Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Đánh giá công tác xóa đói giảm nghèo ở xã thạch bàn huyện thạch hà , tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.88 KB, 98 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc. Đồng thời tôi xin cam đoan rằng trong quá trình thực hiện đề tài
này tại địa phương tôi luôn chấp hành đúng mọi quy định của địa phương nơi
thực hiện đề tài.
.
Hà Nội, ngày 27 tháng 5 năm 2014
Người cam đoan
Nguyễn Xuân Hoàng
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp
đỡ và động viên. Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả các thầy
cô giáo: trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, khoa Kinh tế và Phát triển
nông thôn, bộ môn kinh tế đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong
quá trình học tập và thực hiện khóa luận này.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo hướng
dẫn Thái Thị Nhung, người đã nhiệt tình chỉ dẫn, định hướng và truyền đạt
kiến thức trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể cán bộ xã Thạch Bàn và những người
dân đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình điều tra thu thập số liệu, thực
hiện nghiên cứu đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đã giúp đỡ,
động viên, khích lệ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Mặc dù bản thân đã có sự cố gắng nỗ lực nhưng không tránh khỏi
những thiếu sót rất mong sự góp ý và cảm thông của thầy, cô giáo và cán bộ
xã Thạch Bàn Hà để giúp tôi hoàn thiện hơn nữa.
Kính chúc các thầy cô giáo Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội và


toàn thể cán bộ của xã Thạch Bàn sức khỏe dồi dào và luôn thành công trong
công việc.
Tôi xin cảm ơn !
Hà Nội, ngày 27 tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Xuân Hoàng
ii
TÓM TẮT BÁO CÁO
Đói nghèo là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Xoá đói giảm nghèo là
một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng vào phát triển con người,
nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều kiện tiếp cận
các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Công
tác xoá đói giảm nghèo là nhân tố bảo đảm ổn định nền kinh tế, chính trị, xã
hội của mỗi quốc gia.
Thạch Bàn là xã giáp biển,có địa hình phức tạp,đời sống người dân nơi
đây còn gặp rất nhiều khó khăn do điểm xuất phát thấp, nền kinh tế chủ yếu ở
đây là độc canh nông nghiệp, thủy hải sản. Do đó xã thuộc đối tượng đầu tư
của một số chương trình,dự án của Nhà nước… Xã thường xuyên có các hoạt
động nhằm xóa đói giảm nghèo như hoạt động vay vốn xóa đói giảm nghèo;
hoạt động hỗ trợ về y tế, giáo dục; hoạt động nâng cao nhận thức, kiến thức,
tay nghề cho người nghèo…
Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi nghiên cứu đề tài: :“Đánh
giá công tác xóa đói giảm nghèo ở xã Thạch Bàn-Huyện Thạch Hà ,
Tỉnh Hà Tĩnh”
* Mục tiêu nghiên cứu :
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về đói nghèo và
công tác xóa đói giảm nghèo
- Đánh giá thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Thạch Bàn
- Phân tích các yêu tố ảnh hưởng công tác xóa đói giảm nghèo tại xã

Thạch Bàn
- Đề xuất một số giải pháp chủ yêu nhằm tăng cường công tác xóa đói
giảm nghèo trên địa bàn xã
iii
* Phương pháp nghiên cứu:
Điểm nghiên cứu là 08 xóm nông nghiệp, số mẫu được chọn là 60 hộ. Điều tra
phỏng vẫn cán bộ thực hiện và cán bộ giám sát các hoạt động xóa đói giảm nghèo
trên địa bàn.
Số liệu được xử lý bằng công cụ Excel và phân tích bằng phương pháp
thống kê mô tả, thống kê so sánh.
* Kết quả nghiên cứu chính:
- Thực trạng về đói nghèo của các hộ nông dân ở xã Thạch Bàn.
Số lượng của các nhóm hộ trung bình, khá tăng nhanh qua các năm, số
lượng nhóm cận nghèo tương đối ổn định và có xu hướng giảm, còn nhóm hộ
nghèo cũng có xu hướng giảm nhanh vào những năm gần đây.
Nghèo đói ở xã Thạch Bàn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó
có nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
- Các hoạt động xóa đói giảm nghèo được thực hiện ở xã Thạch Bàn giai đoạn
2011-2013
Hoạt đông hỗ trợ người nghèo, hoạt động xóa đói giảm nghèo của Hội
phụ nữ xã Thạch Bàn , hoạt động cho vay vốn
- Kết quả thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ở xã Thạch Bàn giai
đoạn 2011- 2013
Giảm hộ nghèo trong toàn xã còn 14,6% năm 2013.
Cải thiện đời sống của người dân về điều kiện sinh hoạt, về thu nhập…
Nâng cao kiến thức, tay nghè cho người nghèo và cán bộ làm công tác
xóa đói giảm nghèo.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp- xây dựng và các
ngành dịch vụ.
-Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác XĐGN trên địa bàn xã Thạch Bàn.

