Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm Hàng Không - chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.42 KB, 66 trang )

Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, các phương tiện
giao thông ngày càng được cải tiến theo hướng hiện đại hơn và được sử dụng
phổ biến hơn, giúp cho việc giao lưu văn hóa giữa các vùng miền cũng như
việc đi lại, giao thương, buôn bán của người dân ngày càng dễ dàng và thuận
lợi hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng xuất hiện những mặt trái rất đáng quan
tâm như vấn đề an toàn giao thông, đặc biệt là an toàn giao thông đường bộ
ngày càng trở thành một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo con số thống
kê hàng năm, số vụ tai nạn giao thông đường bộ trong những năm gần đây
ngày càng có xu hướng gia tăng. Tai nạn giao thông đã để lại những hậu quả
lớn cho xã hội cả về mặt vật chất cũng như về con người. Nhằm hạn chế cũng
như khắc phục một phần hậu quả do tai nạn giao thông đem lại, bảo hiểm xe
cơ giới đã ra đời như là một tất yếu khách quan với mục đích giúp các chủ xe
khắc phục bớt khó khăn, ổn định tài chính nhanh chóng hơn khi gặp các rủi ro,
tai nạn bất ngờ…, đồng thời cũng góp phần ổn định xã hội.
Trong những năm qua, dù mới thâm nhập thị trường song Công ty cổ
phần Bảo hiểm Hàng Không đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Bên cạnh
thế mạnh về lĩnh vực bảo hiểm hàng không thì các nghiệp vụ bảo hiểm khác
cũng đã thu được rất nhiều kết quả đáng khích lệ, trong số đó phải kể đến
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Nghiệp vụ này đã đóng góp không
nhỏ về mặt doanh thu cho toàn công ty cũng như mang lại những lợi ích thiết
thực cho xã hội. Tuy nhiên so với tiềm năng rất lớn của thị trường hiện nay thì
số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất xe còn tương đối thấp so với tổng
lượng xe cơ giới hiện đang lưu hành. Vì vậy cần phải có những giải pháp hữu
hiệu để khai thác tối đa nghiệp vụ này - một nghiệp vụ bảo hiểm có tiềm năng
rất lớn ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Chính vì lý do đó mà em quyết
định chọn đề tài: “ Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ
giới tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – chi nhánh Hà Nội giai đoạn
2008-2010” làm đề tài nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp của mình, nhằm


SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 1 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
tìm hiểu rõ hơn về nghiệp vụ này tại một trong những đơn vị tiêu biểu của
công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới
tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai nghiệp vụ
bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không –
Chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật
chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà
Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
o Không gian: Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi
nhánh Hà Nội.
o Thời gian: Giai đoạn 2008 – 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn kết hợp với
các phương pháp khác như phương pháp xử lý số liệu, phương pháp phân tích,
so sánh…
5. Kết cấu khóa luận:
Nội dung viết của em, ngoài mở đầu và kết luận được chia thành ba
chương như sau:
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung Bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Chương 2: Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
tại công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn
2008 -2010.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 2 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển

Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm
Hàng Không - chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do thời gian nghiên cứu không lâu
cộng với kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế nên khóa luận của em không
thể tránh khỏi thiếu sót và khuyết điểm. Em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các thầy cô để bài viết của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, Th.s Lục Mạnh Hiển cùng tập thể
cán bộ nhân viên Công ty Cổ phần Bảo hiểm Hàng Không - Chi nhánh Hà Nội
đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này!
Hà Nội, tháng 6 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Trương Thị Thanh Thủy
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 3 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP
VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI
1.1. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và nghiệp vụ
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.1.1.1. Khái niệm: Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) là hoạt động của
doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua
bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm
xảy ra.
1.1.1.2. Đặc trưng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các DNBH chấp nhận
rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, đồng thời chấp nhận trả

tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho bên tham gia khi có các sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Đổi lại doanh nghiệp sẽ thu được phí bảo hiểm để hình thành quỹ dự
trữ, bồi thường, trang trải các khoản chi khác có liên quan và có lãi. Tuy nhiên
không phải mọi rủi ro mà bên tham gia chuyển giao, DNBH đều có thể chấp
nhận bảo hiểm. Rủi ro được bảo hiểm phải có những đặc trưng như: Rủi ro
xảy ra trong tương lai, rủi ro có tính chất bấp bênh, rủi ro không phụ thuộc ý
muốn chủ quan của người được bảo hiểm, các rủi ro có thể tập hợp được thành
nhóm tương hỗ, các rủi ro không thuộc phạm vi cấm của pháp luật, các rủi ro
được doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo.
Kinh doanh bảo hiểm được thực hiện theo nguyên tắc “ Số đông bù số
ít”. Nguyên tắc này luôn được đảm bảo trong quá trình hình thành quỹ bảo
hiểm, quá trình phân tán rủi ro, quá trình bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm.
Thực chất đây là quá trình phân phối lại nguồn quỹ được hình thành do các
nhà bảo hiểm quản lý. Nhưng phân phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối
không đều, không bằng nhau, tức là không phải ai tham gia nộp phí cũng được
phân phối và phân phối với số tiền như nhau.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 4 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh một dịch vụ tài chính chứ không
phải dịch vụ sản xuất. Vì thế nó phải chịu sự kiểm tra giám sát rất chặt chẽ của
các cơ quan quản lý nhà nước. Lý do phải kiểm tra là:
Thứ nhất, các hợp đồng bảo hiểm là các hợp đồng mở sẵn và khá phức
tạp. Người tham gia bảo hiểm chỉ việc lựa chọn để ký kết, còn soạn thảo và
phát hành hợp đồng là hoàn toàn do người bảo hiểm đảm nhận.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo một chu trình đảo ngược.
Người tham gia nộp phí trước và được bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm
sau khi có các tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm.
Thứ ba, kỹ thuật tính phí và trích lập dự phòng phí cho từng nghiệp vụ
bảo hiểm phải đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và những người bảo hiểm.
Thứ tư, mục đích chính của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là nhằm

