Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Dịch vụ thẻ của các ngân hàng thương mại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.9 KB, 39 trang )

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC DỊCH VỤ THẺ CỦA
CÁC NHTM VIỆT NAM
1.1 KHÁI NIỆM VỀ THẺ THANH TOÁN
Đối với thẻ thanh toán có nhiều khái niệm để diễn đạt nó, mỗi một
cách diễn đạt nhằm làm nổi bật nội dung nào đó. Sau đây là một số khái
niệm về thẻ thanh toán:
- Thẻ thanh toán (thẻ chi trả) là một phương tiện thanh toán tiền mua
hàng hóa, dịch vụ hoặc có thể dùng để rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý
hoặc các máy rút tiền tự động.
- Thẻ thanh toán là một loại thẻ giao dịch tài chính được phát hành bởi
Ngân hàng, các Tổ chức tài chính hay các Công ty.
- Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
mà người chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền mua
hàng hóa, dịch vụ tại các điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ.
- Thẻ thanh toán là phương thức ghi sổ những số tiền cần thanh toán
thông qua máy đọc thẻ phối hợp với hệ thống mạng máy tính kết nối giữa
Ngân hàng/Tổ chức tài chính với các điểm thanh toán (Merchant). Nó cho
phép thực hiện thanh toán nhanh chóng, thuận lợi và an toàn đối với các
thành phần tham gia thanh toán.
Tóm lại: các cách diễn đạt trên điều phản ánh lên đây là một phương
thức thanh toán mà người sở hữu thẻ có thể dùng để thanh toán tiền mua
hàng hóa dịch vụ hay rút tiền mặt tự động thông qua các máy đọc thẻ hay
các máy rút tiền tự động.
1.2 ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THẺ
Từ khi ra đời cho đến nay, cấu tạo của thẻ tín dụng đã có những thay
đổi khá lớn nhằm tăng độ an toàn và tính tiện dụng cho khách hàng. Ngày
nay, với những thành tựu của kỹ thuật vi điện tử, một số loại thẻ được gắn
thêm con chip điện tử nhằm tăng khả năng ghi nhớ thông tin và tính bảo
mật cho thẻ.
Hầu hết các loại thẻ thanh toán ngày nay đều được cấu tạo bẳng nhựa


cứng (Plastic), có kích cỡ 84mm x 54mm. Thẻ được thiết kế gồm có 2 mặt:
mặt trước và mặt sau; trên mỗi mặt thẻ có chứa các thông tin sau:
* Mặt trước của thẻ bao gồm:
- Tên, biểu tượng thẻ và huy hiệu của các tổ chức pháp hành.
- Số thẻ: là số dành riêng cho mỗi chủ thẻ. Số này được dập nổi trên
thẻ và sẽ được in lại trên hóa đơn khi chủ thẻ đi mua hàng. Tùy theo từng
loại thẻ mà có số chữ số khác nhau và cách cấu trúc theo nhóm cũng khác
nhau.
- Ngày hiệu lực của thẻ: là thời hạn mà thẻ được lưu hành.
- Họ và tên của chủ thẻ.
- Số mật mã đợt phát hành (chỉ có ở thẻ AMEX)
* Mặt sau của thẻ bao gồm:
- Dãy băng từ có khả năng lưu trữ những thông tin như: số thẻ, ngày
hiệu lực, tên chủ thẻ, tên Ngân hàng phát hành, số PIN.
- Băng chữ ký mẫu của chủ thẻ.
Nhận biết thẻ ATM:
* Các yếu tố mặt trước của thẻ
- (1) Tên ngân hàng phát hành.
- (2) Tên thẻ.
- (3) Số thẻ dập nổi.
- (4) Ngày bắt đầu có hiệu lực sử dụng.
- (5) Hạng thẻ.
- (6) Tên chủ thẻ.
* Các yếu tố mặt sau của thẻ
- (a) Thông tin về số điện thoại dịch vụ khách hàng của ngân hàng
phát hành thẻ.
- (b) Băng từ.
- (c) Băng chữ ký màu trắng.
- (d) Biểu tượng của các NHTM in chìm.
- (e) Thông tin về việc sử dụng thẻ theo hợp đồng ký kết.

1.3 PHÂN LOẠI THẺ THANH TOÁN
Có nhiều cách để phân loại thẻ thanh toán: phân loại theo công nghệ
sản xuất, theo chủ thể phát hành, theo tính chất thanh toán của thẻ, theo
phạm vi lãnh thổ…
a) Phân loại theo công nghệ sản xuất: có 3 loại
Thẻ khắc chữ nổi (EmbossingCard): dựa trên công nghệ khắc chữ
nổi, tấm thẻ đầu tiên được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay người ta
không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ dễ bị giả mạo.
Thẻ băng từ (Mapnetic Stripe): được sản xuất dựa trên kỹ thuật từ tín
với một băng từ chứa hai rảnh thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ này đã được
sử dụng phổ biến trong 20 năm qua, nhưng đã bộc lộ một số nhược điểm:
- Khả năng bị lợi dụng cao do thông tin ghi trong thẻ không tự mã hóa
được, người ta có thể đọc thẻ dễ dang bằng thiết bí gắn với máy vi tính.
- Thẻ mang tính thông tin cố định, không gian chứa dữ liệu ít, không
áp dụng được kỹ thuật mã hóa, bảo mật thông tin…
Thẻ thông minh (Smart Card): là thế hệ mới của thẻ thanh toán, thẻ
thông minh dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học nhờ gắn vào thẻ “chip” điện
tử có cấu trúc giống như một máy tính hoàn hảo. Thẻ thông minh an toàn
và hiệu quả hơn thẻ băng từ do “chip” có thể chứa thông tin nhiều hơn 80
lần so với dãy băng từ.
b) Phân loại theo tính chất thanh toán thẻ:
- Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất,
theo đó người chủ thẻ được phép sử dụng một hạng mức tín dụng không
phải trả lãi để mua sắm hàng hóa, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh,
khách sạn, sân bay… chấp nhận loại thẻ này. Gọi đây là thẻ tín dụng vì chủ
thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng mà không phải trả tiền ngay, chỉ
thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng từ đặc điểm trên mà người ta
còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (Delayed Debit Card) hay thẻ
trả chậm.
- Thẻ ghi nợ (Debit Card): đây là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn

