Tải bản đầy đủ (.ppt) (44 trang)

Chuyên đề đổi mới kiểm tra đánh gia môn lịch sử THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.95 KB, 44 trang )



BIÊN SOẠN ĐỀ KIỂM TRA
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
HỌC SINH MÔN LỊCH SỬ
1.Về khái niệm kiểm tra, đánh giá
Đánh giá, trong giáo dục là một quá trình tiến hành có hệ thống để xác định
mức độ đạt được của học sinh về các mục tiêu giáo dục. Nó có thể bao gồm sự mô tả
về mặt định tính hay định lượng những hành vi của người học cùng với những nhận
xét đánh giá những hành vi này đối chiếu với sự mong muốn đạt được về mặt hành vi
đó.
Một khái niệm khác cho rằng đánh giá trong giáo dục là quá trình thu thập và
lý giải kịp thời có hệ thống thông tin về hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của
chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu dạy học, mục tiêu đào tạo làm
cơ sở cho những chủ trương biện pháp và hành động giáo dục tiếp theo.
Như vậy, kiểm tra, đánh giá (KTĐG) kết quả học tập lịch sử ở trường phổ
thông là một quá trình tiến hành có hệ thống, liên tục và thường xuyên, theo dõi thu
thập số liệu, chứng cứ nhằm đánh giá kết quả học tập, củng cố, mở rộng, tăng cường
hoạt động học tập của học sinh. Đồng thời, qua đó xác định mức độ các mục tiêu dạy
học đạt được, làm cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên, cho nhà
trường và cho bản thân học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường
phổ thông. KTĐG kết quả học tập lịch sử ở trường phổ thông nhằm đo khả năng biết,
hiểu và vận dụng kiến thức của học sinh về sự phát triển của lịch sử thế giới và lịch
sử dân tộc, qua đó rút ra điểm mạnh, điểm yếu của nội dung, chương trình, SGK để
có những bổ sung, điều chỉnh kịp thời về cách dạy và cách học, giúp bộ môn lịch sử
thực hiện tốt vai trò giáo dục của mình.

Như vậy, kiểm tra và đánh giá là hai công việc có
nội dung khác nhau, nhưng có mối liên quan mật thiết với
nhau, những thông tin thu được đối chiếu với những mục
tiêu đề ra nhằm đề xuất những giải pháp phù hợp để điều


chỉnh phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm
nâng cao chất lượng dạy học. Trong quá trình dạy học,
kiểm tra được xem là phương tiện và hình thức của đánh
giá. Thông qua kiểm tra cung cấp những dữ liệu, những
thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá chất lượng
dạy học. KTĐG hướng tới thực hiện mục tiêu dạy học,
mục tiêu đào tạo. Cho nên, xét ở một mức độ nào đó
KTĐG có điểm chung: kiểm tra gắn liền với đánh giá,
đánh giá được hiểu theo nghĩa bao gồm cả kiểm tra.

2. Mục đích, ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá
KTĐG có vị trí quan trọng để củng cố, phát triển kiến thức của học sinh
trong học tập nói chung, học tập lịch sử nói riêng. Nó là một khâu không thể tách
rời diễn ra trong suốt quá trình dạy học nhằm đánh giá thường xuyên năng lực học
tập của học sinh hướng tới việc hướng dẫn học sinh học tập, giáo viên giảng dạy
và giám sát, cải tiến chất lượng giáo dục trong nhà trường. Từ kết quả KTĐG,
những kết luận chính xác về thực trạng dạy học đã được rút ra để điều chỉnh hoạt
động dạy học của thầy - trò. Vì vậy, KTĐG có hệ thống và thường xuyên sẽ cung
cấp kịp thời những thông tin cần thiết giúp học sinh tự điều chỉnh hoạt động học,
giúp giáo viên có những thông tin phản hồi để điều chỉnh và hoàn thiện quá trình
dạy, đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học từ đó nâng cao chất
lượng dạy học của nhà trường phổ thông. KTĐG có tính mục đích, có ý nghĩa đối
với cả giáo viên và học sinh.
a.Mục đích của kiểm tra, đánh giá:
*Thứ nhất: Định hướng và thúc đẩy quá trình học tập:
-
Qua KTĐG thông báo cho từng học sinh biết được trình độ tiếp thu kiến thức
và những kỹ năng môn học của mình so với yêu cầu của chương trình cũng như
sự tiến bộ của họ trong quá trình học tập, nhằm thúc đẩy tính tích cực, hứng thú
học tập.