khắc phục hậu quả rủi ro, để từ đó giúp bên tham gia bảo hiểm ổn định cuộc
sống hoặc sản xuất, làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình thường và từ
đó góp phần đảm bỏa an toàn cho xã hội. Ngoài ra kinh doanh bảo hiểm còn
đáp ứng một số mục đích khác như tiết kiệm, đầu tư, đề phòng hạn chế tổn
thất và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động…
Mục đích kinh tế của KDBH là lợi nhuận, đây là mục đích chính mà các
doanh nghiệp bảo hiểm hướng tới. Nhưng bên cạnh đó thì hoạt động kinh
doanh bảo hiểm còn giúp liên kết gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì
lợi ích của cộng đồng, vì sự ổn định và phồn vinh của đất nước. Do đó hoạt
động kinh doanh bảo hiểm đã thể hiện tính tương hỗ, tính xã hội và nhân văn
sâu sắc.
1.1.2. Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới giữ một vai trò quan trọng trong
việc hạn chế và khắc phục rủi ro, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Cụ thể:
Thứ nhất, góp phần ổn định tài chính cho chủ phương tiện khi có rủi ro
xảy ra gây tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Khi tham gia giao thông không ai muốn rủi ro xảy ra nhưng rủi ro là
ngẫu nhiên, không loại trừ bất cứ ai. Khi rủi ro xảy ra, thường để lại những
hậu quả to lớn về con người và vật chất, gây ra những tổn thất về tài chính,
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 5 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
làm gián đoạn sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, bảo hiểm thông qua công tác
bồi thường nhanh chóng, kịp thời góp phần ổn định tình hình tài chính, tránh
những xáo trộn lớn cho chủ phương tiện, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình
trạng khó khăn; đồng thời qua đó góp phần xoa dịu, làm giảm bớt căng thẳng
giữa chủ xe và người bị nạn.
Thứ hai, tăng khả năng tự chủ về tài chính cho người tham gia bảo hiểm.
Khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, nguồn vốn chính là yếu tố
quyết định sức mạnh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Trong quá trình
hoạt động, doanh nghiệp luôn phải trích ra một quỹ dự trữ đề phòng hạn chết

tổn thất khi rủi ro xảy ra. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, ít phương tiện số
tiền này không đáng kể. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp lớn, số lượng đầu xe
nhiều thì quỹ dự trữ này sẽ chiếm một tỷ lệ khá lớn trong nguồn vốn sản xuất
kinh doanh. Nếu nguồn tiền này được đem để làm nguồn vốn lưu động trong
kinh doanh sẽ đem lại sức mạnh to lớn cho doanh nghiệp, nhưng nó lại ở dạng
dự trữ thì quả là sự lãng phí lớn.
Khó khăn này sẽ được giải quyết thông qua các hợp đồng bảo hiểm.
Thông qua các hợp đồng này, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm hoạt động
trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Nhờ đó, thay vì thành lập quỹ dự trữ riêng
thì các chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ quỹ bảo hiểm lớn hơn
nhiều do rất nhiều thành viên cùng đóng góp.
Thứ ba, góp phần đề phòng và hạn chế tai nạn giao thông:
Với số phí bảo hiểm thu được, ngoài việc bồi thường cho các chủ
phương tiện khi có rủi ro xảy ra, các công ty bảo hiểm còn thực hiện các biện
pháp đề phòng và hạn chế tổn thất xảy ra như: xây dựng đường lánh nạn,
đường phụ, hốc cứu nạn; lắp đặt hệ thống biển báo, tín hiệu giao thông, hệ
thống gương cầu…hàng năm đã cứu thoát khỏi nguy hiểm hàng trăm tính
mạng.
Ngoài ra, công ty bảo hiểm còn khuyến khích các chủ xe tự thực hiện
các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác
tuyên truyền. Đồng thời, công ty còn thực hiện giảm phí nếu sau một thời gian
nhất định mà xe không gặp bất kì sự cố nào.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 6 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Thứ tư, góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước, để từ đó Nhà nước có
điều kiện xây dựng mới và nâng cao cơ sở hạ tầng giao thông.
Mức sống người dân ngày càng cao, số lượng các phương tiện cơ giới
cũng tăng nhanh. Do đó, số lượng người tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới
cũng tăng nhanh, góp phần làm tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước thông
qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Ngược lại, chính phủ sử