Công tác XĐNG các bên tham gia :cán bộ thực hiện , giám sát , người
được hưởng lợi.
iv
Đánh giá chung về công tác xóa đói giảm nghèo: thành tựu và hạn chế
trong công tác xóa đói giảm nghèo.
- Giải pháp công tác xóa đói giảm nghèo ở xã Thạch Bàn
Giải pháp về công tác tổ chức thực hiện: đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, hoạt động khuyến nông; phải hưỡng dẫn tỷ mỉ khi hỗ trợ về cây trồng,
vật nuôi…
Giải pháp về công tác tổ chức giám sát: Giám sát theo tiến đô thực hiện
các hoạt động xáo đói giảm nghèo của cán bộ và người dân một cách liên tục
và thường xuyên, phải có tính minh bạch và trách nhiệm…
Giải pháp về người hưởng lợi: Cần nâng cao kỹ năng theo dõi giám sát
cơ bản cho người dân, thúc đẩy sự tham gia của người hưởng lợi, nâng cao
nhận thức và trình độ cho người dân…
Giải pháp cho phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng, vay vốn….
v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
i
LỜI CẢM ƠN ii
ii
TÓM TẮT BÁO CÁO iii
Nguyên nhân cơ bản 44
vi
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
XĐGN Xóa đói giảm nghèo
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
KHCN Khoa học công nghệ
QĐ- TTg Quyết định của thủ tướng chính phủ

WB Ngân hàng thế giới
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
USD Đô la Mỹ
KCHT Kết cấu hạ tầng
ASXH An sinh xã hội
MTQG Mục tiêu quốc gia
BHYT Bảo hiểm y tế
UBND Uỷ ban nhân dân
VSMTNT Vệ sinh môi trường nông thôn
BCH Ban chấp hành
CSHT Cơ sở hạ tầng
HĐND Hội đồng nhân dân
NSNN Ngân sách nhà nước
vii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Kết quả sản xuất kinh doanh của 8 xóm nông nghiệp qua 3 năm (2011 – 2013)39
Bảng 4.1 Phân loại hộ theo thu nhập qua các năm từ 2011 – 2013 43
Bảng 4.2: Nguyên nhân đói nghèo và ý kiến của hộ 44
Bảng 4.3 Một số lớp tập huấn đã được Hội Nông dân chuyển giao năm 2013 50
Bảng 4.4 Tình hình cho vay vốn của Hội phụ nữ xã Thạch Bàn năm 2013 53
Bảng 4.5 Thực trạng đói nghèo của xã Thạch Bàn giai đoạn 2011- 2013 54
Bảng 4.6: Điều kiện sinh hoạt và phục vụ đời sống của hộ năm 2013 55
Bảng 4.7: Điều kiện sinh hoạt và phục vụ đời sống của hộ năm 2013 56
Bảng 4.8 Đánh giá của cán bộ giám sát và người dân về hiệu quả hoạt động tuyên truyền,
vận động tham gia xóa đói, giảm nghèo 59
Bảng 4.9 Trình độ cán bộ giám sát năm 2013 của xã Thạch Bàn 60
Bảng 4.10 Ý kiến của người dân về thực hiện nhiệm vụ giám sát của cán bộ giám sát 60
Bảng 4.11 Hiệu quả hoạt động giám sát xã hội đối với XĐGN của cán bộ 62
viii
DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 2.1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói 13
Sơ đồ 4.1 Quy trình cho vay hộ nghèo 52
Sơ đồ 4.2: Lồng ghép các dự án, chương trình kinh tế - xã hội 77
ix
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trên con đường phát triển và hội nhập, điều đó tạo ra
rất nhiều cơ hội, đồng thời cũng là thách thức và khó khăn trong quá trình
hội nhập với nền kinh tế thị trường đầy biến động. Và vấn đề nghèo đói là
một thực trạng mang tính chất toàn cầu luôn tồn tại trong xã hội. Nghèo đói
làm cho nền kinh tế chậm phát triển và giải quyết vấn đề nghèo đói là động
lực để phát triển kinh tế - xã hội. Ngay cả những nước phát triển cao cũng
có tình trạng nghèo đói. Đó là một thách thức lớn cho sự phát triển của toàn
thế giới. Đối với Việt Nam, đói nghèo là vấn đề ảnh hưởng đến sự phát
triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã hội nhạy cảm nhất. Xoá đói giảm
nghèo, khuyến khích làm giàu một cách chính đáng là một chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước, đó là một trong những vấn đề cơ bản của chính
sách xã hội hướng vào phát triển con người nói chung và người nghèo nói
riêng, tạo cơ hội cho họ hoà nhập vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Chính vì vậy trong quá trình xây dựng và đổi mới, Đảng và nhà nước ta
luôn đặc mục tiêu xóa đói giảm nghèo lên hàng đầu góp phần đem lại hiệu
quả thiết thực cho người nghèo, ổn định thu nhập, nâng cao đời sống và tạo
mọi điều kiện để đáp ứng đầy đủ nhu cầu và nguyện vọng của người nghèo
đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới nhằm hướng đến mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Khuyến khích làm
giàu hợp pháp, đồng thời ra sức XĐGN”. Mục tiêu chiến lược XĐGN thời kỳ
2001 - 2010 do Đại hội IX đề ra là: “Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không
còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả XĐGN”. Đại hội X của