- KTĐG giúp học sinh phát hiện những nguyên nhân sai sót cần phải bổ sung,
điều chỉnh trong hoạt động học.

*Thứ hai: KTĐG để phân loại, xếp loại học sinh:
- Công khai hoá các nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi học
sinh và mỗi tập thể lớp, tạo cơ hội để các em phát triển kỹ năng tự đánh giá để
nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích, động viên các em học tập, có kế
hoạch bồi dưỡng kịp thời. Đồng thời, qua đó giáo dục học sinh nâng cao tinh
thần trách nhiệm trong học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, có thêm niềm tin ở
sức lực, khả năng của mình để từ đó có nhu cầu tự KTĐG thường xuyên.
- Giúp giáo viên có cơ sở nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu của mình, tự
điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn.
Như vậy, KTĐG là nhiệm vụ cần thiết, phức tạp nhất và tất yếu không
thể thiếu được của quá trình dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng. Nó
chính là động lực thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động dạy - học. KTĐG không
những là một nhân tố dạy học mà còn là một nhân tố kích thích học sinh học tập
vươn lên, hai nhân tố này có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau. Việc đánh giá
càng chính xác giúp giáo viên hoàn thiện, cải tiến phương pháp dạy học ngày
càng có hiệu quả. Ngược lại, nếu mục đích dạy học của KTĐG bị xem nhẹ sẽ
dẫn tới hậu quả buông lỏng quá trình dạy học, không động viên, khuyến khích,
thúc đẩy học sinh tự vươn lên trong quá trình học tập.

b.Ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá:
* Đối với học sinh:
KTĐG là thước đo kết quả học tập của học sinh trong từng môn học cụ thể.
Việc KTĐG thường xuyên (bao gồm KTĐG của giáo viên và hoạt động tự KTĐG của
học sinh) tạo nên mối “liên hệ ngư ợc” giúp các em tự điều chỉnh hoạt động học tập
của mình:
-Về kiến thức: KTĐG giúp học sinh nhận thức đúng mức độ kiến thức đã

đạt được so với yêu cầu của chương trình. Nó giúp các em phát hiện những thiếu
sót, “lỗ hổng” trong kiến thức, kỹ năng để kịp thời sửa chữa, thay đổi, điều chỉnh
phương pháp học tập đạt kết quả cao hơn.
-Về giáo dục: KTĐG được thực hiện nghiêm túc đúng qui trình sẽ có tác
dụng giáo dục rất lớn góp phần hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp: ý chí
tự giác vươn lên trong học tập, củng cố lòng tự tin vào khả năng của mình, nâng
cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan, tự mãn, thể hiện lòng trung thực, tinh
thần tập thể…
-Về kĩ năng: Thông qua KTĐG, học sinh có điều kiện rèn luyện các kĩ năng
tư duy trí tuệ từ đơn giản đến phức tạp: biết tái hiện sự kiện, hiện tượng lịch sử,
hiểu sâu sắc các sự kiện, hiện tượng lịch sử, qua đó vận dụng khả năng thực hành,
phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, rút ra qui luật và bài học lịch sử
… KTĐG được thực hiện tốt sẽ giúp các em phát triển trí thông minh, biết vận dụng
linh hoạt các kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới.