liền với tài khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi sử dụng để mua hàng hóa hay
dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản
của chủ thẻ thông qua những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn…
Thẻ ghi nợ còn được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động.
Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ thuộc vào số dư hiện
hữu trên tài khỏan của chủ thẻ. Có 2 loại thẻ ghi nợ cơ bản:
+ Thẻ online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ
ngay lập tức vào tài khoản chủ thẻ.
+ Thẻ offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu vào tài
khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
- Thẻ rút tiền mặt (Cash card): là loại thẻ rút tiền mặt tại các máy rút
tiền tự động hoặc ở Ngân hàng. Với chức năng riêng biệt chỉ dùng để rút
tiền, yêu cầu đặt ra đối với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký quỹ tiền gởi vào
tài khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng
được. Có 2 loại thẻ rút tiền:
+ Loại 1: chỉ rút tiền tại những máy rút tiền tự động của Ngân hàng
phát hành.
+ Loại 2: được sử dụng để rút tiền không chỉ ở Ngân hàng phát hành
mà còn được sử dụng để rút tiền ở các Ngân hàng cùng tham gia tổ chức
thanh toán với Ngân hàng phát hành thẻ.
c) Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
- Thẻ trong nước: là thẻ được giới hạn trong phạm vi một quốc gia, do
vậy đồng tiền giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó.
- Thẻ quốc tế: đây là loại thẻ được chấp nhận trên toàn thế giới, sử
dụng các ngoại tệ mạnh để thanh toán.
d) Phân loại theo chủ thể phát hành:
- Thẻ do Ngân hàng phát hành ( Bank Card): là loại thẻ do Ngân hàng
phát hành giúp cho khách hàng sử dụng một số tiền do Ngân hàng cấp tín
dụng.
- Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải trí

của các tập đoàn kinh doanh lớn hoặc các Công ty xăng dầu lớn… phát
hành như Diner’ Club, Amex…
1.4 QUAN NIỆM VỀ DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG
Quan niệm về dịch vụ khách hàng của mỗi doanh nghiệp là không
giống nhau, và sẽ phản ánh mối quan hệ của một doanh nghiệp với khách
hàng. Nếu chỉ nghĩ dịch vụ khách hàng đơn thuần là việc cung cấp những
gì khách hàng yêu cầu, chắc chắn chủ doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó
khăn trong việc làm hài lòng những khách hàng khó tính. Tuy nhiên, nếu có
cách hiểu rộng hơn về ý nghĩa của dịch vụ khách hàng, là việc tạo cho
khách hàng sự hài lòng, đáp ứng những nhu cầu khó nắm bắt hơn, đồng
thời xây dựng một “dịch vụ khách hàng” ngay trong nội bộ công ty thì chắc
chắn doanh nghiệp sẽ có ưu thế hơn đối thủ của mình trong việc cung cấp
dịch vụ chăm sóc khách hàng.
Khi khách hàng tiếp xúc và làm việc với các nhân viên trong doanh
nghiệp, thực chất họ đang có những đánh giá nhất định hay đang cho điểm
chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp, thể hiện qua 6 điểm cơ bản sau:
- Sự thân thiện của nhân viên.
- Thấu hiểu, cảm thông và luôn lắng nghe nhu cầu của khách hàng.
- Nhận được sự đối xử công bằng.
- Được đặt ở vị trí trung tâm trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Được cung cấp thông tin về sản phẩm, chính sách, thủ tục,…
- Có được nhiều chọn lựa về sản phẩm hay các hình thức phục vụ.
Khách hàng luôn có những yêu cầu cao, và ngoài những tiêu chuẩn cơ
bản nói trên, dĩ nhiên vẫn còn rất nhiều tiêu chuẩn khác nữa tuỳ lĩnh vực
hoạt động của doanh nghiệp và đôi khi nhu cầu của khách hàng cũng thay
đổi tuỳ theo sở thích của từng cá nhân hay thậm chí thay đổi theo thời gian.
Để nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp phải biết
được khách hàng của mình là ai. Thông thường, doanh nghiệp chỉ giới hạn
khái niệm “khách hàng” là những người làm ăn bên ngoài với công ty.

Thực tế, mỗi một nhân viên làm việc trong một công ty đều có “khách
hàng” riêng, không phân biệt đó là người tiêu dùng sản phẩm và đem lại
lợi nhuận cho doanh nghiệp, hay chỉ đơn giản là một đồng nghiệp của nhân
viên đó tại nơi làm việc. Như vậy, khách hàng bao gồm khách hàng bên
ngoài và khách hàng nội bộ của công ty.
Khách hàng bên ngoài - Đây là những người thực hiện các giao dịch
với doanh nghiệp, bằng nhiều hình thức: gặp gỡ trực tiếp, giao dịch qua
điện thoại hay giao dịch trực tuyến. Đây chính là cách hiểu truyền thống về
khách hàng, không có những khách hàng như thế này, doanh nghiệp cũng
không thể tồn tại.
Bên cạnh những khách hàng này, còn có những khách hàng nội bộ:
nhân viên chính là “khách hàng” của doanh nghiệp, và các nhân viên cũng
chính là khách hàng của nhau. Về phía doanh nghiệp, họ phải đáp ứng
được nhu cầu của nhân viên, có những chính sách nhằm phát huy lòng
trung thành của nhân viên. Bên cạnh đó, giữa các nhân viên cũng cần có sự
quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau trong công việc.
Bằng cách mở rộng khái niệm về khách hàng cũng như dịch vụ khách
hàng, doanh nghiệp sẽ có thể tạo ra một dịch vụ hoàn hảo hơn bởi chỉ khi
nào doanh nghiệp có sự quan tâm tới nhân viên, xây dựng được lòng trung
thành của nhân viên, đồng thời, các nhân viên trong doanh nghiệp có khả
năng làm việc với nhau, quan tâm đáp ứng nhu cầu và làm hài lòng đồng
nghiệp, thì họ mới có được tinh thần làm việc tốt nhất, mới có thể phục vụ
các khách hàng bên ngoài của công ty một cách hiệu quả, thống nhất.
Chương 2
PHÂN TÍCH MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA KHÁCH HÀNG VÀ
NHỮNG RỦI RO CỦA THẺ
2.1 MỨC ĐỘ QUAN TRỌNG CỦA CÁC TIÊU CHÍ KHI LỰA CHỌN
SỬ DỤNG THẺ CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM.
Ngày nay, thẻ được nhiều ngân hàng phát hành nên khách hàng luôn có
sự so sánh về các tiêu chí như phí dịch vu, mức độ an toàn hay uy tín giữa