1
Đảng tiếp tục khẳng định: “Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân
làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả chính sách XĐGN…; phấn đấu
không còn hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, tăng nhanh số hộ giàu, từng bước
xây dựng gia đình, cộng đồng và xã hội phồn vinh”.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: “Đa dạng
hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện XĐGN theo hướng phát huy cao
độ nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế… kết hợp
chính sách của Nhà nước với sự trợ giúp trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã
hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với
những vùng đặc biệt khó khăn… có chính sách khuyến khích mạnh các doanh
nghiệp trước hết là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ giàu đầu tư phát triển
sản xuất ở nông thôn, nhất là nông thôn vùng núi. Phát huy hơn nữa vai trò
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia công cuộc XĐGN”.
Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến
lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN. Đây là chiến lược đầy đủ, chi tiết
phù hợp với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc công bố.
Đồng thời theo sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam lấy ngày 17/10 là “Ngày vì người nghèo”, đó cũng là ngày Liên Hợp
Quốc chọn là ngày thế giới chống nghèo đói.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói, trước hết do điều kiện đất
nước còn nhiều khó khăn, nên mặc dù Nhà nước luôn dành nguồn lực lớn cho
giảm nghèo nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân, bên cạnh
đó một số chương trình, chính sách giảm nghèo chưa được đồng bộ còn mang
tính ngắn hạn, thiếu sự liên kết chặt chẽ, chỉ đạo điều hành phân công chưa
hợp lý việc tổ chức mục tiêu giảm nghèo ở một số nơi còn chưa sâu sát, ngoài
ra bộ phận người nghèo còn có tâm lý ỷ lại, chưa tích cực chủ động vươn lên.

2
Thạch Bàn là xã giáp biển , có địa hình phức tạp, đời sống người dân nơi

đây còn gặp rất nhiều khó khăn do điểm xuất phát thấp, nền kinh tế chủ yếu ở
đây là độc canh nông nghiệp, thủy hải sản. Do đó xã thuộc đối tượng đầu tư của
một số chương trình cho vay vốn tín dụng giúp người nghèo làm kinh tế, vươn
lên thoát nghèo của ngân hàng Chính sách huyện Thạch Hà… Những chương
trình, dự án này đã thực sự đem lại sức sống mới cho người dân nơi đây.
Tuy nhiên trong những năm qua, công tác xoá đói giảm nghèo ở xã Thạch
Bàn chưa được chú trọng và còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: công tác
tuyên truyền, vận động còn chậm, chưa chủ động, công tác giám sát còn mang
tính bị động, chưa đi vào nề nếp Xuất phát từ yêu cầu thực tế nêu trên với
mong muốn đánh giá thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ở địa phương và
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo trong thời
gian tới,chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“Đánh giá công tác xóa đói
giảm nghèo ở xã Thạch Bàn-Huyện Thạch Hà , Tỉnh Hà Tĩnh”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo,phân tích các yếu tố
ảnh hưởng đến công tác xóa đói giảm nghèo ở xã Thạch Bàn,huyện Thạch
Hà, Tỉnh Hà Tĩnh.Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác
xóa đói giảm nghèo tại xã Thạch Bàn trong thời gian tới .
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về đói nghèo và
công tác xóa đói giảm nghèo
- Đánh giá thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Thạch Bàn
- Phân tích các yêu tố ảnh hưởng công tác xóa đói giảm nghèo tại xã
Thạch Bàn
- Đề xuất một số giải pháp chủ yêu nhằm tăng cường công tác xóa đói
giảm nghèo trên địa bàn xã
3
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác XĐNG trên địa bàn xã
Thạch Bàn , huyện Thạch Hà , tỉnh Hà Tĩnh
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung
Đánh giá thực trạng công tác XĐGN trên địa bàn xã Thạch Bàn , huyện
Thạch Hà,tỉnh Hà Tĩnh.Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường
công tác XĐGN trên đia bàn xã trong thời gian tới.
Về không gian: Đề tài được thực hiện trên phạm vi địa bàn xã Thạch Bàn
, huyện Thạch Hà,Tỉnh Hà Tĩnh
Về thời gian thực hiện đề tài :
• Đề tài sử dụng số liệu thứ cấp trong giai đoạn 2011-2013
• Thời gian thực hiện đề tài là từ 24/1/2014 đến 3/6/2014