* Đối với giáo viên:
KTĐG thường xuyên, nghiêm túc, cung cấp cho
giáo viên những thông tin tương đối chính xác và toàn
diện về mức độ hiểu và nắm kiến thức của học sinh
đạt hay chưa đạt so với mục tiêu môn học đề ra, nắm
được mức độ tiến bộ hay sút kém của từng học sinh
để có những biện pháp khuyến khích, động viên hay
giúp đỡ, bồi dưỡng kịp thời. Từ những “mối liên hệ
ngược” này giáo viên điều chỉnh các hoạt động dạy
học, tìm ra những biện pháp cải tiến, nâng cao chất
lượng dạy học. Thông qua KTĐG giúp giáo viên thẩm
định trên thực tế hiệu quả những cải tiến, đổi mới nội
dung và phương pháp dạy học của mình.

*Về thái độ, tình cảm: Bộ môn lịch sử ở trường phổ

thông rất có ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ, rèn luyện
những phẩm chất, nhân cách cao đẹp của con người mới
từ những bài học kinh nghiệm quí báu của cha ông trong
công cuộc dựng nước và giữ nước.
Việc đổi mới nội dung, chương trình, SGK cấp
THCS, việc tiến hành phân ban cấp THPT mà chúng ta
đang tiến hành hiện nay vừa tạo điều kiện, vừa đặt ra
những đòi hỏi cấp thiết cần đổi phương pháp dạy học nhằm
đào tạo những con người năng động, sáng tạo, có khả năng
thích ứng với đời sống xã hội, hoà nhập với sự phát triển
chung của cộng đồng. Chính điều này đã đặt ra cho KTĐG
bộ môn lịch sử không chỉ dừng lại ở yêu cầu biết tái hiện
kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học mà cần phải khuyến
khích trí thông minh, sáng tạo, khả năng tư duy của học
sinh.

b.Ý nghĩa của kiểm tra, đánh giá:
* Đối với học sinh:
KTĐG là thước đo kết quả học tập của học sinh trong từng môn học cụ thể.
Việc KTĐG thường xuyên (bao gồm KTĐG của giáo viên và hoạt động tự KTĐG của
học sinh) tạo nên mối “liên hệ ngư ợc” giúp các em tự điều chỉnh hoạt động học tập
của mình:
-Về kiến thức: KTĐG giúp học sinh nhận thức đúng mức độ kiến thức đã
đạt được so với yêu cầu của chương trình. Nó giúp các em phát hiện những thiếu
sót, “lỗ hổng” trong kiến thức, kỹ năng để kịp thời sửa chữa, thay đổi, điều chỉnh
phương pháp học tập đạt kết quả cao hơn.
-Về giáo dục: KTĐG được thực hiện nghiêm túc đúng qui trình sẽ có tác
dụng giáo dục rất lớn góp phần hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp: ý chí
tự giác vươn lên trong học tập, củng cố lòng tự tin vào khả năng của mình, nâng
cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan, tự mãn, thể hiện lòng trung thực, tinh

thần tập thể…
-Về kĩ năng: Thông qua KTĐG, học sinh có điều kiện rèn luyện các kĩ năng
tư duy trí tuệ từ đơn giản đến phức tạp: biết tái hiện sự kiện, hiện tượng lịch sử,
hiểu sâu sắc các sự kiện, hiện tượng lịch sử, qua đó vận dụng khả năng thực hành,
phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, rút ra qui luật và bài học lịch sử
… KTĐG được thực hiện tốt sẽ giúp các em phát triển trí thông minh, biết vận dụng
linh hoạt các kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới.