dụng ngân sách nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ
trợ, nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đi lại
của người dân từ đó góp phần nâng cao chất lượng đời sống dân cư.
Thứ năm, góp phần làm tăng doanh thu cho các doanh nghiệp bảo hiểm,
tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Doanh thu phí mà các công ty bảo hiểm thu được thông qua việc triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tương đối lớn so với các nghiệp
vụ khác do đặc điểm của các phương tiện giao thông là ngày càng gia tăng cả
về số lượng và chủng loại. Mặt khác, ý thức của người dân cũng ngày càng
được nâng cao, họ quan tâm hơn đến các rủi ro có thể xảy ra đối với mình và
cố gắng tìm mọi cách để đề phòng, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Do đó,
số lượng người tham gia loại hình bảo hiểm này ngày càng nhiều. Chính điều
này đã làm cho doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng lên đáng kể.
1.2. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm
1.2.1.1. Đối tượng bảo hiểm: Xe cơ giới, theo quy định hiện hành là tất
cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính
chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Đối tượng bảo hiểm vật chất xe
cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên
lãnh thổ quốc gia. Để xác định là xe cơ giới, người ta thường dùng các tiêu
thức sau:
Thứ nhất, xe cơ giới phải được gắn động cơ (khác với xe không có
động cơ như xe đạp, xe do gia súc kéo…).
Thứ hai, xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn bằng
chính động cơ gắn trên nó (khác với tàu hỏa, xe điện…).
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 7 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Thứ ba, xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ ngồi cho người điều
khiển.
Xe cơ giới bao gồm nhiều loại: ô tô, mô tô, xe chở hàng và xe chuyên

dụng khác. Đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ này là bản thân chiếc xe. Tuy
nhiên các loại xe như xe dùng để tập đua, tập lái, chạy thử không phải là đối
tượng được bảo hiểm nhưng nếu có thoả thuận riêng thì có thể được bảo
hiểm.
Đối tượng được bảo hiểm cần có các điều kiện là: Có giá trị sử dụng
và có đầy đủ các bộ phận để cấu thành một chiếc xe hoàn chỉnh. Ngoài ra còn
phải thỏa mãn các yêu cầu khác như: đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký,
có biển kiểm soát và được cấp giấy phép lưu hành theo chế độ quy định kiểm
soát của công an và nhà nước. Trong thời gian lưu hành xe phải được kiểm tra
kỹ thuật định kỳ để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông, còn người điều
khiển xe phải có bằng lái phù hợp với loại xe đó.
Đối với xe mô tô, xe máy chủ xe thường tham gia bảo hiểm toàn bộ vật
chất thân xe. Ở Việt Nam hiện nay loại hình bảo hiểm này hầu như chưa được
thực hiện.
Đối với xe ô tô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ hoặc tham gia từng
bộ phận của xe. Căn cứ vào đặc điểm kĩ thuật xe ô tô được chia thành các tổng
thành sau: tổng thành thân vỏ, tổng thành hệ thống lái, tổng thành hộp số, tổng
thành động cơ, tổng thành trục trước, tổng thành trục sau, tổng thành bánh xe.
Ngoài ra một số loại xe còn có tổng thành các bộ phận chuyên dụng
theo yêu cầu được lắp đặt trên xe như xe cứu thương, cứu hoả, xe chở
container…
Căn cứ vào các tổng thành như trên mà các chủ xe có thể tham gia bảo
hiểm cho toàn bộ xe hoặc các bộ phận của xe. Trong đó, tổng thành thân vỏ
chiếm tỷ trọng lớn nhất và chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hậu quả của rủi ro. Vì
vây, đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe, các công ty bảo hiểm phi nhân
thọ ở Việt Nam hiện nay thường bán hai loại hình của sản phẩm là bảo hiểm
toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe.
1.2.1.2. Phạm vi bảo hiểm:
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 8 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp

Phạm vi bảo hiểm là giới hạn những rủi ro khi xảy ra gây tổn thất cho
xe cơ giới sẽ được người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường.
Rủi ro được bảo hiểm là những thiệt hại vật chất xe do:
 Tai nạn do đâm va, lật đổ: trường hợp này rất dễ xảy ra và cần được bảo
hiểm nhất.
 Tai nạn do thiên tai: cháy, nổ, bão, lụt, động đất, sét đánh, mưa…
 Mất cắp: Trong trường hợp này chỉ mất cắp toàn bộ xe mới được bảo
hiểm, mất cắp bộ phận xe không được bảo hiểm là do các nguyên nhân
sau:
Thứ nhất, tránh trục lợi bảo hiểm, vì chủ xe có thể tháo bộ phận xe giấu
đi và đòi nhà bảo hiểm phải bồi thường.
Thứ hai, bộ phận xe thường có giá trị không cao. Do đó, chi phí xác
nhận mất cắp lớn hơn so với số tiền được bồi thường.
Thứ ba, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người mua bảo hiểm trong
việc bảo vệ tài sản của mình.
 Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho xe được
bảo hiểm trong những trường hợp nêu trên, các công ty bảo hiểm còn thanh
toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý như :
• Chi phí ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị
thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm
• Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.
• Chi phí giám định thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
• Chi phí ra toà (nếu có ).
Rủi ro loại trừ: Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu
bồi thường cho những thiệt hại vật chất của xe xảy ra do:
Thứ nhất, hao mòn tự nhiên, hỏng hóc do sử dụng, lão hóa, mất giá,
giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa
chữa, trong quá trình sửa chữa (bao gồm cả chạy thử).
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 9 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển

Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Thứ hai, hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị (kể cả máy
thu thanh điều hoà nhiệt độ), săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra.
Thứ ba, mất cắp bộ phận của xe .
Ngoài ra để tránh những ‘nguy cơ đạo đức’ lợi dụng bảo hiểm, những
hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ an toàn giao thông hay một số rủi ro đặc biệt
khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không
được bồi thường:
Một là, hành động cố ý của chủ xe, lái xe.
Hai là, xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành
theo qui định trong điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ của liên
bộ giao thông vận tải- nội vụ
Ba là, chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông
đường bộ như:
• Xe không có giấy phép lưu hành ;
• Xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ ;
• Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích
tương tự khác trong khi điều khiển xe ;
• Xe chở chất cháy, nổ trái phép ;
• Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách qui định ;
• Xe đi vào đường cấm ;
• Xe đi đêm không có đèn
• Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa
Bốn là, loại trừ rủi ro có tính “xã hội” với hậu quả lan rộng như:
chiến tranh, bạo loạn…
Năm là, loại trừ những thiệt hại có tính chất hậu quả gián tiếp như:
Giảm giá trị thương mại; ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác.
Sáu là, tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam (trừ trường hợp có thỏa thuận riêng).
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 10 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển

Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Ngoài ra, người bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số
tiền bồi thường cho chủ xe khi:
• Chủ xe cung cấp thông tin không đầy đủ, trung thực khi kê khai các nội
dung trong giấy bảo hiểm (về tình trạng xe, địa bàn hoạt động của xe).
• Không thực hiện đầy đủ các quy định về: thông báo tai nạn, truy đòi
người thứ ba, vấn đề này phụ thuộc vào yêu cầu quản lý rủi ro của
người bảo hiểm, vào những yếu tố khác của hợp đồng như là phí bảo
hiểm.
Cần lưu ý rằng, trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở
hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực với chủ xe
mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe
mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho
chủ xe mới nếu họ có yêu cầu.
1.2.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm :
1.2.2.1. Giá trị bảo hiểm:
Giá trị bảo hiểm xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại
thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm.
Giá xe trên thị trường luôn luôn biến động. Vì vậy, để xác định được
giá trị của xe, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào các nhân tố:
- Loại xe.
- Năm sản xuất.
- Mức độ mới cũ của xe.
- Thể tích làm việc của xi lanh…
Giá trị bảo hiểm được xác định theo hai trường hợp:
- Nếu là xe mua mới giá trị bảo hiểm chính là giá mua mới của xe.
- Nếu là xe đã qua sử dụng thì giá trị bảo hiểm của xe được tính bằng
công thức: Giá trị bảo hiểm = Nguyên giá - Khấu hao
+ Nguyên giá ở đây chính là giá mua mới hay giá trị ban đầu của xe.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 11 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển

Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
+ Để tính khấu hao các công ty bảo hiểm thường dựa vào nguyên giá
và tỷ lệ khấu hao bình quân của xe trong một năm, cụ thể là:
Giá trị khấu hao = Nguyên giá × Tỷ lệ khấu hao 1 năm ×
Thời gian xe sử dụng
12
Trên thực tế rất nhiều xe đã khấu hao hết nhưng vẫn còn giá trị sử dụng
và vẫn sử dụng được. Điều này buộc các công ty bảo hiểm phải có những biện
pháp linh hoạt nhằm thu hút và phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
1.2.2.2. Số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là khoản tiền nhất định được ghi trong đơn bảo hiểm
hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của người
bảo hiểm trong việc bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm.
Trên cơ sở giá trị bảo hiểm, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với số tiền
bảo hiểm nhỏ hơn (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc bằng (bảo hiểm ngang giá trị)
hoặc lớn hơn (bảo hiểm trên giá trị) giá trị thực tế của xe. Việc quyết định
tham gia bảo hiểm với số tiền là bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định số tiền bồi
thường khi có tổn thất xảy ra. Cụ thể:
 Đối với xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị khi xảy ra tổn thất:
Số tiền bồi thường =
Giá trị tổn thất thực tế
×
Số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
 Đối với xe tham gia bảo hiểm ngang giá trị khi xảy ra tổn thất thì công
ty bảo hiểm sẽ bồi thường số tiền bằng đúng giá trị thiệt hại thực tế của
xe tại thời điểm xảy ra tổn thất.
 Đối với xe tham gia bảo hiểm trên giá trị khi rủi ro xảy ra gây tổn thất
công ty bảo hiểm cũng chỉ bồi thường với số tiền bằng thiệt hại thực tế
và luôn luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe.

1.2.3. Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới là khoản tiền nhất định mà người tham
gia bảo hiểm phải nộp cho công ty bảo hiểm sau khi kí kết hợp đồng bảo
hiểm.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 12 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính
theo công thức:
P = f + d
Trong đó: P: Phí thu mỗi đầu xe.
f: Phí thuần
d: Phụ phí.
Phí thuần (f ) được xác định căn cứ vào số liệu thống kê về tình hình
bồi thường tổn thất trong những năm trước đó và được xác định như sau:
f =


=
=
×
n
i
i
n
i
ii
C
TS
1
1

Trong đó: S
i
: số vụ tai nạn giao thông xảy ra năm thứ i
T
i
: thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i
C
i
: số xe hoạt động thức tế trong năm thứ i
Phụ phí (d) bao gồm các chi phí khác như: chi đề phòng hạn chế tổn
thất, chi quản lý…Phần phụ phí này thường được tính bằng một tỷ lệ phần
trăm nhất định so với phí bồi thường.
Để tính phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các công ty bảo hiểm thường
căn cứ vào các yếu tố sau:
Một là, những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử dụng
xe như: Loại xe; Mục đích sử dụng xe; Phạm vi địa bàn hoạt động; Thời gian
đã qua sử dụng, giá trị xe.
Hai là, những yếu tố liên quan đến người được bảo hiểm, người điều
khiển xe như: Giới tính, độ tuổi của lái xe; Tiền sử của lái xe; Kinh nghiệm
của lái xe; Quá trình tham gia bảo hiểm của người được bảo hiểm.
Ba là, việc tính phí bảo hiểm còn tùy thuộc vào sự giới hạn phạm vi bảo
hiểm và có sự phân biệt giữa bảo hiểm lẻ và bảo hiểm cả đội xe.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 13 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường áp dụng công thức tính phí
bảo hiểm như sau:
P = S
b
× R
Trong đó: P - Phí bảo hiểm.