4
PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1 Các khái niệm liên quan đến đói nghèo
2.1.1.1 Khái niệm đói nghèo
Tại hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc- Thái Lan tháng 9/1993 đã đưa ra
định nghĩa nghèo đói như sau:“ Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thoã mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã
được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong
tục tập quán của các địa phương”.
Như vậy, đói nghèo gồm các khía cạnh cơ bản sau:
- Trước tiên và trước hết là sự khốn cùng về vật chất đo lường một tiêu
chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng.
- Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo
dục và y tế.

- Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức khả năng một hộ gia
đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập và về sức khoẻ.
- Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người
nghèo.
Để phân biệt rõ hơn nữa quan niệm về đói nghèo, các nước đã phân làm
hai loại: “Nghèo tuyệt đối” và “nghèo tương đối”.
Nghèo tuyệt đối:
Theo ông Robert Namara khi là giám đốc của Ngân hàng thế giới đã đưa
ra khái niệm như sau: “ Nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài
cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu
tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất
5
phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn
của giới trí thức chúng ta”. (Robert Mc Namara, Chương trình phát triển
Liên Hợp Quốc, 1997)
Nghèo tương đối:
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa
vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc
cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người
thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan tức là sự hiện hữu không phụ
thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo
tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ
thuộc và sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất
(tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan
trọng lớn. Việc nghèo đi về văn hóa – xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã
hội do thiếu hụt tài chính một phần một phần được các nhà xã hội học xem
như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
Theo đó sự thiếu thốn “của cải” trong mối quan hệ với nhu cầu thiết yếu
của con người được xem xét là nghèo khổ tuyệt đối. Còn khi xem xét thực

trạng mức sống và vị trí (về kinh tế và xã hội) các nhóm hoặc các cá nhân
khác ở phương diện mức độ tiêu thụ và thu nhập của họ (quan hệ so sánh bằng
phương pháp phân tích so sánh) ta sẽ hình dung được nghèo khổ tương đối. Từ
cách hiểu chung này cần thấy sự khác biệt về mức độ nghèo khổ có tính chất địa
phương và khu vực (trong vùng trong một quốc gia, giữa quốc gia này với quốc
gia khác, giữa các quốc gia trong khu vực này với quốc gia thuộc khu vực
khác…).
Tóm lại, khi xem xét tình trạng hoặc mức độ đói nghèo chúng ta cần chú
ý mấy điểm:
6
Một là, xem xét hiện tượng đói nghèo trước hết phải xem xét ở lĩnh vực
kinh tế, đặc biệt chú ý những biểu hiện về mức sống, thông qua các nhu cầu
cơ bản, tối thiểu về đời sống vật chất.
Hai là, xác định tiêu chí mức độ đói nghèo dựa vào thu nhập bình quân
tính theo đầu người trong tháng hoặc năm theo hai khu vực nông thôn và
đô thị. Nó liên hệ mật thiết tiêu chí về dinh dưỡng, năng lượng (calo) trên
đầu người trong ngày.
Ba là, quy ra hiện vật, vật phẩm tiêu dùng được tính bằng gạo theo đơn
vị đầu người trong tháng hoặc quy thành giá trị, tính bằng tiền dùng làm
thước đo.
Bốn là, xem xét các khoản tiêu dùng từ thu nhập phản ánh mức độ thoả
mãn các nhu cầu tối thiểu để xem xét đối tượng dân cư đói nghèo đã phải chi
cho ăn uống như thế nào, chiếm tỷ lệ ra sao trong cơ cấu tiêu dùng của họ.
Năm là, nhận dạng người nghèo, hộ nghèo và hiện trạng nghèo đói thông
qua chỉ số giá trị (USD) và thu nhập bình quân đầu người trong năm.
Quan niệm đói nghèo ở Việt Nam
Do đặc thù của một nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp, đồng
thời qua nhiều cuộc điều tra, khảo sát, nghiên cứu của các Bộ, Ngành đã đi
đến thống nhất cần tách riêng đói nghèo thành hai khái niệm riêng (Giáo
trình kinh tế lao động):

Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến 2 tháng, thường
vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.
Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần của nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
7
Nhu cầu thiết yếu gồm 3 yếu tố: ăn, mặc, ở.
Nhu cầu sinh hoạt hàng ngày gồm 5 yếu tố: văn hoá, giáo dục, y tế, đi
lại, giao tiếp.
Nhu cầu tối thiểu, mức cụ thể của nhu cầu tối thiểu phụ thuộc vào điều
kiện phát triển kinh tế của từng vùng, từng quốc gia theo từng thời kỳ.
2.1.1.2. Vùng nghèo
* Khái niệm:
Vùng ngèo là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện hoặc chỉ
một làng, một xã, một huyện mà tại đó chứa đựng nhiều khó khăn, bất lợi cho
sự phát triển của cộng đồng như đất đai khô cằn, thời tiết khí hậu khắc nghiệt,
địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, trình độ dân trí thấp, sản xuất tự cung
tự cấp và có mức sống dân cư trong vùng rất thấp so với mức sống chung của
cả nước xét trong cùng một thời điểm [ Nguyễn Xuân Hưng, 2008]
* Chuẩn mực vùng nghèo:
- Chuẩn mực chính.
Thứ nhất, tỷ lệ hộ nghèo từ 60% trở lên.
Thứ hai, bình quân thu nhập của một thành viên trong hộ gia đình của
cả vùng thấp hơn mức thu nhập trung bình của một thành viên của một hộ gia
đình trong cả nước.
- Chuẩn mực phụ.
Một là, bình quân lương thực trên đầu người dân nông nghiệp dưới
200kg/năm.

Hai là, số ki lô mét đường giao thông/ 1 ki lô mét vuông nhỏ hơn 1/3
mức trung bình của cả nước.
Ba là, mức trung bình điện năng, tiền vốn trên một lao động.
Bốn là, tỷ lệ mù chữ cao hơn 1,5 lần mức trung bình cả nước.
Năm là, tỷ lệ y, bác sỹ, giường bệnh trên 1000 người dân thấp hơn 1/3
mức trung bình cả nước
8
2.1.1.3 Các chuẩn đói nghèo
Các quốc gia khác nhau sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá
mức độ giàu nghèo. Hiện nay, Việt Nam chưa có chuẩn đói nghèo thống nhất,
trên thực tế vẫn sử dụng một trong hai chuẩn sau để đánh giá đói nghèo.
• Chuẩn đói nghèo quốc tế:
Phương pháp xác định đường nghèo đói theo chuẩn nghèo quốc tể do
tổng cục thống kê, Ngân hàng thế giới xác định và được thực hiện trong các
cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam năm 1992 – 1993 và 1997 – 1998.
Đường nghèo đói ở mức thấp gọi là đường đói nghèo về lương thực,
thực phẩm. Ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm là lượng thức ăn tiêu thụ
phải đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng bảo đảm cho cuộc sống khỏe mạnh. Tổ
chức y tế thể giới (WHO) đã xây dựng mức Kcal tối thiểu cho mỗi thể trạng
con người là 2100 Kcal/người/ ngày. Chuẩn mực đánh giá đói nghèo về lương
thực, thực phẩm là thu nhập dưới 1 USD/ người/ ngày và lượng calo tiêu dùng
một ngày dưới 2100Kcal/ người/ ngày. [Việt Nam tấn công nghèo đói, báo
cáo phát triển của Việt Nam năm 2000]
Đường nghèo đói thứ hai ở mức cao hơn gọi là đường nghèo đói chung
(bao gồm cả lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm). Đường
nghèo đói chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực
phẩm, nó bao gồm các chi phí công khai và những giá trị sử dụng đã quy đổi
của các mặt hàng lâu bền và giá trị nhà ở. Nhìn chung, nhiều nước dùng
chuẩn nghèo 1/3 mức thu nhập bình quân của toàn xã hội là mức để đánh giá
đói nghèo.

• Chuẩn đói nghèo của Việt Nam:
Chuẩn mực đói nghèo năm 1997-1998 được xác định: (Hệ thống văn bản
về Bảo trợ xoá đói giảm nghèo)
- Hộ đói: là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 13kg gạo/người/tháng,
tương đương với 45000đ (áp dụng cho mọi vùng).
9
- Hộ nghèo: phân theo 3 vùng có mức thu nhập như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: là hộ có thu nhập bình quân đầu
người dưới 15kg gạo, tương đương 55000đ.
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: là hộ có thu nhập bình quân đầu
người dưới 20kg gạo, tương đương với 70000đ.
+ Vùng thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu ngưòi dưới 25 kg gạo,
tương đương với 90000đ.
Cách xác định chuẩn nghèo của Bộ LĐTBXH mang tính chất tương đối
hơn và tiếp cận từ khía cạnh thu nhập, dựa chủ yếu vào khả năng của những
số liệu có sẵn, cụ thể là khả năng tài chính hỗ trợ cho chương trình XĐGN,
trên cơ sở đó xác định chuẩn nghèo là mức thu nhập tối thiểu của từng khu
vực vào nhu cầu chi tiêu và tình trạng giá cả hàng hóa tiêu dùng ở các khu
vực khác nhau.
Trong giai đoạn 1996-2000, Bộ LĐTBXH đã đưa ra chuẩn nghèo cho từng
khu vực như sau:
- Nông thôn, miền núi, hải đảo là 55.000 đồng/người/tháng.
- Nông thôn đồng bằng là 70.000 đồng/người/tháng.
- Vùng thành thị 90.000 đồng/người/tháng.
Chuẩn nghèo theo quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 27/9/2001 trong đó phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc
gia Xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005” cụ thể như sau:
- Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo là 80.000 đồng/người/tháng.
- Vùng nông thôn đồng bằng là 100.000 đồng/người/tháng.
- Vùng thành thị là 150.000 đồng/tháng.