3. Yêu cầu của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả KTĐG cần đảm bảo thực
hiện các yêu cầu sau:
*Một là: KTĐG kết quả học tập của học sinh phải bảo đảm độ
tin cậy, tính giá trị, tính toàn diện về nội dung và các loại hình KTĐG .
- Độ tin cậy là yêu cầu quan trọng đối với bài kiểm tra. Đây là
thước đo năng lực sư phạm của người thầy, đồng thời phản ánh đúng
trình độ, năng lực của người học. Bài kiểm tra đạt được độ tin cậy với
điều kiện sau:
+ Ít nhất trong hai lần kiểm tra khác nhau, cùng một học sinh phải
đạt số điểm xấp xỉ hoặc bằng nhau nếu bài kiểm tra có cùng một nội
dung và mức độ khó tương đương nhau.
+ Nhiều giáo viên chấm cùng một bài đều cho điểm như nhau
hoặc gần như nhau.
+ Kết quả bài kiểm tra phản ánh đúng trình độ, năng lực của
người học.
Độ tin cậy của bài KTĐG bị tác động bởi nhiều yếu tố, trong
đó yếu tố quyết định là ra đề kiểm tra. Nếu đề kiểm tra quá dễ hoặc
quá khó sẽ không xác định được sự phân hoá trình độ học sinh. Vì
vậy, để một bài kiểm tra đạt được độ tin cậy, vai trò quyết định là ở
khâu ra đề của giáo viên.


Khi ra đề giáo viên cần:
Giảm các yếu tố ngẫu nhiên, may rủi đến mức tối thiểu.
Diễn đạt đề bài rõ ràng để học sinh hiểu đúng nội dung, yêu cầu
của đề.
Ra nhiều câu hỏi, bao quát tới mức tối đa các vấn đề
cần kiểm tra.
Câu hỏi kiểm tra đòi hỏi học sinh vừa phải ghi nhớ, vừa
phải hiểu, vừa phải biết vận dụng vào việc tiếp thu kiến thức
mới vào cuộc sống.
Nội dung kiểm tra phải giảm đến mức thấp nhất sự gian
lận trong thi cử (đề thi phải đảm bảo học sinh “biết”, “hiểu”, “vận
dụng” thông minh) và cách thi (có thể sử dụng hay không sử
dụng tài liệu). Đồng thời giám sát chặt chẽ việc thi.
Chuẩn bị tốt đáp án, thang điểm để một người chấm
trong nhiều lần hoặc nhiều người chấm đều cho kết quả tương
đương.

*Hai là: Kiểm tra, đánh giá phải bảo đảm kết hợp giữa sự đánh giá của
giáo viên với sự tự đánh giá của học sinh.
Yêu cầu và đòi hỏi của KTĐG đặt ra là phát huy tính chủ động tích cực
của học sinh trong việc xác định mục đích, động cơ, thái độ và tâm lý trong học
tập, biết tự đánh giá kết quả học tập của mình một cách chủ động, không quá lo
sợ kiểm tra dẫn tới học tập đối phó và gian lận trong thi cử
KTĐG đảm bảo sự kết hợp giữa đánh giá của giáo viên với tự đánh giá
của học sinh là đòi hỏi cấp thiết của lý luận dạy học hiện đại nhằm tích cực hoá
ngư ời học trong quá trình tiếp nhận tri thức. Tự đánh giá được coi như một hoạt
động học tập của học sinh. Hoạt động tự KTĐG của học sinh chủ yếu được thực
hiện sau mỗi bài học, mỗi phần, mỗi chương học thông qua giải các bài tập, qua
việc nắm kiến thức lịch sử của mỗi học sinh.

Cách thức tiến hành hoạt động tự đánh giá của học sinh do giáo viên đề
xuất. Muốn tổ chức cho các em tự KTĐG , giáo viên cần chuẩn bị nội dung đánh
giá, hình thức và tiêu chuẩn đánh giá. Để học sinh tự đánh giá kết quả học tập
của mình, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đánh giá qua nhóm (đánh giá
chéo nhau trong một nhóm), hoặc để học sinh tự đánh giá năng lực học tập của
mình trên cơ sở định hư ớng của giáo viên. Hoạt động tự đánh giá này đòi hỏi học
sinh phải tự nêu nhận xét về kết quả học tập của bản thân hay nhận xét về kết
quả học tập của bạn. Hình thức tự đánh giá có thể tiến hành bằng phát biểu ý kiến
cá nhân, bình chọn bằng phiếu kín hoặc cho điểm độc lập. Để đánh giá đúng,
chính xác giáo viên cần gợi ý để học sinh tự xác lập các tiêu chuẩn đánh giá cho
phù hợp với từng kiến thức hoặc kỹ năng cần đánh giá.