S
b
- Số tiền bảo hiểm.
R - Tỷ lệ phí bảo hiểm.
Tỷ lệ phí ở công thức này do Bộ Tài Chính quy định và nó phụ thuộc vào các
yếu tố sau:
 Xác suất thống kê những vụ tai nạn giao thông xảy ra (nói chung).
 Thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn giao thông xảy ra (nói chung).
 Thời hạn bảo hiểm (ngắn hạn hoặc dài hạn).
1.2.4. Đề phòng và hạn chế tổn thất:
Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các công ty bảo
hiểm thường có những biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất nhằm hạn chế
tối đa các tai nạn và rủi ro có thể xảy ra. Từ đó, giảm thiểu được chi phí bồi
thường, giúp cho nhà bảo hiểm hoạt động có hiệu quả hơn. Hàng năm, các
công ty bảo hiểm thường tiến hành trích một phần từ doanh thu phí của nghiệp
vụ để phục vụ cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Các biện pháp chủ
yếu thường được thực hiện là: xây dựng hệ thống biển báo, xây dựng đường
lánh nạn, lắp hệ thống gương cầu tại những nơi đường rộng hay đèo dốc…Tuy
nhiên, để đề phòng và hạn chế tổn thất một cách hiệu quả nhất lại phụ thuộc
chủ yếu vào ý thức của người chủ phương tiện. Vì vậy, nếu chủ phương tiện
thực hiện tốt các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất như: thắt dây an toàn
khi lái xe, chạy đúng đường, đúng tốc độ quy định…sẽ làm giảm số vụ tai nạn
xảy ra. Từ đó sẽ làm giảm xác suất xảy ra rủi ro dẫn đến phí bảo hiểm giảm và
khoản chi bồi thường của nhà bảo hiểm cũng được giảm xuống.
1.2.5. Giám định và bồi thường tổn thất:
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 14 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
1.2.5.1. Giám định tổn thất:
Giám định tổn thất là quá trình giám định những thiệt hại trong vụ tai
nạn. Công tác giám định nhằm mục đích xác định xem rủi ro xảy ra có thuộc

phạm vi được bảo hiểm hay không, nếu Có thì mức độ tổn thất là bao nhiêu để
làm cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm. Nếu không xác
định chính xác mức độ thiệt hại thực tế, trách nhiệm của lái xe và trách nhiệm
của công ty bảo hiểm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động cũng như
uy tín của công ty đối với các khách hàng. Thông thường có hai loại giám
định tổn thất là giám định độc lập và giám định của công ty bảo hiểm.
Giám định của công ty bảo hiểm: việc giám định tổn thất xảy ra được
giao cho giám định viên của công ty bảo hiểm.
Giám định độc lập: Việc thực hiện giám định tổn thất xảy ra được giao
cho một giám định viên không thuộc của khách hàng cũng không thuộc của
công ty bảo hiểm nhằm đảm bảo tính khách quan.
Thông thường đối với bảo hiểm vật chất ô tô việc giám định tổn thất
được thực hiện dưới sự có mặt của chủ xe hoặc lái xe hoặc người đại diện hợp
pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Chỉ trong trường hợp
hai bên không đạt được sự thống nhất thì mới chỉ định giám định viên kỹ thuật
làm trung gian thực hiện giám định. Kết luận của giám định viên kỹ thuật
được coi là kết luận cuối cùng. Trường hợp kết luận của giám định viên kỹ
thuật khác với kết luận của giám định viên bảo hiểm thì chi phí giám định do
công ty bảo hiểm chịu và ngược lại chủ xe phải chịu chi phí này.
Trong trường hợp đặc biệt nếu doanh nghiệp bảo hiểm không thể thực
hiện được việc lập biên bản giám định thì có thể căn cứ vào các biên bản, đánh
giá của các cơ quan có thẩm quyền và các hiện vật thu được, bản lời khai của
nhân chứng và các bên có liên quan để xác định mức độ thiệt hại.
Quá trình giám định đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu: nhanh chóng, kịp
thời, chính xác, tỉ mỉ, khách quan, trung thực…và phải thực hiện theo nguyên
tắc chung trong công tác giám định là:
• Xác định nguyên nhân tai nạn, từ đó xác định trách nhiệm của
bảo hiểm.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 15 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp

• Xác định mức độ thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm của nhà
bảo hiểm.
• Tất cả các thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm của nhà bảo hiểm
phải được tiến hành giám định.
• Trong trường hợp đặc biệt nếu không tiến hành giám định được
hoặc thiệt nhại nhỏ (dưới 1 triệu đồng) thì căn cứ vào biên bản
của các cơ quan chức năng, căn cứ vào ảnh chụp, các hiện vật
thu được, thông báo tai nạn của chủ xe và lái xe để xác định thiệt
hại và trách nhiệm của bảo hiểm.
• Khi tiến hành giám định phải có đại diện của chủ xe, chủ tài sản
bị thiệt hại hoặc người có trách nhiệm được uỷ quyền quản lý, sử
dụng
Quy trình giám định được tiến hành theo các bước:
Bước 1: Tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng:
Khi xảy ra tai nạn gây tổn thất, khách hàng một mặt phải tìm cách cứu
chữa hạn chế tổn thất, mặt khác phải nhanh chóng thông báo với công ty bảo
hiểm. Khách hàng không được phép thay đổi hiện trường khi chưa có ý kiến
của công ty bảo hiểm, trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có
thẩm quyền.
Khi đã nhận được thông báo tai nạn của khách hàng, giám định viên cần
nắm bắt các thông tin cơ bản để thuận lợi cho việc tiến hành giám định như:
tên chủ xe; biển kiểm soát; số giấy chứng nhận bảo hiểm, hiệu lực, loại hình
tham gia; địa điểm, thời gian xảy ra tai nạn; thông tin ban đầu về tổn thất
thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm; số điện thoại, địa chỉ để liên lạc của chủ
xe…
Bước 2: Tiến hành giám định:
Công việc giám định phải được tiến hành khẩn trương, khoa học và
chuẩn xác. Các kết luận đưa ra phải hợp lý, nhất quán, phù hợp với thực tế.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 16 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp

Giám định viên sau khi đã giám định, thống nhất giữa các bên và đi đến
kết luận cuối cùng sẽ tiến hành hoàn thiện hồ sơ tai nạn để giải quyết bồi
thường một cách nhanh chóng.
1.2.5.2. Bồi thường tổn thất:
Bồi thường tổn thất được thực hiện theo hai bước sau:
Bước 1: Xem xét hồ sơ khách hàng: Nhân viên bồi thường xem xét, đối
chiếu các thông tin của khách hàng trong hợp đồng gốc theo số hồ sơ. Sau đó,
thông báo cho khách hàng đã nhận đầy đủ giấy tờ hoặc những giấy tờ nào
thiếu cần báo ngay với khách hàng để bổ sung kịp thời vào hồ sơ bồi thường.
Bước 2: Xác định số tiền bồi thường: Sau khi đã hoàn tất hồ sơ bồi
thường, bộ phận bồi thường tính toán số tiền bồi thường cho khách hàng dựa
trên:
• Điều khoản của hợp đồng bảo hiểm.
• Biên bản giám định, bản kê khai tổn thất.
• Bảng theo dõi phí nộp.
• Báo giá.
• Trách nhiệm của người thứ ba (nếu có).
Bước 3: Thông báo bồi thường: Sau khi xác định được số tiền bồi
thường, nhà bảo hiểm sẽ thông báo cho khách hàng chấp nhận bồi thường và
đề xuất các hình thức bồi thường với khách hàng.
Bước 4: Truy đòi tiền bồi thường của các bên liên quan: Nếu tổn thất
xảy ra có liên quan tới trách nhiệm của người thứ ba, công ty bảo hiểm sẽ thế
quyền khách hàng đòi phần trách nhiệm đó. Hoặc đòi bồi thường của các nhà
tái bảo hiểm nếu hợp đồng đó được tái đi.
• Trường hợp tổn thất bộ phận: Các công ty bảo hiểm thường giới hạn
mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng bảng tỷ lệ giá trị tổng
thành xe.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 17 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
• Trường hợp tổn thất toàn bộ: Số tiền bồi thường lớn nhất bằng số tiền

bảo hiểm và phải trừ khấu hao cho thời gian xe đã sử dụng hoặc chỉ tính
giá trị tương đương với giá trị xe ngay trước khi xảy ra tổn thất.
Bảo hiểm trùng: Trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất
xe theo một hay nhiều đơn bảo hiểm khác, theo đúng nguyên tắc hoạt động
của bảo hiểm, tổng số tiền mà chủ xe nhận được từ tất cả các đơn bảo hiểm chỉ
đúng bằng thiệt hại thực tế.
1.3. Hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm
1.3.1. Phân tích tình hình khai thác bảo hiểm
Kết quả khâu khai thác bảo hiểm thể hiện chủ yếu ở các chỉ tiêu: số
lượng khách hàng tham gia bảo hiểm (số hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết,
số giấy chứng nhận bảo hiểm, số đơn bảo hiểm đã cấp); số phí bảo hiểm thu
được, doanh thu phí khai thác, hoặc số lượng hợp đồng/ nhân viên...
1.3.1.1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khai thác
Để lập kế hoạch và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch khai thác có
thể vận dụng các chỉ số:
+ Chỉ số nhiệm vụ kế hoạch (i
NK
)::

0
y
y
i
k
NK
=
+ Chỉ số hoàn thành kế hoạch ( i
HK
):
k

HK
y
y
i
1
=
+ Chỉ số thực hiện (i):
0
1
y
y
i
=
Trong đó : y
1,
y
0
, y
k
là mức độ khai thác kỳ báo cáo, kỳ gốc và kỳ kế
hoạch.
1.3.1.2. Phân tích cơ cấu khai thác
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 18 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Có thể phân tích cơ cấu khai thác theo nhiều tiêu thức như theo cơ cấu
vùng lãnh thổ, loại khách hàng, điều kiện bảo hiểm, mức trách nhiệm…
1.3.1.3. Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác bảo hiểm
Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác có thể sử dụng các phương
pháp:
+ Tính chỉ số thời vụ theo các tháng trong năm:

−−
=
X
X
k
i
i
+ Mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm:
12
12
1

=
−−
=
i
i
X
X
Trong đó:
• k
i
: chỉ số thời vụ tháng thứ i
• X
i
: mức độ khai thác tháng thứ i
• X : Mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm.
ki phản ánh mối quan hệ giữa mức độ khai thác trong từng tháng với
mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm. Kết quả tính ra càng gần 1
thì tính chất thời vụ trong tháng đó càng ít và ngược lại.