Đến hết giai đoạn 2001-2005, do mức sống của nhân dân ngày càng cao,
cùng với chủ trương chung là từng bước tiếp cận các nước đang phát triển
trong khu vực về XĐGN. Do vậy, ngày 8/7/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ra
quyết định 170/2005/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai
đoạn 2006-2010. Theo quy định mới:
10
- Chuẩn nghèo dành cho khu vực nông thôn, áp dụng cho các hộ có mức
thu nhập bình quân đầu người là 200.000 đồng/người/tháng.
- Chuẩn nghèo dành cho khu vực thành thị, áp dụng cho các hộ có mức thu
nhập bình quân đầu người là 260.000 đồng/người/tháng.
2.1.1.3 Khái niệm về xóa đói giảm nghèo
Xoá đói giảm nghèo là làm cho một bộ phận dân cư có mức sống nghèo
đói được nâng cao, từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, biểu hiện ở tỷ
lệ và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói cách khác, xoá đói giảm nghèo
là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo đói lên một mức sống cao hơn.
Ở khía cạnh khác, xoá đói giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều
kiện lựa chọn sang tình trạng có nhiều điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời
sống mọi mặt của con người.
Ở góc độ người nghèo, xoá đói giảm nghèo là quá trình tác động tạo điều
kiện của cộng đồng xã hội, giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các
nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó có nhiều lựa
chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo đói.
Ở góc độ vùng nghèo: xoá đói giảm nghèo là quá trình thúc đầy phát
triển kinh tế, chuyển đổi trình độ sản xuất cũ, lạc hậu trong xã hội sang trình
độ sản xuất mới cao hơn.
2.1.2 Ý nghĩa của công tác xóa đói giảm nghèo
Đói nghèo gây nên ảnh hưởng tiêu cực đến các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội và phát triển con người,do vậy xóa đói giảm nghèo vừa là trách
nhiệm, vừa là nghĩa vụ của cộng đồng.
Xóa đói giảm nghèo là một trong những chương trình mục tiêu của

Đảng và nhà nước luôn được quan tâm hàng đầu, bởi nó mang ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Đối với bản thân người nghèo: Xóa đói giảm nghèo giúp người nghèo
có điều kiện nâng cao thu nhập, từ đó cải thiện đời sống, tiếp cận được với
11
các dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục…) thông qua các chương trình chính sách
cụ thể của nhà nước.Tăng cường tình đoàn kết, lòng tin của nhân dân đối với
đường lối lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới.
- Đối với xã hội: Xóa đói giảm nghèo góp phần thu hẹp khoảng cách
giàu nghèo giữa các khu vực trong phạm vi cả nước. Vượt qua rào cản để xây
dựng một xã hội tiến bộ, vì người nghèo.
Thực tế cho thấy tình trạng đói nghèo đã kéo theo nó những hậu quả
nghiêm trọng. Một trong nhưng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đói
nghèo đó là người dân thiếu đất sản xuất, ở những khu vực miền núi, hải đảo
do đó dẫn đến việc khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên làm cho nguồn tài
nguyên bị suy giảm và ô nhiễm môi trường, mất ổn định chính trị. Đói nghèo
dẫn đến người dân không có điều kiện nuôi con ăn học, đó chính là nguyên
nhân của nạn mù chữ. Từ đó làm giảm chất lượng về nguồn nhân lực trong
tương lai.
Do đó thực hiện tốt công tác xóa đói giảm nghèo không chỉ góp phần
ổn định đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội mà còn góp phần xây
dựng một đất nước phát triển bền vững về mọi mặt.
2.1.3 Tác động của xóa đói giảm nghèo đến phát triển kinh tế-xã hội
Nghèo đói đi liền với lạc hậu, do đó xoá đói giảm nghèo là tiền đề
cho sự phát triển kinh tế vì khi đói nghèo giảm sẽ giảm đi những áp lực từ bên
trong tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư bên ngoài, làm năng lực kinh tế phát
triển vững chắc. Ngược lại sự phát triển kinh tế là nhân tố đảm bảo cho sự
thành công trong công tác XĐGN.
Việc thực hiện xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa quan trọng không
những đối với sự phát triển kinh tế mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự

phát triển của xã hội. Để làm nổi bật những cản trở của nghèo đói đối với sự
phát triển xã hội các nhà kinh tế đưa ra lý thuyết về cái vòng luẩn quẩn của sự
nghèo đói:
12
`
Sơ đồ 2.1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói
Như vậy, từ cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói lại kéo theo cái vòng
luẩn quẩn khác của sự phát triển của một quốc gia, của một vùng. Vì vậy
muốn cho đất nước, vùng phát triển chúng ta phải phá vỡ các mắt xích cơ bản
như hạn chế gia tăng dân số, nâng cao sức khoẻ và dinh dưỡng của người dân,
hạn chế sự thất học, nâng cao trình độ dân trí. Để đảm bảo phá vỡ được cái
vòng luẩn quẩn đó thì chúng ta phải tháo gỡ từng mắt xích cụ thể chứ không
làm chung chung ồ ạt được.
2.1.4 Nội dung đánh giá công tác XĐGN
2.1.4.1 Khái niệm
Đánh giá công tác XĐGN là một hoạt động của công tác quản lý nhằm
tìm ra kết quả và nguyên nhân nào dẫn đến việc hoàn thành hay không hoàn
thành công tác XĐGN. Đánh giá công tác XĐGN bao gồm đánh giá tiến độ,
đánh giá giữa kỳ và đánh giá sau khi kết thúc công tác XĐGN
Đánh giá công tác XĐGN là một trong những hoạt động quan trọng của
quá trình thực hiện công tác XĐGN. Đây là quá trình khẳng định tính đúng
đắn, hiệu quả và ảnh hưởng của công tác XĐGN với mục tiêu công tác
XĐGN có thể thực hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau của chu trình thực hiện
công tác XĐGN [Judy L.Baker, 2002]
Nghèo đói
Bệnh tật Gia tăng dân số
Ô nhiễm môi
trường
Suy dinh dưỡng
Thất họcTệ nạn xã hội

13
Như vậy đánh giá công tác XĐGN là khâu cuối cùng trong quá trình
thực hiện công tác XĐGN. Đánh giá là xem xét một cách có hệ thống để xác
định tính hiệu quả, mức độ thành công và những tác động ( về kinh tế, xã hội,
môi trường…) của công tác XĐGN so với mục tiêu đã đề ra.
2.1.4.2 Mục đích của việc đánh giá công tác XĐGN
Thứ nhất, xác định mức độ đạt được về mục tiêu của công tác XĐGN.
Với mỗi công tác XĐGN thực hiện đều có những mục tiêu nhất định. Việc
đánh giá cũng được xem xét về mức độ hoàn thành các mục tiêu của công tác.
Mục tiêu là những thay đổi mà các bên đều mong muốn có được khi kết thúc
đợt công tác. Hay nói cách khác mục tiêu là kết quả của công tác và là những
thay đổi trong đời sống của người hưởng lợi.
Thứ hai, đánh giá tác động về kinh tế, xã hội và về môi trường. Tác
động trực tiếp hay gián tiếp. Tác động trước mắt hay lâu dài của công tác.
Thứ ba, rút ra các bài học kinh nghiệm cho công tác XĐGN tiếp theo.
Việc thực hiện công tác XĐGN nông thôn nói riêng và cả nước nói chung
không phải lúc nào cũng thuận lợi và đạt được những kết quả cũng như mục
tiêu đã định trước. Việc đánh giá công tác cũng nhằm phát hiện ra những yếu
tố nào đáp ứng và tạo điều kiện tốt cho việc thực hiện công tác, những nguyên
nhân mà công tác có thể không hoàn thành và đạt được những mục tiêu đề ra.
Yếu tố gây cản trở đó là gì để có thể khắc phục, đưa ra các giải pháp kịp thời
cho ngay bước tiếp theo khi tiến hành dự án và đúc rút những kinh nghiệm
thiết thực cho công tác XĐGN tiếp theo.
Thứ tư, để điều chỉnh các hoạt động của công tác XĐGN giai đoạn tiếp
theo (đánh giá giữa kỳ) hoặc để tìm ra các vấn đề, các cơ hội mới cho việc
hình thành một chu kỳ công tác mới.
Tùy theo các mục đích khác nhau mà có thể xác định các nội dung đánh
giá khác nhau. Trong đánh giá công tác XĐGN có các nội dung đánh giá sau:
14
* Đánh giá tính thích hợp của công tác XĐGN