*Ba là: Các phương pháp kiểm tra, đánh giá càng
đơn giản, tốn ít thời gian, sức lực và ít chi phí, phù hợp với
hoàn cảnh, điều kiện cụ thể càng tốt.
Đơn giản không có nghĩa là sơ sài, bài kiểm tra đơn
điệu và buồn tẻ với câu hỏi của giáo viên và trả lời của học
sinh nhằm tóm tắt những kiến thức có sẵn trong SGK và lời
thầy giảng trong vở ghi.
Bài kiểm tra đòi hỏi học sinh khả năng hiểu sâu sắc các
kiến thức lịch sử và biết vận dụng những kiến thức đã học
vào thực tiễn.

4.Nội dung kiểm tra, đánh giá:
Chương trình bộ môn lịch sử ở trường phổ thông
được xây dựng trên cơ sở đồng tâm. Ở cấp THCS học sinh
được trang bị những kiến thức cơ bản, có hệ thống về sự
phát triển của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc từ nguyên
thuỷ cho đến nay. Lên cấp THPT, học sinh tiếp tục được
trang bị những kiến thức cơ bản, có hệ thống về sự phát

triển của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc từ nguyên thuỷ
cho đến nay nhưng ở mức độ nhận thức cao hơn, sâu hơn.
Khi tiến hành KTĐG, giáo viên bộ môn phải căn cứ
vào nội dung, chương trình của môn học, cấp học để đánh
giá toàn diện học sinh trên cả ba mặt kiến thức, kỹ năng và
định hướng thái độ.

*Về mặt kiến thức: Đánh giá trình độ, khả năng tiếp nhận kiến thức lịch
sử của học sinh ở trường phổ thông hiện nay, về cơ bản chúng ta đánh
giá khả năng Biết (ghi nhớ, thuộc sự kiện), Hiểu (bản chất sự kiện) và
Vận dụng kiến thức trong quá trình học tập, trong thực hành. Đây cũng
là 3 cấp độ trong thang đánh giá thường được sử dụng ở nước ta và
được vận dụng cụ thể vào từng môn học, từng cấp học, lớp học.
Đối với bộ môn lịch sử ở trường THCS đánh giá học sinh ở 3 cấp độ
Nhận biết, Thông hiểu, Vận dụng. Cấp THPT, việc đánh giá kết quả học
tập của học sinh ở 3 cấp độ trên nhưng ở mức cao hơn. Tuy nhiên,
thực tế các đề kiểm tra hiện nay các đề kiểm tra cho thấy khó có sự
tách bạch một cách tuyệt đối các cấp độ đánh giá trong một đề kiểm tra,
mà chúng thường đan xen lẫn nhau, mức độ trước có thể là cơ sở cho
mức độ sau, chẳng hạn như kiến thức nhận biết và thông hiểu, vận
dụng. Thậm chí, trong một câu hỏi kiểm tra cũng có thể bao gồm 2 đến
3 cấp độ khác nhau. Vì vậy, kết quả học tập của học sinh được đánh
giá theo các cấp độ không có nghĩa là trong mỗi đề kiểm tra phải kiểm
tra đủ các cấp độ đó, vì nếu có muốn như vậy cũng khó có thể thực
hiện được.