các ngân hàng với nhau. Từ đó họ mới quyết định sẽ sử dụng dịch vụ do
ngân hàng nào phát hành. Sau đây là thống kê mô tả mức độ hài lòng của
các tiêu chí lựa chọn sử dụng thẻ khi đến với các NHTM Việt Nam. Từ kết
quả phỏng vấn trực tiếp 60 khách hàng ta có số liệu để phân tích tình hình
này qua bảng 1 như sau:
Bảng 2.1: THỐNG KÊ MÔ TẢ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA CÁC
TIÊU CHÍ LỰA CHỌN SỬ DỤNG THẺ CỦA CÁC NHTM VIỆT
NAM
Mức
độ
Uy
tín
Số
lượng
máy
ATM
Hiện
đại
Thủ
tục
dễ
dàng
An
toà
n
Khuyến
mãi
Nhâ
n
Viê

n
Vị
Trí
Dịch
vụ
Mạng
Lưới
1 0 0 0 0 1,7 1,7 0 0 1,7 0
2 1,7 1,7 10,0 1,7 0 25,0 0 5,0 3,3 0
3 6,7 18,3 23,3 30,0 11,7 38,3 31,7 31,7 43,3 20,0
4 20,0 23,3 33,3 41,7 30,0 13,3 35,0 36,7 30,0 31,7
5 71,7 53,3 30,0 23,3 56,7 18,3 30,0 23,3 21,7 48,3
Mea
n
4,62 4,33 3,86 3,90 4,40 3,22 3,98 3,81 3,67 4,28
Mod
e
5 5 4 4 5 3 4 4 3 5
( Nguồn: Xử lý số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS)
Ghi chú: 1: Hoàn toàn không quan trọng

5: Rất quan trọng
Hình 2.1: mức độ hài lòng của các tiêu chí ảnh hưởng đến quyết định sử
dụng thẻ
Ghi chú: 1: Hoàn toàn không quan trọng

5: Rất quan trọng
Theo bảng 1, phần lớn các tiêu chí đều ảnh hưởng đến quyết định
chọn dịch vụ thẻ của các NHTM đều có mức độ quan trọng cao. Mức độ
quan trọng ở đây được đo lường bằng thang đo Likert từ 1 là hoàn toàn

không quan trọng đến 5 là rất quan trọng. Ở đây mức độ quan trọng thấp
nhất là 3,22 điểm và cao nhất là 4,62 điểm.
Mức độ hàng đầu khi lựa chọn của khách hàng chính là uy tín của
ngân hàng phát hành với trên 91,7% khách hàng quan tâm và có mức độ rất
quan trọng ảnh hưởng đến quyết định chọn sử dụng thẻ của khách hàng
(với mức điểm trung bình là 4,62 điểm).
Mức độ thứ 2 được nhiều khách hàng quan tâm là mức độ an toàn, bảo
mật thông tin của ngân hàng phát hành chiếm tỷ lệ 86,7% và mức độ quan
trọng của yếu tố này đến quyết định hài lòng của khách hàng trung bình đạt
4,40 điểm.
Mức độ về số lượng máy ATM và mạng lưới ngân hàng rộng khắp
cũng được khá nhiều khách hàng quan tâm với tỷ lệ trên 76% và được đánh
giá với mức độ rất quan trọng ở điểm trung bình là trên 4,2 điểm.
Còn các mức độ khác liên quan đến sản phẩm thẻ hay ngân hàng phát
hành như mức độ hiện đại của máy ATM, thủ tục dễ dàng (như làm thẻ, dễ
dàng trong các giao dịch…), chương trình khuyến mãi hấp dẫn, tác phong
làm việc của nhân viên, vị trí giao dịch thuận lợi, có nhiều loại hình dịch vụ
phong phú… chỉ chiếm mức độ ảnh hưởng đến quyết định hài lòng của
khách hàng với mức điểm trung bình đạt khoảng 3,22 điểm.
Như vậy, có thể nói uy tín ngân hàng, mức độ an toàn, bảo mật thông
tin của ngân hàng, số lượng máy ATM và mạng lưới ngân hàng rộng khắp
chính là 3 nhân tố chính cho việc ra quyết định của khách hàng. Ngày nay,
khách hàng luôn có yêu cầu cao đối với dịch vụ mà họ lựa chọn, không
riêng với thẻ mà các dịch vụ khác của Ngân hàng như huy động vốn, thanh
toán quốc tế… Bởi ngày càng có nhiều ngân hàng tham gia vào thị trường
tiền tệ, khách hàng có nhiều lựa chọn hơn. Chính vì thế, khách hàng càng
cân nhắc kỹ hơn cho quyết định của mình để thật sự hài lòng với sự lựa
chọn đó.
Khi đã chọn dịch vụ thẻ của các NHTM thì thời gian gắn bó lâu dài ra
sao? Điều này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố cũng như phương thức mà

các NHTM đưa ra nhằm thu hút khách hàng qua thời gian sử dụng dịch vụ.
Thời gian sử dụng thẻ của khách hàng thể hiện qua bảng 5 như sau:
Bảng 2.2: THỜI GIAN SỬ DỤNG THẺ CỦA KHÁCH HÀNG
Tiêu chí Tần số %
< 6 tháng 3 5,0
6 tháng đến 1 năm 11 18,3
1 đến 2 năm 11 18,3
> 2 năm 35 58,3
Tổng cộng 60 100,0
(Nguồn: số liệu điều tra của tác giả, 12/2012)
THOIGIAN
>2nam
1 den 2 nam
6 thang den 1 nam
< thang
Hình 2.2: thời gian sử dụng thẻ của khách hàng
Nhìn chung ở bảng 2 khách hàng có thời gian sử dụng trên 2 năm
chiếm tỷ lệ cao. Đây là những khách hàng trung thành với thẻ của các
NHTM. Tuy số khách hàng còn lại có thời hạn sử dụng thấp hơn hai năm là
do họ chỉ mới sử dụng dịch vụ trong thời gian gần đây. Nếu cảm nhận được
sự hài lòng, cũng như chất lượng dịch vụ và các phương thức thu hút khách
hàng đạt chất lượng tốt thì họ cũng tiếp tục gắn bó lâu dài với các NHTM.
2.2 MỨC ĐỘ QUAN TRỌNG CỦA CÁC NGUỒN THÔNG TIN ĐẾN
QUYẾT ĐỊNH SỬ DỤNG THẺ CỦA KHÁCH HÀNG TẠI CÁC
NHTM VIỆT NAM.
Sau khi tìm hiểu về mức độ quan trọng của các tiêu chí khi sử dụng
thẻ của các NHTM, vậy do đâu mà khách hàng biết đến các sản phẩm của
các NHTM. Liệu đây có phải là do uy tín ngân hàng hay do chính sách
marketing hiệu quả đã giúp nhiều người nghĩ ngay đến các NHTM? Kết
quả phỏng vấn 60 khách hàng sẽ giúp ta hiểu rõ thêm về mức độ quan trọng

