế
của hộ nông dân.
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu nguồn lực sinh kế,
chiến lược sinh kế, kết quả sinh kế của những hộ nông dân sau khi bị thu hồi
đất, phân tích quá trình thay đổi và các yếu tố ảnh hưởng.
Phạm vi không gian: đề tài được triển khai nghiên cứu tại xã Đa Tốn,
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Phạm vi thời gian:
• Số liệu nghiên cứu từ năm 2011 đến năm 2013.
• Thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2014 đến 05/2014.
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
II.1. Cơ sở lý luận

II.1.1.Khái niệm về sinh kế của hộ nông dân
II.1.1.1.Sinh kế
Phương pháp tiếp cận sinh kế là một trong các phương pháp tiếp cận
trong phát triển nông thôn không chỉ nâng cao mọi mặt đời sống hộ gia đình
mà còn phát triển nông nghiệp, nông thôn theo xu hướng bền vững và hiệu
quả. Người đi đầu về nội dung sinh kế đó là Robert Chambers trong tác phẩm
của ông vào những năm 1980. Từ đó một số cơ quan phát triển đã tiếp nhận
khái niệm sinh kế và cố gắng đưa vào thực hiện. Phương pháp tiếp cận sinh
kế đã được phát triển và hoàn thiện ở các nước phát triển trên thế giới, dựa
trên khuôn khổ cam kết hỗ trợ của Bộ phát triển quốc tế Anh về “Những
chính sách và hành động cho việc xúc tiến các loại hình sinh kế bền vững”.
Đây là một trong ba mục tiêu chung mà Bộ Nông nghiệp quốc tế Anh đã đặt
ra trong sách Trắng năm 1997 nhằm đạt được những mục tiêu chung về xóa
đói giảm nghèo.
Theo khái niệm của Bộ Nông nghiệp quốc tế Anh đưa ra thì “Một sinh
kế có thể được miêu tả như là sự tập hợp các nguồn lực và khả năng con
người có được kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi
nhằm để kiếm sống cũng như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện của
họ”.
Theo khái niệm nêu trên thì chúng ta thấy sinh kế bao gồm toàn bộ
những hoạt động của con người để đạt được mục tiêu dựa trên những nguồn
lực sẵn có của con người như các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các nguồn
vốn, lao động, trình độ phát triển của khoa học công nghệ.
Về cơ bản các hoạt động sinh kế là do mỗi cá nhân hay hộ gia đình tự
quyết định dựa vào năng lực và khả năng của họ và đồng thời chịu tác động
của các thể chế chính sách và các mối quan hệ xã hội mà mỗi cá nhân và hộ
gia đình tự thiết lập trong cộng đồng. Sinh kế là cách làm ăn để mưu sống bao
gồm tập hợp tất cả các nguồn lực và khả năng mà con người có được, kết hợp
với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi để kiếm sống cũng như để
đạt được các mục tiêu và ước nguyện của họ. Các nguồn vốn sinh kế hộ nông

dân có được bao gồm vốn con người, vốn vật chất, vốn tự nhiên, vốn tài chính
và vốn xã hội. Hay nói cách khác sinh kế của một hộ gia đình, một cộng đồng
còn được gọi là kế sinh nhai của hộ gia đình hay cộng đồng đó.
Nghiên cứu kết quả sinh kế sẽ cho chúng ta hiểu được động lực nào dẫn
tới các hoạt động mà họ đang thực hiện và những ưu tiên của họ là gì. Đồng
thời cũng cho thấy phản ứng của người dân trước những cơ hội và nguy cơ
mới. Kết quả sinh kế thể hiện trên chỉ số như cuộc sống hưng thịnh hơn, đời
sống được nâng cao, khả năng tổn thương giảm, an ninh lương thực được
củng cố và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do đó cần
phải kết hợp và sử dụng khác nhau như đất đai, vốn, khoa học công nghệ.
Sinh kế bền vững
Khái niệm sinh kế lần đầu tiên được đề cập trong báo cáo Brundland
(1987) tại hội nghị thế giới vì môi trường và phát triển. Một sinh kế được cho là
bền vững khi con người có thể đối phó và khắc phục được những áp lực và cú sốc.
Đồng thời có thể duy trì hoặc nâng cao khả năng và tài sản ở cả hiện tại và tương
lai mà không gây tổn hại đến cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái
niệm phát triển vào những năm đầu 1990. Tác giả Chambers và Conway
(1992) định nghĩa về sinh kế bền vững như sau: Sinh kế bền vững bao gồm
con người, năng lực và kế sinh nhai, gồm có lương thực, thu nhập và tài sản
của họ. Ba khía cạnh tài sản là tài nguyên, dự trữ, và tài sản vô hình như dư
nợ và cơ hội. Sinh kế bền vững về mặt xã hội khi có thể chống chịu hoặc hồi
sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp cho thế hệ tương lai.
Sinh kế của một cá nhân, một hộ gia đình, một cộng đồng được xem là
bền vững khi cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng đó có thể vượt qua những biến
động trong cuộc sống do thiên tai dịch bệnh, hoặc khủng hoảng kinh tế gây ra.
Phát triển hơn nguồn tài sản hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
II.1.1.2. Khung sinh kế bền vững
Khung sinh kế bền vững bao gồm những nhân tố chính ảnh hưởng đến