1.3.2. Phân tích tình hình kiểm soát tổn thất
Kiểm soát tổn thất bao gồm cả đề phòng và hạn chế tổn thất. Đối với
các nghiệp vụ bảo hiểm liên quan đến xe cơ giới, muốn giảm thiểu tổn thất,
thiệt hại, các doanh nghiệp bảo hiểm phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
chức năng có liên quan như: công an, giao thông công chính để tăng cường hệ
thống biển báo chỉ đường, xây dựng đường lánh nạn trên các đèo dốc nguy
hiểm, hỗ trợ kinh phí tổ chức các cuộc thi lái xe tải an toàn và tuyên truyền
giáo dục luật lệ an toàn giao thông…
Phân tích tình hình đề phòng và hạn chế tổn thất có thể tiến hành theo
các hướng sau:
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 19 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
+ So sánh và đánh giá các vụ tổn thất xảy ra do các nguyên nhân khác
nhau, so với cùng kỳ hoặc so với kỳ trước khi thực hiện các biện pháp đề
phòng, hạn chế tổn thất.
+ Vận dụng phương pháp phân tổ, phương pháp hồi quy tương quan để
phân tích mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra trong khâu này với số vụ tổn thất xảy
ra với số tiền bồi thường thực tế của doanh nghiệp bảo hiểm.
1.3.3.Phân tích tình hình giám định và bồi thường tổn thất
Phân tích và đánh giá thực trạng của khâu này thường dựa vào các chỉ
tiêu sau:
+ Số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường trong kỳ, bao gồm: số vụ
khiếu nại đòi giải quyết bồi thường phát sinh trong kỳ và số vụ khiếu nại đòi
bồi thường tồn đọng kỳ trước chuyển sang.
+ Số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường trong kỳ;
+ Số vụ khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết bồi thường trong kỳ;
+ Tỷ lệ giải quyết bồi thường:
Số vụ khiếu nại đã được GQBT trong kỳ
Tỷ lệ giải quyết BT = x 100
Số vụ khiếu nại đòi GQBT trong kỳ

+ Tỷ lệ tồn đọng:
Số vụ khiếu nại còn tồn đọng chưa GQBT trong kỳ
Tỷ lệ tồn đọng = x100
Số vụ khiếu nại đòi GQBT trong kỳ
+ Số tiền bồi thường thực tế trong kỳ:
Tổng số tiền phải BT cho các vụ
Số tiền BTBQ mỗi vụ khiếu nại đã được GQ trong kỳ
khiếu nại đã được = x 100
giải quyết trong kỳ Số vụ khiếu nại đã được GQ BT trong kỳ
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 20 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Số tiền chi bồi thường thực tế trong kỳ
Tỷ lệ chi bồi thường = x 100
Tổng chi trong kỳ
Tổng số tiền chi BT trong kỳ
Tỷ lệ BT trong kỳ = x 100
Tổng doanh thu phí BH trong kỳ
+ Thời gian xử lý ban đầu: Là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp
bảo hiểm nhận được thông báo tổn thất đến khi có phản hồi ban đầu với khách
hàng.
+ Thời gian giải quyết bồi thường: Là khoảng thời gian kể từ khi DNBH
nhận được thông báo tổn thất của KH đến khi KH nhận được thông báo BT
( hoặc từ chối BT) của DNBH.
+ Số vụ khiếu nại bồi thường sai sót trong kỳ.
1.3.4. Chỉ tiêu hiệu quả:
Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu đo lường sự phát triển của doanh nghiệp
bằng cách so sánh kết quả thu được với chỉ tiêu bỏ ra sẽ thu được chỉ tiêu hiệu
quả.
H =
K

C
Trong đó: K: kết quả thu được
C: chi phí bỏ ra
H: hiệu quả
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ
giới thường sử sụng chủ yếu các chỉ tiêu:
- Hiệu quả theo doanh thu:
H
d
=
D
C
- Hiệu quả theo lợi nhuận:
H
e
=
L
C
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 21 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Trong đó: H
d
, H
e
: hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tính
theo doanh thu và lợi nhuận.
D : doanh thu trong kỳ.
L : lợi nhuận thu được trong kỳ.
C : tổng chi phí chi ra trong kỳ.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 22 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển

Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO
HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY CP BẢO
HIỂM HÀNG KHÔNG – CN HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2008 – 2010
2.1. Khái quát về Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không - Chi Nhánh Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
2.1.1.1. Đôi nét về Công ty CP Bảo hiểm Hàng Không
Công ty cổ phần Bảo hiểm Hàng Không có tên giao dịch quốc tế là
Vietnam National Aviation Insurance Company (viết tắt là VNI) được thành
lập theo quyết định số 49 GP/KDBH, ngày 23/04/2008 của Bộ Tài Chính.
Trong đó, cổ đông sáng lập lớn là các tập đoàn, doanh nghiệp hàng đầu Việt
Nam bao gồm Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (VNA), Tập đoàn Than
Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng Công ty lắp máy Việt Nam (LILAMA),
Tổng Công ty XNK Tổng hợp Hà Nội (GELEXIMCO), Công ty CP Nam Việt
(NAVICO) và các cổ đông khác.
Bảng 1. Số vốn góp của các cổ đông sáng lập
STT Tên cổ đông
Số vốn góp
(triệu đồng)
Tỉ lệ % /
vốn điều
lệ
1
Tổng công ty hàng không Việt Nam - VNA 100.000 20
2
Tập đoàn công nghiệp Than và Khoáng sản
Việt Nam - TKV
50.000 10
3
Tổng công ty lắp máy Việt Nam -