của các nguồn thông tin ảnh hưởng đến quyết định sử dụng thẻ của khách
hàng tại các NHTM.
Bảng 2.3: THỐNG KÊ MÔ TẢ MỨC ĐỘ QUAN TRỌNG CỦA CÁC
NGUỒN THÔNG TIN ĐẾN QUYẾT ĐỊNH SỬ DỤNG THẺ CỦA
KHÁCH HÀNG TẠI CÁC NHTM
Mức
độ
Bạn bè,
người
thân

quan
Tiếp
thị
Tự đến
Ngân
hàng
Quảng
cáo
Báo
chí
Khác
1 0 11,7 8,3 6,7 3,3 1,7 18,3
2 13,3 20,0 31,7 23,3 21,7 15,0 31,7
3 48,3 25,0 23,3 43,3 48,3 55,0 5,0
4 11,7 8,3 15,0 6,7 6,7 13,3 5,0
5 18,3 20,0 3,3 13,3 1,7 3,3 5,0
Mean 3,38 3,06 2,67 2,96 2,78 3,02 2,18
Mode 3 3 2 3 3 3 2
(Nguồn: Xử lý số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS)

Ghi chú: 1: Hoàn toàn không quan trọng

5: Rất quan trọng
Hình 2.3: mức độ quan trọng của các nguồn thông tin ảnh hưởng đến
quyết định sử dụng thẻ của khách hàng
Qua bảng 3 cho thấy mức độ quan trọng của các nguồn thông tin đối
với quyết định chọn dịch vụ thẻ của các NHTM. Theo bảng 3 thì nguồn
thông tin từ bạn bè, người thân chiếm điểm trung bình cao nhất là 3,38
điểm với gần 80% khách hàng trả lời phỏng vấn cho rằng đây là nguồn
thông tin quan trọng. Hơn ai hết bạn bè, người thân là những người rất
đáng tin cậy. Họ cũng là những người làm công tác marketing hữu hiệu cho
ngân hàng với kinh nghiệm của người đã sử dụng dịch vụ thẻ. Các nguồn
tin từ cơ quan, báo chí cũng có mức độ quan trọng cao đạt trên 3,02 điểm.
Có thể nói các NHTM như Vietcombank, Vietinbank…. có ưu điểm là có
thương hiệu lâu đời nên uy tín của Ngân hàng được nhiều người biết đến,
nhiều khách hàng chủ động tìm đến Ngân hàng, kèm theo sự hướng dẫn
nhiệt tình của cán bộ nhân viên ngân hàng giúp khách hàng hiểu rõ hơn về
dịch vụ thẻ và dễ dàng ra quyết định có chọn sử dụng thẻ do các NHTM
phát hành hay không? Bên cạnh đó nguồn tin từ quảng cáo, báo chí,
internet cũng có mức độ quan trọng không ít. Với thời buổi công nghệ thì
tìm kiếm thông tin trên internet lại được nhiều người chú ý vì ít tốn kém và
nhanh chóng. Đối với nguồn tin từ cơ quan giới thiệu và nguồn tin khác thì
ít quan trọng hơn. Dịch vụ thẻ xuất phát từ nhu cầu của mỗi người nên họ
tìm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Qua cuộc khảo sát cho thấy mức
độ quan trọng của nguồn thông tin ảnh hưởng đến quyết định của khách
hàng, từ đó cần có biện pháp marketing cho phù hợp giúp khách hàng nắm
được thông tin một cách nhanh nhất và chính xác nhất.
2.3 MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC SỬ DỤNG THẺ
Khi đến với dịch vụ thẻ của các NHTM, khách hàng thường sử dụng
thẻ vào mục đích gì? Công dụng của thẻ có đáp ứng hết nhu cầu sử dụng

thẻ của khách hàng không? Bảng 4 sau đây là thống kê về mục đích sử
dụng thẻ của các khách hàng
Bảng 2.4: MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC SỬ DỤNG THẺ CỦA CÁC NHTM
Tiêu chí Số lượng/60 mẫu Tỷ lệ (%)
Rút tiền 59 98,3
Chuyển khoản 34 56,7
Thanh toán hàng hóa, dịch
vụ
25 41,7
Khác 4 6,7
(Nguồn: số liệu điều tra của tác giả,12/2012)
Khách hàng có thể sử dụng thẻ với nhiều mục đích. Nhưng khi rút tiền
hay thanh toán hàng hóa dịch vụ thì đều mang đến cho Ngân hàng những
khoản phí như: phí tài chính (đối với thẻ tín dụng), phí rút tiền mặt…
Trong số khách hàng tham gia trả lời phỏng vấn thì phần lớn khách hàng sử
dụng thẻ của các NHTM để rút tiền mặt đạt 98,3% và 56,7% khách hàng sử
dụng với mục đích chuyển khoản. Hiện nay, thực hiện chỉ thị 20 về chi trả
lương qua tài khoản của Thủ tướng Chính Phủ, vì thế việc nhận lương qua
tài khoản được áp dụng cho thẻ ATM của các NHTM, chính điều này làm
cho khách hàng sử dụng thẻ với mục đích rút tiền mặt chiếm tỷ lệ cao. Với
tiêu chí dùng thẻ để thanh toán hàng hóa, dịch vụ thì tỷ lệ chỉ đạt 41,7%
(tương đương 25/60 người được phỏng vần) điều này chứng tỏ thói quen
dùng tiền mặt của người dân vẫn chưa thể thay đổi, ngân hàng nên có
những phương thức thu hút khách hàng sử dụng thẻ để thanh toán tiền
nhiều hơn. Thanh toán tiền ở đây có thể hiểu là thanh toán tại các nơi có
chấp nhận thanh toán bằng thẻ. Việc sử dụng thẻ có thể thực hiện ở Thành
phố Hồ Chí Minh, ở hầu hết Việt Nam và ngay cả khi ở nước ngoài. Khách
hàng không cần phải trả tiền ngay không quan tâm đến số dư hiện tại trong
tài khoản có đủ để thanh toán tiền hay không. Đây cũng góp phần hạn chế
phần nào lượng tiền mặt lưu thông ra thị trường và hạn chế được rủi ro về