sinh kế của con người, và những mối quan hệ cơ bản giữa chúng. Có thể sử
dụng để lên kế hoạch cho những hoạt động phát triển mới và đánh giá sự
đóng góp vào sự bền vững sinh kế của những hoạt động hiện tại. Cụ thể là:
Cung cấp bảng liệt kê những vấn đề quan trọng nhất và phác họa mối
liên hệ giữa những thành phần này.
Tập trung sự chú ý vào các tác động và các quy trình quan trọng.
Nhấn mạnh sự tương tác phức tạp giữa các nhân tố khác nhau, làm ảnh
hưởng tới sinh kế
Khung sinh kế bền vững được thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1. Khung sinh kế bền vững
Nguồn: DFIT, 2001
Đây là khung giúp cho người sử dụng hiểu được các loại hình sinh kế
hiện hữu và dùng nó làm cơ sở để lập kế hoạch cho các hoạt động phát triển
và các hoạt động khác. Điều này kéo theo việc phân tích và sử dụng nhiều
Tự
nhiên
Tài
chính
X
ã hội
Vật
chất
Con
người
Bối cảnh
dễ tổn
thương
-Xu
hướng
- Thời

vụ
-Chấn
động
(trong tự
nhiên và
môi
trường, thị
trường,
chính trị,
chiến
tranh…)
Chính sách,
tiến trình và
cơ cấu
-Ở các cấp
khác nhau của
Chính phủ,
luật pháp,
chính sách
công, các
động lực, các
qui tắc
-Chính
sách và thái độ
đối với khu
vực tư nhân
-Các thiết
chế công dân,
chính trị và
kinh tế (thị

trường, văn
hoá)
Các chiến
lược SK
-Các
tác nhân xã
hội (nam,
nữ, hộ gia
đình, cộng
đồng …)
-Các cơ
sở tài
nguyên
thiên nhiên
-Cơ sở
thị trường
- Đa
dạng
-Sinh
tồn hoặc
tính bền
vững
Các kết quả
SK
-Thu nhập
nhiều hơn.
-Cuộc sống
đầy đủ hơn.
-Giảm khả
năng tổn thương.

-An ninh
lương thực được
cải thiện.
-Công bằng
xã hội được cải
thiện.
-Tăng tính
bền vững của tài
nguyên thiên
nhiên
-Giá trị
không sử dụng
của tự nhiên
được bảo vệ
loại công cụ hiện có như phân tích xã hội và phân tích các bên liên quan, các
phương pháp đánh giá nhanh và đánh giá kinh tế về: Bối cảnh sống của người
dân, trong đó bao gồm những ảnh hưởng của các xu hướng bên ngoài (xu
hướng về kinh tế, xu hướng phát triển dân số).
Khả năng tiếp cận của người dân đối với các loại tài sản sinh kế và khả
năng sử dụng chúng vào sản xuất.
Những thể chế, những chính sách và tổ chức định hình cho các loại
hình tài sản sinh kế của người dân.
Các chiến lược mà người dân áp dụng để theo đuổi mục đích của mình.
Khung sinh kế giúp sắp xếp những nhân tố gây cản trở hoặc tăng cường
các cơ hội sinh kế, đồng thời cho ta thấy cách thức chúng liên quan với nhau
như thế nào? Khung không phải là mô hình chính xác trong thực tế mà chỉ
đưa ra một cách tư duy về sinh kế, nhìn nhận trên góc độ phức hợp và sâu
rộng những vẫn đề trong khuôn khổ có thể quản lý được. Khung sinh kế luôn
đặt trong trạng thái động, không có điểm đầu, điểm cuối. Giá trị của một
khung sinh kế giúp cho người sử dụng nhìn nhận một cách bao quát và có hệ

thống các tác nhân gây ra nghèo khổ và mối quan hệ giữa chúng. Có thể đó là
những cú sốc và xu hướng bất lợi, các chính sách và thể chế hoạt động kém
hiệu quả hoặc việc thiếu cơ bản các tài sản sinh kế.
Mục đích của khung sinh kế là để tìm hiểu những cách thức mà con
người đã kết hợp và sử dụng các nguồn lực, khả năng nhằm kiếm sống cũng
như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện của họ. Những mục tiêu và ước
nguyện mà con người đạt được nhờ sử dụng và kết hợp các nguồn lực khác
nhau có thể gọi là kết quả sinh kế. Đây là những thứ mà con người muốn đạt
được trong cuộc sống kể cả trước mắt cũng như lâu dài.
Các thành phần của khung sinh kế bền vững
Hoàn cảnh dễ bị tổn thương
Hoàn cảnh dễ bị tổn thương là môi trường sống bên ngoài của con
người. Sinh kế và tài sản sẵn có của con người bị ảnh hưởng cơ bản bởi
những xu hướng chủ yếu, cũng như bởi những cú sốc và tính thời vụ. Chính
những điều này khiến sinh kế và tài sản trở nên bị giới hạn và không kiểm
soát được.
Một số ví dụ về các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản và sinh kế của con
người. Xu hướng: xu hướng dân số, xu hướng tài nguyên kể cả xung đột, xu
hướng kinh tế quốc gia, quốc tế, những xu hướng thể chế (bao gồm chính
sách, những xu hướng kỹ thuật ). Cú sốc: cú sốc về sức khoẻ con người,
thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh cây trồng vật nuôi. Tính thời vụ: biến động giá
cả, sản xuất, sức khoẻ, những cơ hội làm việc.
Những nhân tố cấu thành hoàn cảnh dễ bị tổn thương quan trọng vì chúng
có tác động trực tiếp lên tình trạng tài sản và những lựa chọn của con người mà
với chúng sẽ mở ra cơ hội để họ theo đuổi những kết quả sinh kế có lợi.
Tài sản sinh kế
Sơ đồ 2.2. Tài sản sinh kế của người dân
Nguồn: Phạm Văn Hùng, 2008
Khung sinh kế xác định 5 loại tài sản trung tâm mà dựa vào đó tạo ra
những sinh kế: Nguồn vốn con người, nguồn vốn xã hội, nguồn vốn tự nhiên,