*Về thái độ, tình cảm: Bộ môn lịch sử ở trường phổ
thông rất có ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ, rèn luyện
những phẩm chất, nhân cách cao đẹp của con người mới
từ những bài học kinh nghiệm quí báu của cha ông trong

công cuộc dựng nước và giữ nước.
Việc đổi mới nội dung, chương trình, SGK cấp
THCS, việc tiến hành phân ban cấp THPT mà chúng ta
đang tiến hành hiện nay vừa tạo điều kiện, vừa đặt ra
những đòi hỏi cấp thiết cần đổi phương pháp dạy học nhằm
đào tạo những con người năng động, sáng tạo, có khả năng
thích ứng với đời sống xã hội, hoà nhập với sự phát triển
chung của cộng đồng. Chính điều này đã đặt ra cho KTĐG
bộ môn lịch sử không chỉ dừng lại ở yêu cầu biết tái hiện
kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học mà cần phải khuyến
khích trí thông minh, sáng tạo, khả năng tư duy của học
sinh.

*Về kỹ năng: KTĐG kỹ năng của học sinh đối với
bộ môn lịch sử phải căn cứ vào đặc trưng của môn học.
Lịch sử đã diễn ra, không lặp lại. Kiến thức lịch sử ở
trường phổ thông được chuyển tải qua kênh chữ và
kênh hình (bản đồ, biểu đồ, tranh ảnh.). Cho nên, KTĐG
kỹ năng của học sinh trong dạy học lịch sử cũng giống
như các bộ môn khoa học xã hội khác nhằm rèn luyện
tư duy biện chứng trong nhận thức và hành động, biết
phân tích, đánh giá, liên hệ. Đồng thời, cần tập trung
vào các kỹ năng bộ môn như: khả năng trình bày nói và
viết, đặc biệt là kỹ năng thực hành, vận dụng:
- Sử dụng bản đồ, lược đồ.
- Quan sát, nhận xét tranh ảnh, bản đồ.
- Kỹ năng so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá,
vận dụng kiến thức.
- Kỹ năng thu thập, xử lý, viết báo cáo và trình bày
các vấn đề lịch sử .


5. Phương pháp kiểm tra, đánh giá:
*Đối với câu hỏi tự luận: Đòi hỏi học sinh phải vận dụng vốn kiến
thức, kinh nghiệm học tập để tự trình bày ý kiến về vấn đề mà câu hỏi nêu ra.
-Ưu điểm:
+ Việc ra đề Tự luận, thường không khó, dễ thực hiện, tốn ít thời
gian, dựa vào kinh nghiệm chủ yếu của giáo viên.
+ Các câu hỏi tự luận cho phép đánh giá được tối đa kỹ năng diễn
đạt, khả năng suy luận lôgíc của học sinh để trả lời đầy đủ các dạng câu hỏi
“Tại sao?” và “như thế nào?”. Hay nói cách khác, câu hỏi tự luận cho phép
đánh giá năng lực sáng tạo của học sinh ở mức độ cao.
-Hạn chế:
+Câu hỏi kiểm tra tự luận thường kích thích thói quen học tủ của học
sinh.
+Chấm bài tốn nhiều thời gian và công sức đồng thời kết quả đánh
giá thường mang nhiều yếu tố chủ quan của người chấm.
Tuy nhiên, nếu lựa chọn phương pháp kiểm tra kết hợp trắc nghiệm
với tự luận thì câu hỏi dạng tự luận nên chọn câu tự luận ngắn, vì với loại câu
này mỗi bài kiểm tra có nhiều câu hỏi hơn so với bài kiểm tra có câu hỏi tự
luận truyền thống. Câu tự luận ngắn đề cập tới một nội dung hạn chế, câu trả
lời là một đoạn ngắn, tạo điều kiện cho việc chấm điểm nhanh chóng, chính
xác, có độ tin cậy cao hơn loại câu hỏi tự luận truyền thống.