tiền giả. Thẻ còn thể hiện tính hiện đại của mình khi khách hàng có thể lựa
chọn mua hàng và thanh toán tiền ngay tại nhà thông qua mạng Internet mà
không cần phải đến trực tiếp của hiệu để trả tiền. Hành động này được áp
dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, và ngày nay Việt Nam cũng đang
hòa nhập chung với nền kinh tế thế giới nên việc sử dụng thẻ nội địa tín
dụng quốc tế cũng dần trở nên quen thuộc đối với người dân Việt Nam.
2.4 MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA KHÁCH HÀNG ĐỐI VỚI DỊCH VỤ
THẺ CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM.
Khi đến với dịch vụ thẻ của các NHTM khách hàng luôn có mục
đích chính cho việc sử dụng của mình, thế nhưng thẻ của các NHTM có
đáp ứng tốt các nhu cầu sử dụng của khách hàng chưa? Khách hàng có thật
sự hài lòng và bị thu hút với các tiêu chí như mạng lưới chấp nhận thẻ hiện
nay hay hạn mức sử dụng thẻ…Qua phân tích từ nguồn thông tin sơ cấp đã
phỏng vấn 60 khách hàng ta có kết quả về mức độ thu hút khách hàng đối
với dịch vụ thẻ của các NHTM thể hiện qua bảng 5 như sau:
Bảng 2.5: THỐNG KÊ TỔNG HỢP MỨC ĐỘ THU HÀI LÒNG
HÀNG ĐỐI VỚI DỊCH VỤ THẺ CỦA CÁC NHTM
Mức độ
Uy tín
Ngân
hàng
Mạng lưới
chấp nhận
thẻ
Biểu phí
phát sinh
Sự hiểu biết
của nhân
viên
Tính

sành
điệu
1 0 0 0 0 13,3
2 1,7 0 13,3 3,3 30,0
3 8,3 10,0 53,3 28,3 31,7
4 21,7 40,0 23,3 35,0 10,0
5 68,3 50,0 10,0 33,3 15,0
Mean 4,57 4,40 3,30 3,98 2,83
Mode 5 5 3 4 3
(Nguồn: Xử lý số liệu điều tra bằng phần mềm SPSS)
Hình 2.4: mức độ hài lòng khách hàng đối với dịch vụ thẻ
Bảng 5 cho ta thấy mức độ thu hút khách hàng được đánh giá thông qua
nhiều tiêu chí như sau:
- Về uy tín ngân hàng và mạng lưới chấp nhận thẻ hiện nay của các
NHTM như vietcombank, vietinbank…. có thể nói đã mang lại phần nào
hài lòng và thu hút cho khách hàng khi hơn 90% số khách hàng trả lời
phỏng vấn với mức 5. Hiện tại, mạng lưới thanh toán của các NHTM đã có
đến gần 10.000 đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) với các loại hình đa dạng
như nhà hàng, khách sạn, cửa hàng mỹ phẩm, siêu thị… Số điểm chấp nhận
thẻ thanh toán ở Thành Phố Hồ Chí Minh ngày càng được mở rộng, cụ thể
trong 3 năm gần đây số lượng chấp nhận thẻ tăng thêm gần 100 đơn vị.
Trước những bước tiến của dịch vụ thẻ thì khách hàng càng cảm thấy thu
hút hơn đối với dịch vụ. Tuy nhiên, việc thanh toán thẻ thường được thực
hiện ở các thành phố lớn, những nơi xa xôi, hẽo lánh còn nhiều điều hạn
chế, khi ấy tiền mặt vẫn còn được sử dụng. Do đó để việc sử dụng và thanh
toán bằng thẻ được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng, cần gia tăng mở
rộng đơn vị chấp nhận thẻ. Việc này không chỉ đem lại sự hài lòng và thu
hút cho khách hàng của các NHTM mà đối với những ai đang sử dụng thẻ
của bất kỳ ngân hàng và quốc gia nào.
- Về biểu phí phát hành và sử dụng thẻ: Đa số số lượng khách hàng bị

thu hút về biểu phí mà Ngân hàng các NHTM đang áp dụng, tuy nhiên
mức độ chưa cao khi mức trung bình chỉ đạt 3,30 điểm. Do có 1 số ít người
vẫn chưa thật sự bị thu hút, bởi họ vẫn phải trả phí khi sử dụng dịch vụ.
Biểu phí dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền mà khách hàng phải trả
cho Ngân hàng. Do đó, khách hàng có xu hướng cân nhắc phí dịch vụ giữa
một số Ngân hàng trước khi quyết định tham gia phát hành thẻ.
- Về sự hiểu biết và thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng cũng là
yếu tố ảnh hưởng đến mức độ thu hút các khách hàng. Theo khảo sát thì có
đến 68,3% khách hàng bi thu hút. Với trình độ chuyên môn của nhân viên 4
trên đại học và 152 nhân viên có trình độ đại học, qua các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ giúp cho nhân viên có thêm nhiều kiến thức mới bởi công nghệ
không ngừng phát triển, đòi hỏi trÌnh độ tiếp thu và ứng dụng công nghệ
vào các dịch vụ ngân hàng cũng như đối với các quy trình thanh toán hiện
đại như ngày nay. Bên cạnh đó cùng với sự nhiệt tình của một nhân viên
khi tiếp xúc với khách hàng với lời nói trang nhã, lịch thiệp cũng làm cho
thu hút khách hàng khi đến với các NHTM. Qua đó càng tăng thêm uy tín
đối với khách hàng, có thể thu hút khách qua các dịch vụ thẻ và các dịch vụ
khác như tiền gửi tiết kiệm, chuyển tiền quốc tế hay khi cần vốn có thể đến
với các NHTM. Chính khách hàng là người đem lại lợi nhuận cho Ngân
hàng. Vì thế làm hài lòng và thu hút khách hàng bằng hình ảnh và cách
giao tiếp của nhân viên là rất quan trọng. Nhìn chung, qua các tiêu chí đánh
giá, qua các kết quả thu được cho thấy mức độ thu hút khách hàng đối với
dịch vụ thẻ của các NHTM, với mức đánh giá chung đạt 3,98 điểm. Tuy đa
phần khách hàng đang sử dụng cảm thấy hài lòng với những phương thức
thu hút khách hàng nhưng các NHTM cần có biện pháp để hoạt động đạt
hiệu quả và thu hút thêm nhiều khách hàng.
- Về tính sành điệu thì đây cũng là một phần nhỏ thu hút khách hàng,
theo khảo sát thì mức độ thu hút chỉ ở mức trung bình là 2,83 điểm. Đa số
khách hàng khi được phỏng vấn thì họ chỉ tập trung vào những nhân tố chủ
yếu và thiết thực như: mức độ hiện đại của ATM, mạng lưới chấp nhận thẻ,