nguồn vốn vật thể, nguồn vốn tài chính.
Nguồn vốn nhân lực
Nguồn nhân lực bao gồm kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động và sức
khoẻ con người. Các yếu tố đó giúp cho con người có thể theo đuổi những
chiến lược tìm kiếm thu nhập khác nhau và đạt những mục tiêu kế sinh nhai
của họ. Ở mức độ gia đình, nguồn nhân lực được xem là số lượng và chất
lượng nhân lực có sẵn. Những thay đổi này phụ thuộc vào quy mô hộ, trình
độ, kỹ năng, khả năng lãnh đạo và bảo vệ sức khoẻ.
Nguồn nhân lực là một yếu tố cấu thành nên kế sinh nhai, được xem là
nền tảng hay phương tiện để đạt được mục tiêu thu nhập.
Điều gì có thể tạo nên vốn con người cho người dân ở nông thôn?
Việc hỗ trợ nguồn nhân lực có thể thực hiện cả trực tiếp lẫn gián tiếp.
Trong cả hai cách thực hiện đó kết quả thực sự mang lại chỉ khi con người,
chính bản thân họ sẵn sàng đầu tư vào vốn nhân lực của họ bằng cách tham
gia vào các khoá đào tạo hay trường học. Tiếp cận với các dịch vụ phòng
ngừa dịch bệnh. Trong trường hợp con người bị ngăn cản bởi những việc làm
trái với lẽ thường (những tiêu chuẩn xã hội hay chính sách cứng nhắc ngăn
cấm phụ nữ tới trường) thì việc hỗ trợ gián tiếp vào việc phát triển vốn con
người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nguồn vốn xã hội
Vốn xã hội là những nguồn lực xã hội dựa trên những gì mà con người
vẽ ra để theo đuổi mục tiêu kế sinh nhai của họ. Chúng bao gồm:
Các tương tác và mạng lưới, cả chiều dọc (người bảo lãnh/khách hàng
quen) và chiều ngang (giữa các cá nhân có cùng mối quan tâm) có tác động
làm tăng cả uy tín và khả năng làm việc của con người, mở rộng tiếp cận với
các thể chế, như các thể chế chính trị và cộng đồng.
Là thành viên trong một nhóm ảnh hưởng hoặc kế thừa triệt để các quyết
định chung, các quy tắc được chấp nhận, các tiêu chuẩn và mệnh lệnh. Uy tín của
các mối quan hệ, sự nhân nhượng và sự trao đổi khuyến khích kết hợp, cắt giảm
các chi phí giao dịch và có thể tạo ra một mạng lưới không chính thức xung quanh

vấn đề nghèo đói.
Trong năm yếu tố cơ bản của kế sinh nhai, nguồn vốn xã hội có quan hệ
sâu sắc nhất đối với sự chuyển dịch quá trình và chuyển dịch cơ cấu. Thực sự có
thể là hữu ích nếu xem vốn xã hội như sản phẩm của một tiến trình hoặc cấu
trúc, thông qua các mối quan hệ đơn giản này các tiến trình và cấu trúc trở thành
sản phẩm của nguồn vốn xã hội. Mối quan hệ này đưa ra hai con đường và có
thể làm cho nó phát triển hơn.
Nguồn vốn tự nhiên
Vốn tự nhiên là những yếu tố được sử dụng trong các nguồn lực tự
nhiên. Nó cung cấp và phục vụ rất hữu ích cho phương kế kiếm sống của con
người. Có rất nhiều nguồn lực hình thành nên vốn tự nhiên. Từ các hàng hoá
công vô hình như không khí, tính đa dạng sinh học đến các tài sản có thể phân
chia được sử dụng trực tiếp trong sản xuất như: đất đai, nguồn nước, cây
trồng, vật nuôi, mùa màng.
Trong khung sinh kế bền vững. Mối quan hệ giữa nguồn vốn tự nhiên
và các tổn hại có sự gắn kết thực sự. Nhiều thảm hoạ tàn phá kế sinh nhai của
người nghèo thường xuất phát từ các tiến trình của tự nhiên, tàn phá nguồn
vốn tự nhiên (cháy rừng, lũ và động đất làm thiệt hại về hoa màu và đất nông
nghiệp). Và tính mùa vụ thì ảnh hưởng lớn đến những biến đổi trong năng
suất và giá trị của nguồn vốn tự nhiên qua các năm.
Nguồn vốn vật thể
Vốn vật thể gồm các cơ sở hạ tầng xã hội, tài sản hộ gia đình hỗ trợ cho
sinh kế như: giao thông, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống ngăn, tưới tiêu,
cung cấp năng lượng, nhà ở, các phương tiện sản xuất, đi lại, thông tin.
Nguồn vốn tài chính
Vốn tài chính thể hiện nguồn lực tài chính được con người sử dụng để
hướng tới mục tiêu sinh kế của họ. Định nghĩa được sử dụng ở đây không
mang tính chất kinh tế mà nó bao gồm những dòng tích trữ và có thể góp
phần vào việc tiêu dùng sản phẩm. Tuy nhiên, nó phải được thực hiện để đạt
được một nền tảng sinh kế quan trọng, đó là giá trị của tiền mặt hoặc tính

