Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

ĐỀ ÁN ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.41 KB, 80 trang )

1
CHÍNH PHỦ
ĐỀ ÁN
ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
MỞ ĐẦU 4
Phần thứ nhất: MỤC TIÊU ĐỀ ÁN 5
Phần thứ hai: PHẠM VI ĐỀ ÁN 6
Phần thứ ba: NỘI DUNG ĐỀ ÁN 6
I. CƠ SỞ XÁC ĐỊNH NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG ĐỔI MỚI
CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA
6
1. Kết quả tổng kết đánh giá việc thực hiện đổi mới chương trình
theo Nghị quyết 40 và những bất cập của chương trình hiện hành
so với Nghị quyết 29
6
2. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng, phát triển và quản lý phát triển
chương trình; biên soạn và sử dụng sách giáo khoa, tài liệu dạy học
16
II. NGUYÊN TẮC ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA 18
III. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA 19
1. Đổi mới mục tiêu cơ bản của giáo dục từ tập trung vào trang bị
kiến thức, kỹ năng sang phát triển phẩm chất và năng lực người
học, đảm bảo hài hoà giữa “dạy chữ”, “dạy người” và định hướng
nghề nghiệp
19
2. Nội dung chương trình phải đảm bảo chuẩn hoá, hiện đại hoá, hội
nhập quốc tế; đảm bảo tính hoàn chỉnh, linh hoạt, liên thông


thống nhất trong và giữa các cấp học; tích hợp và phân hoá hợp
lý, có hiệu quả
19
3. Đổi mới phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức giáo
dục nhằm phát triển phẩm chất và năng lực học sinh
21
4. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá
chất lượng giáo dục theo định hướng phát triển phẩm chất và năng
lực học sinh
21
5. Quản lý quá trình xây dựng và thực hiện chương trình đảm bảo
tính khả thi, linh hoạt, phù hợp địa phương và đối tượng học sinh
22
6. Thực hiện chủ trương một chương trình, nhiều sách giáo khoa 23
IV. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP 23
1. Chuẩn bị điều kiện để xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa
mới
23
2. Xây dựng chương trình mới 25
3. Biên soạn sách giáo khoa mới 27
2
NỘI DUNG TRANG
4. Thực nghiệm chương trình và sách giáo khoa 28
5. Biên soạn tài liệu hướng dẫn dạy học theo chương trình mới 28
6. Đảm bảo các điều kiện thực hiện chương trình mới 29
7. Phương thức triển khai áp dụng đại trà chương trình mới 31
8. Tuyên truyền về đổi mới chương trình và sách giáo khoa 31
V. KHÁI TOÁN KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN 31
1. Nguyên tắc xây dựng dự toán 31
2. Nội dung dự toán 31

3. Dự toán kinh phí 32
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN 33
1. Lộ trình thực hiện 33
2. Trách nhiệm của các bộ, ngành và các cơ quan 34
Phụ lục 1: Dự thảo NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA CHƯƠNG TRÌNH
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỔNG THỂ
37
Phụ lục 2: Dự thảo CHUẨN ĐẦU RA VỀ PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC
CHUNG CỦA CÁC CẤP HỌC
58
Phụ lục 3: Dự thảo NỘI DUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO 72
Phụ lục 4: DANH MỤC CÁC ĐỀ ÁN TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH
HÀNH ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT 29 (BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ QUYẾT 44)
75
Phụ lục 5: DỰ TOÁN KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN 78
3
MỞ ĐẦU
Chương trình giáo dục phổ thông (sau đây viết tắt là chương trình) và
sách giáo khoa hiện hành được xây dựng, biên soạn theo Nghị quyết số
40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khoá X về đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông (sau đây viết tắt là Nghị quyết 40) và đã được
thực hiện trên phạm vi toàn quốc từ năm học 2002 - 2003 đến nay (năm 2014).
Chương trình, sách giáo khoa hiện hành có một bước tiến rõ rệt so với
chương trình, sách giáo khoa trước đó; góp phần từng bước đổi mới sự nghiệp
giáo dục; đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn vừa qua.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, chương trình, sách giáo khoa hiện
hành vẫn còn những hạn chế và bộc lộ nhiều bất cập trước những đòi hỏi mới của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học - công nghệ và xu thế đổi mới nhanh chóng chương trình giáo dục phổ thông