biểu phí phát sinh… chỉ một số ít khách hàng trả lời quan tâm về tính sành
điệu của thẻ là những khách hàng trẻ tuổi (học sinh, sinh viên) nên đây
được xem là dạng khách hàng tiềm năng. Chính vì vậy, trong thời gian tới
để nâng cao sự thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ thẻ thì tính sành điệu
của thẻ cần được quan tâm thêm.
2.5 MỘT SỐ RỦI RO CỦA THẺ.
2.5.1 Thẻ giả
Đây là rủi ro phổ biến trên thế giới hiện nay và cũng là loại rủi ro gây
ra tổn thất lớn nhất đối với các tổ chức thẻ quốc tế, thẻ nội địa và các ngân
hàng phát hành thẻ.
Mặc dù thẻ giả mạo thẻ là hành vi phạm pháp nhưng thế giới loại tội
phạm này ngày càng phổ biến. Từ năm 1998, Đài Loan là một trong số các
vùng đất hứa đầu tiên của bọn lừa gạt thẻ tín dụng. Tỷ lệ lừa đảo bằng thẻ
tín dụng giả ở Châu Á hiện nay bằng phân nữa so với Mỹ, nhưng phát triển
nhanh. Các nạn nhân (các chủ thẻ) nhiều nhất là người Nhật vì thẻ có hạn
mức tín dụng cao và luật chống làm thẻ giả của Nhật lỏng lẻo. Thẻ tín dụng
liên quan đến nạn nhân Nhật đã tăng lên 45% trong ba năm qua. Và ngay
cả tại Hoa Kỳ, nơi có trình độ khoa học kỹ thuật cao và không thiếu
phương tiện hiện đại, người ta đã đưa ra lời cảnh báo thận trọng “Gian lận
thanh toán thẻ tín dụng đang có nguy cơ xói mòn nguồn thu nhập của ngân
hàng thương mại”.
Việc làm thẻ giả rất đa dạng: từ đơn giản là lấy cắp đến phức tạp là làm
thẻ một cách tinh vi.
Trước đây việc làm thẻ giả thường rơi vào trường hợp một số tổ chức
sản xuất thẻ đã phát hành mẫu thẻ không có hình ảnh và chữ ký của chủ
thẻ. Kẻ lợi dụng bằng cách cài đặt chương trình tại một máy vi tính nối
mạng Internet là có thể ghi lại toàn bộ thông tin cần thiết về khách hàng lưu
giữ tại ngân hàng, dữ liệu của một chủ cửa hàng nào đó. Sau khi đã nắm
được tên tuổi, tài khoản, số thẻ, kẻ đó sẽ lập một thẻ giả có hình thức giống
như thẻ thật, chỉ không giả được băng từ tính phía sau mặt thẻ. Loại thẻ giả

này sẽ lợi dụng sơ hở của các cơ sở chấp nhận thẻ khi cà thẻ bằng máy cà
tay mà không để ý kiểm tra lại. Cũng có hình thức làm giả dãy băng từ tính
mặt sau của thẻ với đầy đủ thông số bí mật của thẻ đã được mã hoá. Loại
thẻ giả này có thể qua mặt máy cà thẻ điện tử và khá phổ biến ở các nước
phát triển.
Ở Việt Nam tuy hoạt động thẻ chỉ phát triển trong một vài năm gần
đây nhưng tình trạng gian lận thẻ cũng hết sức đáng báo động. Và nguyên
nhân dẫn đến tình trạng sử dụng và thanh toán thẻ giả tại Việt Nam là:
- Sự gia tăng của lượng khách quốc tế vào Việt Nam trong những
năm qua đã kéo theo sự gia tăng đối tượng sử dụng thẻ giả từ nước ngoài
vào Việt Nam để sử dụng. Những đối tượng này thường sử dụng tại các cửa
hàng bên ngoài ngân hàng vì nơi đó nhân viên không có trình độ chuyên
môn cao do đó họ không phát hiện được. Các lĩnh vực đối tượng sử dụng
thẻ giả thường lui tới là các cửa hàng vàng bạc, máy ATM…
- Một số ngân hàng chưa chú trọng đến việc hướng dẫn đơn vị chấp
nhận thẻ các biện pháp để nhận dạng các trường hợp sử dụng thẻ giả mạo
để thanh toán.
- Các đơn vị chấp nhận thẻ chưa nhận thức được rủi ro có thể xảy ra
khi chấp nhận thanh toán bằng thẻ. Vì vậy, một số trường hợp chưa tuân
theo các thủ tục chấp nhận thanh toán thẻ do ngân hàng hướng dẫn.
- Khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển và được áp dụng vào
mọi lĩnh vực của cuộc sống, trong đó có lĩnh vực thẻ, góp phần đưa phương
thức thanh toán bằng thẻ trở nên hiện đại hơn. Nhưng cùng với những
thành tựu do ngành công nghệ thông tin mang lại là nỗi lo của các tổ chức
thẻ quốc tế và các ngân hàng phát hành thẻ do phải thường xuyên đối phó
với các trường hợp làm thẻ giả của các tổ chức tội phạm có quy mô lớn và
sử dụng các kỹ thuật công nghệ cao, tinh vi để sao chép dữ liệu được lưu
trữ trong thẻ thật, thâm nhập cơ sở dữ liệu của các ngân hàng phát hành thẻ.
2.5.2 Mua hàng qua mạng bằng thẻ
Việt Nam đang phát triển một nền thương mại điện tử, vì vậy việc