thanh khoản, người ta có thể làm theo những cách sinh kế khác.
Có hai nguồn vốn tài chính chủ yếu.
Vốn sẵn có: Tiết kiệm là loại vốn tài chính được ưa thích vì nó không
bị ràng buộc về pháp lý. Chúng có thể có nhiều hình thức: tiền mặt, tín dụng
ngân hàng, hoặc tài sản thanh khoản khác như vật nuôi, nữ trang Nguồn lực
tài chính có thể tồn tại dưới dạng các tổ chức cung cấp tín dụng.
Dòng tiền đều: Ngoại trừ thu nhập hầu hết loại này là tiền trợ cấp, hoặc
sự chuyển giao. Để có sự tạo lập rõ ràng vốn tài chính từ những dòng tiền này
phải xác thực (trong khi sự đáng tin cậy hoàn toàn không bao giờ được đảm
bảo có sự khác nhau giữa việc trả nợ một lần với sự chuyển giao thường xuyên
vào kế hoạch đầu tư).
Đặc điểm của mô hình 5 loại tài sản
Những ngũ giác có hình dạng khác nhau có thể được vẽ cho những
cộng đồng khác nhau hoặc cho những nhóm xã hội khác nhau trong cộng
đồng đó.
Một tài sản riêng lẻ có thể tạo ra nhiều lợi ích. Nếu một người có thể tiếp
cận chắc chắn với đất đai (tài sản tự nhiên) họ cũng có thể có được nguồn tài
chính vì họ có thể sử dụng đất đai không chỉ cho những hoạt động sản xuất trực
tiếp mà còn cho thuê.
Phẩm chất của tài sản thay đổi thường xuyên vì vậy ngũ giác cũng thay
đổi liên tục theo thời gian.
Hình dạng của ngũ giác diễn tả khả năng tiếp cận của người dân với các
loại tài sản. Tâm điểm là nơi không tiếp cận được với loại tài sản nào. Các
điểm nằm trên chu vi là tiếp cận tối đa với các loại tài sản. Như vậy, những
ngũ giác có hình dạng khác nhau có thể được vẽ cho những cộng đồng khác
nhau hoặc cho những nhóm xã hội khác nhau trong cộng đồng đó. Điều quan
trọng là một tài sản riêng lẻ có thể tạo ra nhiều lợi ích. Sơ đồ hình ngũ giác rất
hữu ích cho việc tìm ra điểm nào thích hợp, những tài sản nào sẽ phục vụ cho
nhu cầu của nhóm xã hội khác nhau và cân bằng giữa những tài sản đó như
thế nào.

Chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế
Chiến lược sinh kế là cách thức sinh nhai để người dân đạt được mục
tiêu của họ. Các hộ gia đình, các cộng đồng thường theo đuổi chiến lược đa
sinh kế (nhiều cách sinh sống). Các chiến lược sinh kế đó có thể phụ thuộc
hoặc không phụ thuộc vào điều kiện môi trường, chúng phụ thuộc ít nhiều vào
thị trường, việc làm trong nền kinh tế và chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Người dân có thể sử dụng những gì mà họ có thể tiếp cận được để
tồn tại hoặc cải thiện tình hình hiện tại.
Chiến lược sinh kế của người dân bao gồm những quyết định và lựa
chọn của họ về sự đầu tư và sự kết hợp các nguồn lực sinh kế nào với nhau.
Quy mô của các hoạt động tạo thu nhập mà họ đang theo đuổi. Quản lý như
thế nào để bảo tồn được các nguồn lực sinh kế và thu nhập của họ? Cách
người dân thu thập và phát triển các kiến thức, kĩ năng cần thiết để kiếm
sống ? Cách sử dụng thời gian và công sức? Cách họ đối phó với rủi ro.
Kết quả sinh kế mang tính chất là tiêu chí cao nhất trong khung sinh kế
bền vững. Kết quả sinh kế là vấn đề thuộc về an sinh xã hội, cuộc sống của
người dân ra sao. Thu nhập của họ như thế nào? An ninh lương thực, khả
năng ứng biến sinh kế trước những thay đổi, cải thiện công bằng xã hội. Đây
là kết quả của những thay đổi cuối cùng mà người dân, cộng đồng và các tổ
chức phát triển mong muốn đạt được.
II.1.2.Lý luận về thu hồi đất nông nghiệp và ảnh hưởng của thu hồi đất
nông nghiệp đến sinh kế của hộ nông dân
II.1.2.1. Thu hồi đất nông nghiệp
Thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của
người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử
dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai.
II.1.2.2. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
(Chính phủ, 2004)