*Đối với câu hỏi trắc nghiệm khách quan: Câu hỏi trắc nghiệm khách
quan trong dạy học lịch sử gồm nhiều loại: Trắc nghiệm đúng - sai, trắc nghiệm
nhiều lựa chọn, trắc nghiệm điền khuyết, trắc nghiệm đối chiếu - cặp đôi, thực
hành (vẽ bản đồ, biểu đồ). Câu hỏi kiểm tra trắc nghiệm cho phép bao kín kiến
thức của chương trình, trong đó mỗi câu chỉ nêu ra một vấn đề cùng những thông
tin cần thiết để học sinh lựa chọn câu trả lời ngắn, song lại có độ tin cậy cao đòi
hỏi học sinh phải tích luỹ được nhiều kiến thức.

-Ưu điểm:
+Độ phổ kiến thức cần kiểm tra rộng.
+Ít tốn công chấm bài (có thể sử dụng các phần mềm chuyên dụng như
QUEST, TEST, SPS) để chấm.
+Tính khách quan của kết quả chấm bài được đảm bảo, ít bị ảnh hưởng
bởi tính chủ quan của người chấm.
-Hạn chế:
+Tốn thời gian và công sức ra đề.
+Không đánh giá được một số kỹ năng của học sinh, đặc biệt là khả
năng sáng tạo trong trình bày, lập luận và phát biểu ý kiến của mình.
Khi sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cần thống nhất đưa về một
dạng câu hỏi nhất định để tạo sự thuận lợi cho quá trình chấm bài. Thông thường
câu hỏi trắc nghiệm khách quan được sử dụng phổ biến là loại câu hỏi nhiều lựa
chọn có 4 lựa chọn.

Như vậy, mỗi loại câu hỏi đều có những ưu điểm và hạn chế,
không nên tuyệt đối hoá một loại câu hỏi nào mà cần kết hợp sử
dụng các loại câu hỏi cho phù hợp với đối tượng học sinh. Tuy
nhiên, khi xây dựng hệ thống câu hỏi cần chú ý:
-Xác định mục đích của câu hỏi: Nhằm KTĐG năng lực học tập,
kĩ năng thực hành lịch sử của học sinh qua một tiết học hay một phần
học cụ thể.
-Xác định yêu cầu mức độ các câu hỏi: Câu hỏi phải rõ ràng, phải
thể hiện sự phân hoá trình độ học tập của học sinh. Mỗi câu hỏi trong
một đề kiểm tra đều nhằm phân loại năng lực học tập của học sinh
theo các mức giỏi - khá - trung bình- yếu kém.
+Câu hỏi dễ dành cho học sinh có năng lực học yếu.
+Câu hỏi trung bình để dành cho học sinh có năng lực học trung
bình.
+Câu hỏi khó dành cho học sinh có lực học khá giỏi.

Như vậy, phương pháp KTĐG đóng vai trò quan trọng đối với
việc đổi mới hoạt động KTĐG, tác động trở lại đổi mới phương pháp
dạy học, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học. Giúp lựa chọn đúng
những hình thức và phương pháp KTĐG vừa đảm bảo phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh trong trong học tập vừa đánh giá
đúng chất lượng học tập bộ môn.

6. MÔ TẢ VỀ CẤP ĐỘ TƯ DUY VẬN DỤNG TRONG MÔN LỊCH SỬ
Cấp độ tư duy
Mô tả
Nhận biết
Học sinh nhớ được (bản chất) những khái niệm cơ bản của chủ
đề và có thể nêu hoặc nhận ra các khái niệm khi được yêu cầu.
Đây là bậc thấp nhất của nhận thức, khi học sinh kể tên, nêu lại,
nhớ lại một sự kiện, hiện tượng.
Thí dụ: Học sinh nhớ được ngày, tháng của một sự kiện lịch sử,
tên một nhân vật lịch sử cụ thể.
Thông hiểu Học sinh hiểu các khái niệm cơ bản và có thể sử dụng khi
câu hỏi được đặt ra gần với các ví dụ học sinh đã được
học trên lớp.
Ở bậc nhận thức này, học sinh có thể giải thích được một
sự kiện, hiện tượng lịch sử, tóm tắt được diễn biến một
sự kiện, nghe và trả lời được câu hỏi có liên quan.
Thí dụ: Học sinh có thể giải thích được sự kiện lịch sử
diễn ra như thế nào.