LILAMA
50.000 10
4
Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội -
GELEXIMCO
40.000 10
5
Công ty cổ phần Nam Việt - NAVICO 40.000 8
6
Các cổ đông khác 210.000 42
Tổng cộng 500.000 100
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 23 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
Sự tham gia và cam kết của các cổ đông đã tạo ra một đòn bẩy mạnh
mẽ, tạo ra nền móng cho sự phát triển, đi lên của một thương hiệu đầy triển
vọng của thị trường bảo hiểm Việt Nam – VNI.
Với số vốn đăng ký 500 tỷ đồng, VNI là một trong 5 doanh nghiệp bảo
hiểm có số vốn đăng ký lớn nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Hiện nay VNI được phép tiến hành kinh doanh các nghiệp vụ sau:
Kinh doanh bảo hiểm gốc bao gồm:
• Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người
• Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại
• Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường biển, đường
sông, đường sắt và đường hàng không.
• Bảo hiểm hàng không;
• Bảo hiểm xe cơ giới
• Bảo hiểm cháy, nổ;
• Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu;
• Bảo hiểm trách nhiệm chung;
• Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính;

• Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh.
Kinh doanh tái bảo hiểm: Nhận và nhượng tái bảo hiểm đối với tất cả
các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ.
Và tiến hành các hoạt động đầu tư khác theo quy định của pháp luật.
Mạng lưới dịch vụ của VNI đã phát triển tốt với nhiều chi nhánh và các
văn phòng tại: Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nghệ An, Hải Phòng,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Ninh, Quảng Nam… và đang tiếp tục mở rộng
trong thời gian tới. Tính đến thời điểm này, số chi nhánh và văn phòng đã
xấp xỉ lên đến 20 đơn vị. Mạng lưới đại lý khai thác cũng được triền khai rộng
khắp nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên phạm vi toàn quốc. Mạng
lưới cứu hộ, giám định trải dài và rộng khắp hỗ trợ tích cực và hiệu quả cho
công tác dịch vụ khách hàng, giải quyết bồi thường.
Kể từ khi đi vào hoạt động đến nay, Công ty CP Bảo Hiểm Hàng Không
đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. VNI là một trong 4 doanh nghiệp
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 24 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển
Trường Đại học Lao động – Xã hội Khóa luận tốt nghiệp
bảo hiểm trên thị trường Việt Nam có đầy đủ 10 nhóm nghiệp vụ bảo hiểm.
Bên cạnh đó, tình hình kinh doanh của Công ty trong những năm qua cũng rất
khả quan. Năm 2008, VNI đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch đề ra và là một
trong số ít các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động có lãi trong số 27 công ty
bảo hiểm trên thị trường. Năm 2009, VNI đứng trong nhóm 10 công ty bảo
hiểm có doanh thu lớn nhất Việt Nam. Năm 2010, VNI tiếp tục phát triển mở
rộng mạng lưới kinh doanh với lợi thế là một trong những doanh nghiệp có
mức phí bảo hiểm thấp nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Với con số cụ thể và những hành động, phương châm phục vụ rõ ràng ,
VNI đã dần khẳng định được vị trí của mình đối với các công ty khác, uy tín
cũng vì thế ngày càng tăng lên và được nhiều người biết đến.
Trong tương lai, VNI hướng tới các mục tiêu phát triển quan trọng như
sau:
Thứ nhất, trở thành một trong 5 thương hiệu bảo hiểm hàng đầu tại Việt

Nam.
Thứ hai, trở thành công ty hàng đầu tại khu vực trong lĩnh vực bảo hiểm
hàng không.
Thứ ba, cung cấp đa dạng các sản phẩm, dịch vụ chất lượng và chuyên
nghiệp.
Thứ tư, duy trì môi trường văn hóa doanh nghiệp năng động, sáng tạo.
Thứ năm, mang lại giá trị thiết thực cho khách hàng, cổ đông và đội ngũ
cán bộ.
Thứ sáu, là đối tác tin cậy của thị trường trong nước và quốc tế.
2.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Hà Nội:
Chi Nhánh Hà Nội được thành lập vào tháng 8/2008 theo quyết định số
49/GPĐC2/ KDBH của Bộ trưởng Bộ tài chính. Kể từ khi đi vào hoạt động
đến nay, Chi nhánh đã dần trưởng thành và giành được những thành công
bước đầu, đang cố gắng để dẫn đầu các chi nhánh khác trực thuộc công ty.
Khi mới thành lập, chi nhánh có 3 văn phòng khu vực là Hà Đông, Nam
Hà Nội và Vĩnh Phúc nhưng đến thời điểm này số lượng các VPKV đã tăng
lên hơn gấp đôi, bao gồm: Hà Đông, Vĩnh Phúc, Nội Bài, Nam Hà Nội, Gia
Lâm, Đông Anh và Hoàng Mai.
SVTH: Trương Thị Thanh Thủy 25 GVHD: Th.S Lục Mạnh Hiển

×