II.1.2.3. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu
hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di
dời đến địa điểm mới. (Chính Phủ, 2004)
II.1.2.4. Người bị thu hồi đất
Người bị thu hồi đất là tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, hộ
gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức
cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi.
Người bị thu hồi đất, bị thiệt hại tài sản gắn liền với đất bị thu hồi, được
bồi thường đất, tài sản, được hỗ trợ và bố trí tái định cư theo quy định tại
Nghị định này. (Chính phủ, 2004)
II.1.3.Ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến sinh kế hộ nông
dân
Thu hồi đất là tất yếu của các quốc gia đang phát triển, việc thu hồi đất
đã có nhiều ảnh hưởng đến người dân cả tích cực lẫn tiêu cực.
II.1.3.1. Ảnh hưởng tích cực
Thu hồi đất nông nghiệp để tiến hành CNH, HĐH kết quả sẽ tạo ra
chuyển dịch cơ cấu theo hướng số lượng công nghiệp thương mại và dịch vụ
tăng, giảm dần tỷ trọng số lượng nông nghiệp chuyển dịch cơ cấu nhằm làm
nâng cao hiệu quả sử dụng đất tạo nhiều nguồn thu cho ngân sách địa phương
và trung ương. Đây là mục tiêu vừa là kết quả của CNH, HĐH từ đó nâng cao
hiệu quả sử dụng đất.
Thu hồi đất nông nghiệp để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá
tạo ra nhiều cơ hội cho nông dân. Việc thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng
các khu công nghiệp, khu chế xuất, các nhà máy, đã tạo ra nhiều việc làm cho
xã hội, trong đó có những người nông dân. Chỉ tính riêng các KCN trong cả
nước trong thời gian qua đã tạo ra 1,2 triệu lao động, nếu tính được lao động
làm việc trực tiếp tại các cụm công nghiệp vừa và nhỏ thì con số này còn lớn
hơn nhiều. Tạo việc làm và thu nhập không chỉ là cuộc sống của bản thân
những người lao động mà còn là niềm vui của cả gia đình họ.

Các KCN, KCX, các nhà máy sản xuất công nghiệp là nơi sử dụng lao
động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới, áp dụng vào sản
xuất đạt trình độ quốc tế. Do đó các khu vực này đóng góp rất lớn vào đào tạo
nguồn nhân lực để hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại.
Thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng, đô thị hoá cũng mang lại đời
sống vật chất và tinh thần cho toàn xã hội trong đó có nông dân, kết cấu hạ
tầng như cầu cống đường sá làm cho nông thôn xích gần thành thị, giao thông
đi lại giữa các vùng nông thôn được thuận lợi, sản phẩm nông nghiệp dễ dàng
được lưu thông, giảm chi phí lưu thông sản phẩm nông nghiệp của nông dân
dễ dàng tiêu thụ từ đó làm cho nông nghiệp phát triển.
Đô thị hoá cũng làm thay đổi bộ mặt dân cư nông thôn Việt Nam,
đường sá, cầu cống được nâng cấp, các thị trấn, dần dần được phát triển, nhà
cửa được xây dựng ngày càng khang trang hơn
II.1.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Thu hồi đất để thực hiện CNH, HĐH là nhằm mục tiêu nâng cao hiệu
quả sử dụng đất, từ đó mang lại thu nhập cao cho các doanh nghiệp, tăng
nguồn thu ngân sách, tạo ra nhiều việc làm, đời sống mọi tầng lớp nhân dân
được cải thiện, trong đó có người nông dân. Tuy nhiên nếu buông lỏng quản
lý của Nhà nước, công tác kiểm tra giám sát của Nhà nước thiếu chặt chẽ thì
việc thu hồi đất nông nghiệp của nông dân để tiến hành CNH, HĐH sẽ gây ra
nhiều hệ quả tiêu cực như:
Người nông dân bị thu hồi đất sẽ mất việc làm. Người nông dân mất đất
là mất tư liệu sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ. Tuy công
nghiệp hoá sẽ tạo thêm việc làm nhưng với trình độ của người nông dân với
tài năng và tư duy làm việc theo kiểu cá nhân, gia đình chưa có kỷ luật lao
động theo kiểu công nghiệp, chưa nói đến trình độ tay nghề thì cũng chưa đáp
ứng được yêu cầu của lao động trong các nhà máy, trong các doanh nghiệp,
phải có thời gian để thay đổi tư duy, thói quen và đào tạo tay nghề.
Thu hồi đất của nông dân thường đi đôi với việc nông dân phải thay đổi
chỗ ở có khi phải từ bỏ làng quê đã gắn bó với họ từ ngàn đời nay điều này tất