Vận
dụn
g ở
cấp

độ
thấp
Học sinh vượt qua cấp độ hiểu đơn thuần và có thể sử dụng các
khái niệm của chủ đề trong các tình huống tương tự nhưng
không hoàn toàn giống như tình huống đã gặp trên lớp.
Ở bậc nhận thức này, học sinh có thể sử dụng được kiến thức để
giải quyết 1 tình huống cụ thể.
Thí dụ: áp dụng một sự kiện lịch sử này để lý giải một sự kiện khác.
Vận
dụn
g ở
cấp
độ
cao
Học sinh có khả năng sử dụng các khái niệm cơ bản để giải quyết
một vấn đề mới hoặc không quen thuộc chưa từng được học
hoặc trải nghiệm trước đây, nhưng có thể giải quyết bằng các kỹ
năng và kiến thức đã được dạy ở mức độ tương đương. Các vấn
đề này tương tự như các tình huống thực tế học sinh sẽ gặp
ngoài môi trường lớp học.
Ở bậc này học sinh phải xác định được những thành tố trong 1 tổng
thể và mối quan hệ qua lại giữa chúng; phát biểu ý kiến cá nhân
và bảo vệ được ý kiến đó về 1 sự kiện, hiện tượng hay nhân vật
lịch sử nào đó.
Thí dụ: tìm hiểu một sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử, học sinh phải
phân biệt, phân tích được các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử khác
nhau, v.v. Hoặc học sinh đánh giá được một sự kiện, nhân vật lịch sử.

I- Những vấn đề và nguyên tắc cơ bản
của quá trình Đổi mới Kiểm tra - đánh

giá trong dạy học Lịch sử ở tr ờng THCS

*Thứ hai: KTĐG để phân loại, xếp loại học sinh:
- Công khai hoá các nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi học
sinh và mỗi tập thể lớp, tạo cơ hội để các em phát triển kỹ năng tự đánh giá để
nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích, động viên các em học tập, có kế
hoạch bồi dưỡng kịp thời. Đồng thời, qua đó giáo dục học sinh nâng cao tinh
thần trách nhiệm trong học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, có thêm niềm tin ở
sức lực, khả năng của mình để từ đó có nhu cầu tự KTĐG thường xuyên.
- Giúp giáo viên có cơ sở nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu của mình, tự
điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động dạy học, không ngừng nâng cao chất lượng
dạy học bộ môn.
Như vậy, KTĐG là nhiệm vụ cần thiết, phức tạp nhất và tất yếu không
thể thiếu được của quá trình dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng. Nó
chính là động lực thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động dạy - học. KTĐG không
những là một nhân tố dạy học mà còn là một nhân tố kích thích học sinh học tập
vươn lên, hai nhân tố này có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau. Việc đánh giá
càng chính xác giúp giáo viên hoàn thiện, cải tiến phương pháp dạy học ngày
càng có hiệu quả. Ngược lại, nếu mục đích dạy học của KTĐG bị xem nhẹ sẽ
dẫn tới hậu quả buông lỏng quá trình dạy học, không động viên, khuyến khích,
thúc đẩy học sinh tự vươn lên trong quá trình học tập.
II- H ớng dẫn thực hiện
Quy trình biên soạn đề Kiểm tra
1- Các b ớc biên soạn đề kiểm tra.
Bớc1-Xácđịnhmụctiêuvànộidungkiểmtra.
-
KT- ĐG HS sau khi học xong một chủ đề, một ch ơng, một
phần, một học kỳ hay cả năm? Kiểm tra để lấy điểm, để xem
xét, đánh giá hay để định tính, định l ợng HS ?
-

KT - ĐG mức độ cần đạt và đạt đ ợc của HS theo chuẩn KT-
KN trên 3 mặt:
1- Kiến thức.
2- Kỹ năng.
3- Tình cảm, thái độ.

×