Đánh giá tính thích hợp của công tác XĐGN là xem xét công tác có ý
nghĩa và có phù hợp nhu cầu của các bên tham gia cũng như điều kiện cụ thể
của địa phương không. Công tác XĐGN nhu cầu của người hưởng lợi. Vì
công tác XĐGN được xây dựng trên những nhu được coi là thích hợp khi:
Thứ nhất, công tác đáp ứng được cầu cần giải quyết của chính những
người hưởng lợi chứ không phải từ người thực hiện công tác. Do đó xem xét
tính thích hợp của công tác XĐGN là phải xem xét trên cơ sở mục tiêu của
công tác XĐGN đối với nhu cầu, lợi ích mà người hưởng lợi (người dân)
Thứ hai, công tác XĐGN phù hợp với mục tiêu của chính sách, dự án
cấp trên đưa ra. Mục tiêu ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Vậy tính thích
hợp của công tác là phải đáp ứng được mục tiêu của các chính sách, dự án đưa
ra. Đó là cải thiện thực trạng của nông thôn về sản xuất, môi trường nông
thôn, nâng cao năng lực cộng đồng dân cư nông thôn.
Thứ ba, công tác XĐGN phù hợp với chủ trương, chiến lược phát triển
của địa phương, của vùng và cao hơn nữa là của Nhà nước.
Thứ tư, công tác XĐGN phù hợp với điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã
hội của địa phương. Công tác XĐGN nhất thiết phải phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của địa phương, nếu không phù hợp công tác XĐGN sẽ không
được người dân địa phương chấp nhận, hoặc việc thực hiện công tác đó trên
địa bàn sẽ gây khó khăn cho địa phương, thậm chí còn tổn hại, cản trở sự phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
* Đánh giá kết quả công tác XĐGN
Đánh giá kết quả là xem xét công tác có đạt được kết quả như mong đợi
hay không. Các kết quả đạt được của công tác được thể hiện qua các chỉ tiêu:
Thứ nhất, mục tiêu trước mắt của công tác XĐGN có đạt được như
mong muốn?
Thứ hai, mức độ đóng góp của đầu ra đối với mục tiêu trước mắt.
Thứ ba, ảnh hưởng của những giả định đối của mục tiêu công tác.
15
* Đánh giá tác động của công tác XĐGN

Đánh giá tác động là một hoạt động của đánh giá công tác XĐGN khi
kết thúc công tác XĐGN. Đánh giá tác động nhằm vào việc xác định một cách
chung hơn, liệu công tác XĐGN đưa ra có tạo nên những tác động mong
muốn tới các cá nhân, hộ gia đình, liệu những tác động này có phải do việc
thực hiện công tác XĐGN mang lại hay không. Các đánh giá tác động cũng
có thể phát hiện những hậu quả không dự kiến trước, có thể là tích cực hay
tiêu cực tới những đối tượng thụ hưởng. Trong đó, tác động là những thay đổi
có tính tổng thể lâu dài đối với cộng đồng nhờ vào việc sử dụng các kết quả
của dự án.
* Đánh giá tính bền vững của công tác XĐGN
Là đánh giá xem có bao nhiêu hộ thoát nghèo? XĐGN không phải một
ngày một bữa mà XĐGN là phải bền vững phải lâu dài. Việc làm mang tình
hỗ trợ chứ không phải cấp phát như:
Tập trung giáo dục và vận động cho người nghèo phải có trách nhiệm ý
thức vươn lên tự thoát nghèo. Chính quyền địa phương và các ban, ngành,
đoàn thể hỗ trợ cho người nghèo thêm điều kiện để sản xuất, để lao động để
có thu nhập ổn định mà thoát nghèo.
UBND xã chỉ đạo, vận động các cơ quan doanh nghiệp trên địa bàn
nhận giúp đỡ hộ nghèo, tùy theo điều kiện mà có thể nhận giúp đỡ hộ nghèo
nhiều hay ít. Việc làm này để giáo dục cho người nghèo thấy rằng là mình
phải có trách nhiệm tụ vươn lên thoát nghèo, đồng thời cũng vừa nhắc nhở
cán bộ cũng phải thường xuyên đi cơ sở, phải gần dân và đồng thời cũng phải
có trách nhiệm đối với công tác XĐGN của xã. Cán bộ chỉ đạo giao cho cán
bộ thực hiện cùng với hộ nghèo ở các xóm khảo sát xem hộ nghèo, nghèo
nguyên nhân vì sao, điều kiện hộ nghèo này như thế nào, sau đó cán bộ cùng
với gia đình phối hợp lại để xây dựng kế hoạch giảm nghèo cho từng hộ. Nếu
hộ nghèo thiếu điều kiện thì cơ quan tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ như về vốn,
giống hay hướng dẫn về kỹ thuật…
16

×