yếu phải xây dựng nơi ở TĐC cho những người nông dân bị thu hồi đất. Việc
người nông dân phải thay đổi chỗ ở từ bỏ mảnh đất đã gắn với họ bao đời nay
để đến nơi ở TĐC đã tác động đến tâm tư tình cảm của người nông dân, đây
là điểm đáng lưu ý trong quá trình tuyên truyền vận động và đưa ra chính sách
đối với người nông dân phải di chuyển vào các khu TĐC.
Việc những người nông dân bị mất chỗ ở phải di chuyển vào khu TĐC
cũng đã làm phá vỡ luỹ tre làng và văn hoá làng xã. Họ được vào ở các khu
chung cư, các nhà liền kề, cơ sở vật chất có thể tốt hơn, nhưng văn hoá truyền
thống nông thôn Việt Nam như là quan hệ làng xóm, anh em, họ hàng không
còn. Điều này vừa là tác động tích cực nên xét ở góc độ làm thay đổi tư duy
tầm nhìn không vượt qua "luỹ tre, cổng làng" của người nông dân Việt Nam,
để tiếp cận tư duy sản xuất công nghiệp, mặt khác "văn hoá làng xã" là cái
đặc thù từ ngàn đời nay của nông thôn Việt Nam, trải qua ngàn năm Bắc
thuộc, đến đô hộ của thực dân Pháp nhưng "văn hoá làng xã" của nông thôn
Việt Nam đã không bị hoà tan, không bị mất đi, nhờ vậy mà khi có sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta đã đánh đuổi được đế quốc phong kiến dành được
độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ.
Ô nhiễm môi trường, rác thải công nghiệp mà người nông dân phải trực
tiếp gánh chịu. Một trong những hệ quả của thu hồi đất để thực hiện CNH,
HĐH đó là ô nhiễm môi trường rác thải công nghiệp. Rác thải công nghiệp đã
làm ô nhiễm không khí, bụi khói, mùi hôi của các nhà máy công nghiệp, nước
thải công nghiệp chưa được xử lý đúng quy trình, chưa được đầu tư đúng mức
làm ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt và sản xuất của nhân dân nói chung và
nông dân nói riêng. Tình trạng gây nên các con sông chết trở thành phổ biến.
Tiến trình CNH và ĐTH được đẩy tới một cách thiếu cân nhắc thì môi
trường càng bị ô nhiễm, cảnh quan nông thôn càng bị tàn phá khốc liệt.
Cùng với nguồn nước bị ô nhiễm là bầu không khí bị ô nhiễm với bụi
có nhiều độc tố gây hại cho sức khỏe của người nông dân, nhất là người già
và con trẻ. Bụi và độc tố trong không khí mà những người dân quê đang hàng
ngày hít thở gây nguy hiểm không kém gì khói bụi chứa độc tố mà người

thành thị đang hít thở, thậm chí, có những vùng còn nguy hại hơn.
Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp đã có những tác động tích cực
lẫn tiêu cực đến người nông dân. Chính vì vậy, đi đôi với quá trình CNH,
HĐH cần nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong việc hoạch định các
chính sách, tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện, nâng cao trách nhiệm
của chính quyền các cấp trong việc giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội
đối với người dân trong quá trình CNH, HĐH nhằm hạn chế ở mức thấp nhất
những tác động tiêu cực. Có như vậy chúng ta mới đạt được mục tiêu của
CNH, HĐH.
II.1.4.Nội dung nghiên cứu ảnh hưởng của thu hồi đất nông nghiệp đến
sinh kế hộ nông dân
Khi đất nông nghiệp bị thu hồi, đời sống của người nông dân sẽ có
nhiều thay đổi. Mất đất, mất tư liệu sản xuất chính, các nguồn vốn sinh kế của
người nông dân cũng thay đổi theo, buộc họ phải có những chiến lược sinh kế
mới để phù hợp với những nguồn vốn sinh kế đã bị thay đổi, từ đó, kết quả
sinh kế của họ cũng có nhiều chuyển biến.
II.1.4.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của thu hồi đất đến nguồn lực sinh kế
của hộ nông dân
Đời sống luôn gắn liền với việc làm, có việc làm mới tạo ra nguồn thu
nhập đảm bảo cuộc sống hiện tại. Người nông dân khi bị mất đất, họ phải từ
bỏ đi nghề chính là nghề nông để chuyển sang các nghề khác. Trong bối cảnh
áp lực của nền kinh tế thị trường gia tăng, nhiều người nông dân không thể
tìm được việc làm hay không có đủ việc làm,vì thế lao động không có việc
làm trên địa bàn xã tăng lên, buộc các cấp chính quyền phải có các chính sách
hỗ trợ việc làm kịp thời cho họ.
Người nông dân bị mất đi tư liệu sản xuất chính là đất nông nghiệp, họ
phải tìm việc làm khác. Vì vậy, Nhà nước phải có những chính sách đào tạo
nghề và tạo việc làm cho người nông dân bị mất đất. Do đó, nguồn vốn xã hội
của người nông dân cũng bị thay đổi.
Diện tích đất nông nghiệp giảm do bị thu hồi để xây dựng những khu

đô thị, khu công nghiệp. Khi các khu đô thị, khu công nghiệp được xây dựng
lên, môi trường xung quanh sẽ bị ô nhiễm (đất, không khí, nguồn nước) làm
ảnh hưởng đến những phần đất nông nghiệp vẫn đang được người nông dân
canh tác. Do đó, khi bị thu hồi đất, nguồn vốn tự nhiên thay đổi nhiều gây
không ít khó khăn cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn xã.
Khi đất sản xuất nông nghiệp bị thu hồi, diện tích đất mất khá lớn và
người nông dân mất nguồn thu nhập từ đất, nhưng bù vào đó, Nhà nước bồi
thường bằng tiền, hỗ trợ chuyển đổi nghề cũng bằng tiền, số tiền đền bù tương
đối lớn, như vậy nguồn vốn tự nhiên chuyển thành nguồn vốn tài chính. Để
đảm bảo cuộc sống lâu dài người nông dân có thể sử dụng vào mục đích đầu
tư sản xuất tạo nguồn thu nhập hoặc học nghề để chuyển đổi nghề nghiệp.
Còn nếu người nông dân sử dụng nguồn vốn này để xây dựng nhà cửa, mua
sắm tài sản thì sinh kế của họ về lâu dài sẽ khó khăn.
Sau khi thu hồi đất, người dân bị mất đất sẽ được Nhà nước bồi thường,
họ có một khoản tiền không nhỏ để sắm sửa trang thiết bị, cơ sở vật chất và
tiêu dùng hằng ngày. Từ đó, nguồn vốn vật chất của người nông dân có nhiều
thay đổi, một số hộ nông dân không nhận thức đúng đắn hậu quả của sự thay
đổi này có đến tương lai của chính gia đình mình.
II.1.4.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của thu hồi đất đến chiến lược sinh kế
của hộ nông dân
Khi bị thu hồi đất nông nghiệp, tư liệu sản xuất chính của người nông
dân bị mất, kéo theo các nguồn vốn sinh kế của họ thay đổi. Vì vậy, người
nông dân cần có chiến lược sinh kế mới để thích nghi với những thay đổi đó.
II.1.4.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của thu hồi đất đến kết quả sinh kế của
hộ nông dân
Sau khi bị thu hồi đất, các nguồn vốn sinh kế, chiến lược sinh kế của
người nông dân thay đổi, dẫn đến kết quả sinh kế của họ cũng thay đổi theo.
Cơ cấu thu nhập của những hộ bị mất đất có nhiều thay đổi, thu nhập chính sẽ
không phải từ sản xuất nông nghiệp nữa, mà có thể thay vào đó là từ các
ngành nghề khác. Cuộc sống sẽ được cải thiện nhờ vào số tiền được đền bù và