mua bán hàng hoá ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, các chủ thẻ có thể gặp
rủi ro khi mua hàng bằng cách này.
Về phương diện người mua hàng trên Internet: khi chọn phương thức
thanh toán bằng thẻ khách hàng được yêu cầu nhập số thẻ của mình, ngày
hết hạn, tên chủ thẻ vào mục thanh toán của website mà không cần nhập số
PIN. Nhưng cũng từ việc này đã làm nảy sinh vấn đề là nếu một người nào
đó sử dụng thông tin trên thẻ của chủ thẻ thật để mua sắm trên mạng thì các
tổ chức bán hàng trên thẻ không thể xem mặt khách hàng của mình là ai.
Trong những trường hợp đó, việc mua bán được tiến hành giữa hai người
bán và mua với số thẻ thật nhưng lại là của một người khác. Do đó, chủ thẻ
phải cẩn thận trong việc sử dụng thẻ của mình nếu không thì sẽ có những
chuyện đáng tiếc xảy ra.
Các tổ chức bán hàng trên mạng Internet không phải tất cả đều là hợp
pháp và làm ăn chân chính. Nếu khách hàng không tìm hiểu kỹ nơi bán
hàng và xem trang Web đó có đáng tin cậy không mà vội vàng cung cấp số
thẻ thì rất có thể khách hàng sẽ bị mất tiền mà không nhận được hàng mình
đặt mua. Trong thực tế đã có rất nhiều trường hợp bị mất tiền một cách oan
uổng như vậy.
2.5.3 Chủ thẻ mất khả năng thanh toán
Bản chất của thẻ tín dụng là chủ thẻ được ngân hàng cấp trước một
hạn mức tín dụng tuỳ theo mức thu nhập, uy tín… của người đó. Do đó rủi
ro sẽ rất cao nếu chủ thẻ mất khả năng thanh toán lại cho ngân hàng phát
hành thẻ.
Ở Việt Nam, việc cấp sử dụng thẻ tín dụng thường được các ngân
hàng phát hành thẻ chia ra làm 2 trường hợp cấp thẻ: ký quỹ đảm bảo thanh
toán và trường hợp tín chấp.
- Trường hợp làm thẻ ký quỹ thanh toán: khi khách hàng đăng ký
làm thẻ tín dụng, khách hàng phải ký quỹ một số tiền mặt hoặc giấy tờ có
giá tương đương hoặc bằng 110% hạn mức sử dụng mà ngân hàng cấp cho
khách hàng. Việc ký quỹ nhằm đảm bảo cho ngân hàng thu lại vốn khi

khách hàng sử dụng thẻ mất khả năng thanh toán.
- Trường hợp làm thẻ tín chấp: căn cứ vào thông tin và các chứng
từ do khách hàng có nhu cầu làm thẻ cung cấp, ngân hàng sẽ xét và cấp
trước một hạn mức sử dụng cho khách hàng. Đối tượng được đa số các
ngân hàng cấp tín chấp là những người có thu nhập cao và ổn định như: bác
sĩ, kỹ sư, giáo viên, trưởng hoặc phó phòng đại diện cộng ty nước ngoài,
ban lãnh đạo công ty, hoặc có thư bảo lãnh của những người có uy tín, hay
có lịch sử tín dụng tốt đối với ngân hàng. Hiện tại thủ tục làm thẻ tín chấp
chưa thông thoáng do đó số lượng phát hành còn ít nên tổn thất về tài chính
đang ở mức thấp, nhưng khi thị trường phát triển mạnh nếu không có
những biện pháp phòng chống rủi ro, chắc chắn tổn thất mà các ngân hàng
phải gánh chịu là không nhỏ.
Trên đây là những rủi ro chung, sau đây là phần thống kê ý kiến khách
hàng về rủi ro khi sử dụng thẻ của các NHTM.
Bảng 2.6: RỦI RO CỦA THẺ
Tiêu chí Số lượng/60 mẫu Tỷ lệ (%)
Mất tiền 0 0
Máy móc bị hỏng 53 88,3
Bị mất cấp thẻ, lộ pin 0 0
Chuyển khoản không hợp

8 13,3
Không có giấy biên lai 21 35,0
Khác 5 8,3
( Nguồn: số liệu điều tra của tác giả, 12/2012)
Nhìn chung, rủi ro thường gặp nhất khi khách hàng sử dụng thẻ nội
địa và thẻ tín dụng quốc tế là máy móc ở các cơ sở chấp nhận thẻ bị hỏng
với tần số xuất hiện là 53/60 chiếm tỷ lệ 88,3%. Tiếp đến là không có giấy
biên lai có tỷ lệ 35%. Chuyển khoản không hợp lý cũng là một rủi ro cho
khách hàng, rủi ro này thường xảy ra khi khách hàng chuyển tiền thanh

toán tiền hàng hóa, dịch vụ thông qua mạng internet. Khi xảy ra rủi ro,
khách hàng nên báo ngay với ngân hàng phát hành để có biện pháp ngăn
chặn. Rủi ro bị mất cấp thì rất ít xảy ra. Bên cạnh đó còn có rủi ro như
không kết nối được đường truyền làm cho việc thanh toán thẻ gặp khó
khăn. Tuy nhiên không phải ai sử dụng thẻ cũng gặp rủi ro, bằng chứng là
có nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ thẻ đã lâu nhưng vẫn hài lòng và
trung thành với dịch vụ thẻ mà mình đã chọn. Do đó, để nâng cao mức độ
hài lòng và tạo sự an tâm cho khách hàng thì ngân hàng nên chú trọng công
tác nâng cấp hệ thống giao dịch điện tử và xử lý nhanh chóng, thỏa đáng
các vấn đề mà khách hàng gặp phải.
Tuy nhiên rủi ro không phải chỉ xảy ra đối với khách hàng, ngay cả
ngân hàng và các đơn vị chấp nhận thẻ cũng gánh chịu những rủi ro do thẻ
gây ra.