các chính sách của Nhà nước hỗ trợ người nông dân bị mất đất sau khi thu
hồi.
II.2. Cơ sở thực tiễn
II.2.1.Kinh nghiệm hỗ trợ sinh kế bền vững cho người nông dân bị thu hồi
đất nông nghiệp trên thế giới
II.2.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là một quốc gia có điều kiện tự nhiên và phong tục tập
quán tương đối giống Việt Nam. Là nước đông dân nhất thế giới, với trên 1,3
tỷ người nhưng cũng giống như Việt Nam, gần 70% dân số Trung Quốc vẫn
sống ở khu vực nông thôn, hàng năm có tới hơn 10 triệu lao động đến tuổi
tham gia vào lực lượng lao động. Vì thế nhu cầu giải quyết việc làm càng trở
nên gay gắt. Sau cải cách và mở cửa nền kinh tế năm 1978, Trung Quốc đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội ở nông thôn,
từ đó rút ngắn khoảng cách nông thôn và thành thị. Trung Quốc coi việc phát
triển công nghiệp nông thôn là con đường giải quyết vấn đề việc làm và sinh
kế của người dân. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã thu hút lực lượng
lao động dôi dư ở nông thôn. Bên cạnh đó, chính sách khuyến khích đầu tư
của nhà nước cùng với sự đầu tư của kinh tế tư nhân vào khu vực những năm
đầu đã có đến 20% thậm chí có nơi 50% tổng thu nhập của người dân nông
thôn là từ các doanh nghiệp địa phương.
Cùng với việc đưa ra các chính sách phát triển thì nhà nước Trung
Quốc cũng đẩy mạnh xây dựng CSHT nông thôn, tạo điều kiện cho các hộ
nông dân sản xuất hàng hóa, thu mua bảo trợ hàng hóa nông nghiệp, tạo điều
kiện cho người dân tiếp cận thị trường tín dụng.
Chỉ trong vòng hơn 10 năm (từ 1978 đến 1991) Trung Quốc đã thu hút
được 96 triệu lao động vào các xí nghiệp Hương Trấn (bằng 13,8% lực lượng
lao động ở nông thôn), tạo ra được 1162 tỷ nhân dân tệ (chiếm đến 60% giá
trị sản phẩm khu vực nông thôn, 1/3 giá trị sản lượng công nghiệp và 1/4
GDP cả nước). Đây là một thành công lớn, nó đã làm cho tỷ lệ lao động nông
nghiệp giảm từ trên 70% (năm 1978) xuống còn dưới 50% (năm 1991).

Trong những năm gần đây, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
(vấn đề tam nông) vẫn được chú trọng phát triển ở Trung Quốc. Những chính
sách nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân luôn được coi trọng. Trong đó
đặc biệt chú trọng việc nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người nghèo
bằng việc mở mang các ngành nghề dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, chính sách
vốn, tín dụng
Từ thực tiễn phát triển công nghiệp và giải quyết vấn đề sinh kế cho
người dân nông thôn Trung Quốc trong thời gian qua có thể rút ra một số bài
học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất: Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đa dạng
hóa ngành nghề, khuyến khích nông dân đầu tư dài hạn để phát triển sản xuất,
mở mang hoạt động phi nông nghiệp đã góp phần lớn tạo nên tốc độ phát
triển kinh tế và làm đa dạng mô hình sinh kế cho người dân nông thôn, thu
hút nhiều lao động vào các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn.
Thứ hai: Trong một giai đoạn nhất định, nhà nước bảo hộ sản xuất
trong nước. Điều này giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn. Từ đó
sinh kế của người dân cũng được cải thiện hơn.
Thứ ba: Việc hạn chế lao động di chuyển giữa các vùng, miền làm hạn
chế sinh kế của người dân nông thôn.
(Tạp chí Cộng sản số 11 (179) năm 2009 Th.S. Nguyễn Thị Dung)
II.2.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc là một quốc gia có nhiều sự tương đồng với sự phát triển
kinh tế của Việt Nam. Trước những năm 70, Hàn Quốc cũng là một nước
nông nghiệp, nông nghiệp chiếm 50% GDP Hàn Quốc. Nông dân Hàn Quốc
cũng là người Châu Á, mang ý thức hệ của người Á Đông: mặc cảm, tự ti.
Trước năm 1970, GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc tương tự nước ta
vào năm 1991, 1992, khoảng 300 – 350 USD/người/năm.
Cũng là nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, năm 1954 thực hiện cải
cách ruộng đất. Nhà nước mua lại đất của chủ có trên 3 ha để bán lại cho nông
hộ thiếu đất với phương thức trả dần để tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát

triển. Từ năm 1965 đến năm 1971 tốc độ phát triển nông nghiệp tăng 2,5%.
Năm 1971 đến năm 1978 tăng 6,9%, 3/5 đất hoang được nông hộ khai thác sử
dụng có hiệu quả kinh tế cao. Năm 1975 tự túc được nhiều lương thực và
nhiều nông sản khác, chăn nuôi tăng 8 – 10%/năm. Cơ cấu sản xuất chuyển
dịch theo hướng hàng hóa với hệ thống cây, con, ngành, nghề có giá trị kinh
tế cao. Thu nhập phi nông nghiệp chiếm 35% tổng số. (Đỗ Văn Viện, Đặng
Văn Tiến, 2000)
Trước năm 1970, Hàn Quốc lấy CNH – HĐH làm trọng điểm, công
nghiệp tăng trưởng rất nóng nhưng lại không có cơ hội vì không có thị trường.
Trong khi đó nông nghiệp tăng chậm. Khoảng cách giữa thành thị và nông
thôn, giữa giàu – nghèo lớn.
Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra 1 con đường giải phóng đó là phong
trào “Sumomidon” (phong trào xây dựng nông thôn mới). Học tập phương
châm “Lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp phát triển nông
nghiệp”. Một mặt vẫn phát triển công nghiệp, mặt khác đầu tư vào nông
nghiệp, phát huy nội lực của người nông dân trên mảnh đất của họ để phát
triển kinh tế. Chính phủ đầu tư, hỗ trợ vào nông nghiệp bằng vật chất để phát
triển nông nghiệp, nông thôn. Với tư tưởng là chỉ đầu tư tài chính một phần
mà chủ yếu là vật chất bằng cách đưa sản phẩm công nghiệp không thể ra thị
trường tiêu thụ về nông thôn như sắt, thép xây dựng cơ sở vật chất như:
đường giao thông, các công trình công cộng (trường học, bệnh viện )
Mặt khác chuyển giao một số khoa học công nghệ tiên tiến vào lĩnh
vực nông thôn. Xây dựng các phương án, dự án phát triển theo từng cấp: Cấp
1: Nâng cao điều kiện sống cho người dân. Cấp 2: Nâng cao cơ sở hạ tầng.
Cấp 3: Tăng thu nhập cho nông dân
Làm từ thấp đến cao, chỉ khi nào hoàn thành cấp 1 mới được làm tiếp cấp 2.
Từ thực tiễn của Hàn Quốc rút ra kinh nghiệm: Phát triển công nghiệp
song song với đầu từ phát triển nông nghiệp. Như vậy, vừa thực hiện được
CNH – HĐH đất nước vừa đảm bảo được an ninh lương thực. Phát triển nông
nghiệp, nông thôn theo từng bước không nóng vội, hoàn thành cấp này mới

làm tiếp cấp kia.
II.2.1.3. Kinh nghiệm từ Thái Lan
Trong vòng hơn 3 thập kỷ qua, Thái Lan đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
khá cao. Ngành nông nghiệp phát triển mạnh và tỷ trọng trong nền kinh tế đã
giảm xuống. Giai đoạn 1965-1995, mặc dù sản lượng nông nghiệp tăng gấp
ba lần song đóng góp của nông nghiệp trong GDP giảm từ 35% xuống 10,9%,
ngành nông nghiệp hiện thu hút hơn 50% lao động xã hội.
Thái Lan có nhiều mặt hàng nông sản có khả năng cạnh tranh mạnh
trên thị trường thế giới. Hàng năm, Thái Lan xuất khẩu khoảng 14 tỷ USD
hàng nông sản. Các mặt hàng xuất khẩu chính là tôm 1,97 tỷ USD/năm, cao
su 1,67 tỷ USD/năm, gạo 1,57 tỷ USD/năm, bột sắn 0,75 tỷ USD/năm và
đường 0,69 tỷ USD/năm.
Năm 1994, ngành trồng trọt đóng góp 55% trong GDP nông nghiệp,
tiếp theo là thủy sản 16,5%, chăn nuôi 10,1%. Mặc dù gạo vẫn là mặt hàng
nông sản quan trọng nhất, chiếm hơn 50% tổng diện tích đất nông nghiệp,
song vai trò đã giảm. Trong những năm qua Thái Lan đã đẩy mạnh đa dạng
hóa nông nghiệp, tập trung phát triển chăn nuôi gia cầm, rau quả, nuôi trồng
thủy sản, đặc biệt là nghề nuôi tôm nước ngọt.
Để có được những thành quả đó Thái Lan đã thực hiện chính sách sau:
Chính sách đầu tư khoa học
Năng lực nghiên cứu và trình độ các nhà khoa học của Thái Lan còn
thấp so với các nước công nghiệp Châu á khác như Hàn Quốc, Đài Loan và
Singapore. Tuy nhiên, đến cuối những năm 70, chính phủ Thái Lan quyết
định tăng cường đầu tư vào khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất để
phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Năm 1979, Thái Lan thành lập Bộ Khoa
học, Công nghệ và Năng lượng để thực hiện chiến lược phát triển khoa học.

×