Rủi ro tại ngân hàng phát hành
- Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ của mình thanh toán tại các cơ sở chấp
nhận thẻ các thương vụ có trị giá không lớn hơn mức quy định cho cơ sở
chấp nhận thẻ cho đến khi ngân hàng phát hành phát hiện và đăng ký số thẻ
này vào danh sách báo động. Như vậy, khả năng thanh toán quá hạn mức
của thẻ rất cao, ngân hàng phát hành chỉ phát hiện sau khi sự việc đã xảy ra
mà hoàn toàn không thể kiểm soát được. Trường hợp này nếu chủ thẻ mất
khả năng thanh toán thì ngân hàng phát hành phải chịu các rủi ro.
- Một trường hợp khác cũng dẫn đến rủi ro cho các ngân hàng phát
hành là khi chủ thẻ có chủ mưu giao thẻ cho người khác sử dụng tại cơ sở
chấp nhận thẻ mà thông thường không phải quốc gia nơi chủ thẻ cư ngụ.
Khi các thương vụ phát sinh, do cách thức thanh toan chỉ kiểm tra chữ ký
trên hóa đơn và chữ ký trên thẻ giống nhau là hợp lệ, do đó các cơ sở chấp
nhận thẻ rất khó phát hiện người sử dụng thẻ để thanh toán có phải là chủ
thẻ hay không. Khi ngân hàng phát hành đòi tiền, chủ thẻ có đầy đủ lý do
để từ chối thanh toán (căn cứ vào hộ chiếu không có thị thực nhập cảnh

hoặc xác nhận của nơi chủ thẻ làm việc rằng: trong thời gian thực hiện
thương vụ đó chủ thẻ vẫn đang làm việc, không nghỉ phép).Với các bằng
chứng hoàn toàn hợp lý như vậy, ngân hàng phát hành rất khó buộc trách
nhiệm cho phía chủ thẻ. Ngân hàng phát hành cũng không thể khẳng định
phần lỗi thuộc về phía cơ sở chấp nhận thẻ bởi vì việc giao dịch bằng thẻ
cũng không đòi hỏi xuất trình giấy tờ để xác minh chính người sử dụng thẻ
là chủ thẻ hay khi cần xin cấp phép ngân hàng phát hành vẫn đồng ý chuẩn
chi giao dịch đó nếu thẻ còn hạn mức. Do đó, cuối cùng chỉ là qui trách
nhiệm cho cơ sở chấp nhận thẻ trong việc kiểm tra chữ ký, nhưng điều này
lại là một vấn đề không đơn giản. Còn tùy thuộc ở mỗi người, có thể cơ sở
chấp nhận thẻ khẳng định 2 chữ ký rất khớp nhau và chúng ta hầu như
không có ai dám chắc rằng tất cả các chữ ký khi ký đều giống nhau.
- Ngoài ra một số trường hợp chủ thẻ thông báo với ngân hàng phát
hành thẻ đã thất lạc và sau đó sử dụng lại (trong khoảng thời gian chưa kịp
đăng ký vào danh sách báo động) bằng cách ký hóa đơn hơi khác với chữ
ký mẫu hoặc thay chữ ký mẫu bằng một băng chữ ký trắng và ký lại chữ ký
với cách ký khác hoàn toàn so với chữ ký trước, dĩ nhiên là tên cũ và như
vậy chủ thẻ sẽ có cơ sở thoái thác trách nhiêm thanh toán các thương vụ mà
do chính mình thực hiện (với điều kiện cơ sở chấp nhận thẻ không phát
hiện hay thông đồng với chủ thẻ). Trường hợp này sẽ dẫn đến rủi ro cho
các ngân hàng phát hành.

Rủi ro tại ngân hàng thanh toán
Về phía ngân hàng thanh toán cũng có thể phát sinh rủi ro trong hoạt
động thanh toán thẻ tín dụng quốc tế do những sơ suất của mình, tuy nhiên
khả năng rủi ro tại ngân hàng thanh toán là rất thấp do ngân hàng thanh
toán chỉ làm cầu nối chi trả giữa ngân hàng phát hành và cơ sở chấp nhận
thẻ. Có thể xảy ta một số trường hợp sau:
Nếu như ngân hàng thanh toán không cung cấp kịp thời cho các cơ
sở chấp nhận thẻ danh sách thẻ đen mà trong thời gian đó cơ sở chấp nhận

thẻ lại chấp nhận thanh toán thẻ có trong danh sách này thì ngân hàng thanh
toán phải chịu rủi ro trong trường hợp này khi ngân hàng phát hành từ chối
thanh toán.
Hay ngân hàng thanh toán có sai sót trong quá trình cấp phép (cấp
phép thông qua nhân viên trực tiếp cấp phép) đồng ý chuẩn chi với giá trị
thanh toán lớn hơn trị giá cấp phép và như vậy phần lỗi này sẽ do ngân
hàng thanh toán gánh chịu.

Rủi ro tại cơ sở chấp nhận thẻ
Nếu như rủi ro tại các ngân hàng phát hành trong nghiệp vụ phát
hành và thanh toán thẻ tín dụng có thể là do những nguyên nhân khách
quan như thẻ giả, thẻ bị mất trên đường gửi đến chủ thẻ… hay do nguyên
nhân chủ quan về phía chủ thẻ thì tại cơ sở chấp nhận thẻ khả năng rủi ro
cũng rất cao không thua kém gì so với ngân hàng phát hành nhưng điểm
khác biệt cơ bản là lý do để dẫn đến rủi ro tại các cơ sở chấp nhận thẻ
thường do quá xem nhẹ khâu kiểm tra hay đôi khi vì muốn đạt doanh số
bán đã vô tình tiếp tay cho các hành vi lừa đảo chẳng hạn như biết người
cầm thẻ không phải là chủ thẻ vẫn cho thanh toán hay chấp nhận thanh toán
các thẻ có tình trạng sau:

Thẻ hết thời hạn hiệu lực
Cấp phép bị từ chối hoặc ngân hàng phát hành yêu cầu giữ thẻ nhưng
vì để tại uy tín cho cơ sở chấp nhận thẻ và khuyến khích khách hàng sử
dụng thẻ hay thậm chí một số cơ sở chấp nhận thẻ có quan điểm cho rằng
chỉ chịu rủi ro phần vượt quá hạn mức mà không cấp phép nên đã đồng ý
giao dịch đó. Như vậy cơ sở chấp nhận thẻ đã tư tạo ra rủi ro cho mình.
Cấp phép bị từ chối cố tình tách thành nhiều thương vụ có ngày
thanh toán khác nhau. Trường hợp này khi ngân hàng phát hành yêu cầu

×