trên thế giới.
Đại hội Đảng lần thứ XI đã xác định một trong các định hướng phát triển
kinh tế - xã hội là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và
phát triển nhanh giáo dục và đào tạo, trong đó nhấn mạnh việc “Đổi mới mạnh
mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp, bậc học.
Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện chương trình giáo dục phổ
thông mới”
(1)
. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị
lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 29) đã xác định: “Hoàn thành việc xây dựng
chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015”. Nghị quyết số
75/2014/QH13 ngày 24 tháng 6 năm 2014 của Quốc hội về chất vấn và trả lời
chất vấn tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XIII (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 75)
yêu cầu: “Tiếp thu, hoàn chỉnh Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thông trình Quốc hội xem xét, quyết định vào kỳ họp thứ 8 để triển
khai tổ chức thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2020 và những năm tiếp theo”.
Thực hiện các nghị quyết của Đảng và Quốc hội nêu trên, Chính phủ đã
giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Đề án Đổi mới chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông.
Đề án Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông (sau đây
gọi tắt là Đề án) bao gồm các phần, mục sau:
Phần thứ nhất: Mục tiêu Đề án
Phần thứ hai: Phạm vi Đề án
1 ()
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc gia,
tr.131.
4

Phần thứ ba: Nội dung Đề án
I. Cơ sở xác định nguyên tắc và nội dung đổi mới chương trình, sách giáo khoa
II. Nguyên tắc đổi mới chương trình, sách giáo khoa
III. Nội dung đổi mới chương trình, sách giáo khoa
IV. Nhiệm vụ, giải pháp
V. Khái toán kinh phí thực hiện Đề án
VI. Tổ chức thực hiện Đề án
Kèm theo Đề án có các phụ lục:
- Phụ lục 1: Dự thảo Những nội dung chính của chương trình giáo dục
phổ thông tổng thể
- Phụ lục 2: Dự thảo Chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng lực chung của các
cấp học
- Phụ lục 3: Dự thảo Nội dung về hoạt động trải nghiệm sáng tạo
- Phụ lục 4: Danh mục các Đề án triển khai chương trình hành động của Chính
phủ triển khai thực hiện Nghị quyết 29 (ban hành hành kèm theo Nghị quyết 44).
- Phụ lục 5: Dự toán kinh phí thực hiện Đề án
Phần thứ nhất
MỤC TIÊU ĐỀ ÁN
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết 29 và
Nghị quyết 75; triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết 29 ban hành kèm theo Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09 tháng 6
năm 2014 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 44) và Chiến lược phát
triển giáo dục 2011 - 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày
13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ (sau đây gọi tắt là Chiến lược
phát triển giáo dục 2011 - 2020).
Ban hành chương trình và sách giáo khoa mới đáp ứng yêu cầu tập trung
phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân; phát hiện
và bồi dưỡng năng khiếu; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng
giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực
thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phát triển khả năng sáng tạo, tự

học, khuyến khích học tập suốt đời; bảo đảm cho học sinh trung học cơ sở có tri
thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau giáo dục cơ
bản; học sinh trung học phổ thông có định hướng nghề nghiệp, chuẩn bị tốt cho
giai đoạn học sau phổ thông và học tập suốt đời.
5
Phần thứ hai
PHẠM VI ĐỀ ÁN
Tổng kết đánh giá việc thực hiện đổi mới chương trình theo Nghị quyết
40, khẳng định những ưu điểm và kết quả đã đạt được, rút ra những bài học kinh
nghiệm, chỉ ra những hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành so với
yêu cầu của Nghị quyết 40, những bất cập so với yêu cầu của Nghị quyết 29;
tổng kết kinh nghiệm của Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm phát triển
chương trình, sách giáo khoa trên thế giới; đề ra những nguyên tắc và nội dung
đổi mới chương trình, sách giáo khoa giai đoạn sau năm 2015; biên soạn, thẩm
định, ban hành chương trình mới; biên soạn, thẩm định sách giáo khoa; đánh
giá, điều chỉnh chương trình, sách giáo khoa trong quá trình triển khai đại trà.
Phần thứ ba
NỘI DUNG ĐỀ ÁN
I. CƠ SỞ XÁC ĐỊNH NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG ĐỔI MỚI
CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA
1. Kết quả tổng kết đánh giá việc thực hiện đổi mới chương trình theo
Nghị quyết 40 và những bất cập của chương trình hiện hành so với
Nghị quyết 29
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 40 đã thực hiện các đợt
giám sát, đánh giá chất lượng và hiệu quả thực hiện đổi mới chương trình, sách
giáo khoa như: Đánh giá của ngành giáo dục cùng Liên hiệp các Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và của một số tổ chức khác;
đánh giá theo yêu cầu của Đoàn giám sát về “Việc thực hiện chính sách, pháp
luật về đảm bảo chất lượng và chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông”
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (năm 2012); đánh giá để phục vụ Đề án Đổi

mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (năm 2013); đánh giá kết quả thực
hiện chương trình thông qua thực hiện nhiệm vụ năm học hằng năm của các sở
giáo dục và đào tạo…
Thực hiện Nghị quyết 75, sau nhiều hội thảo chuyên đề về các nội dung
cụ thể khác nhau, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức hội nghị tổng kết đánh giá
việc thực hiện đổi mới chương trình theo yêu cầu của Nghị quyết 40, khẳng định
những kết quả và thành công; rút ra những bài học kinh nghiệm, đồng thời chỉ ra
những bất cập của chương trình, sách giáo khoa hiện hành so với yêu cầu của
Nghị quyết 29 làm cơ sở xác định nguyên tắc và nội dung đổi mới chương trình,
sách giáo khoa giai đoạn sau năm 2015.
6
Sau đây là tóm tắt kết quả tổng kết đánh giá việc thực hiện đổi mới chương
trình theo yêu cầu Nghị quyết 40, những bất cập của chương trình hiện hành so
với yêu cầu của Nghị quyết 29 và những bài học kinh nghiệm được rút ra.
1.1. Những kết quả đạt được so với yêu cầu của Nghị quyết 40
a) Chương trình, sách giáo khoa hiện hành cơ bản đã được đổi mới theo
tinh thần Nghị quyết 40, đáp ứng được yêu cầu về mục tiêu giáo dục, chuẩn kiến
thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức
tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn
học, lớp học, cấp học giáo dục phổ thông được quy định trong Luật Giáo dục năm
2005. Chương trình đã kế thừa và phát huy được những ưu điểm cơ bản của các
chương trình trước, phù hợp với xu hướng quốc tế về phát triển chương trình.
b) Chương trình đã chú ý giáo dục toàn diện các mặt đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ, các kỹ năng cơ bản của học sinh.
Chương trình các môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi cấp học đã xây
dựng được chuẩn kiến thức, kỹ năng làm căn cứ để biên soạn sách giáo khoa,
quản lý dạy học, đánh giá kết quả giáo dục; về cơ bản chuẩn kiến thức và kỹ
năng phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh.
Nhìn chung, nội dung giáo dục đảm bảo tính khoa học, cơ bản, hiện đại và
tiếp cận với trình độ các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới; đã chú ý

tới sự liên thông trong môn học, giữa các môn học, giữa các cấp học theo
nguyên tắc kế thừa và phát triển; bước đầu thể hiện được quan điểm dạy học tích
hợp và phân hoá.
Đã có những chuyển biến bước đầu về phương pháp, hình thức tổ chức
giáo dục và đánh giá chất lượng giáo dục.
c) Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục đã
đáp ứng về cơ bản yêu cầu đổi mới chương trình. Nhìn chung, đội ngũ giáo viên,
cán bộ quản lý đủ về số lượng, chất lượng ngày càng được nâng cao; cơ sở vật
chất từng bước được cải thiện theo hướng chuẩn hoá.
d) Công tác tổ chức và chỉ đạo đã được chú trọng. Về cơ bản, việc ban
hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đổi mới chương trình kịp thời, hiệu quả,
khả thi; tổ chức biên soạn và triển khai chương trình, sách giáo khoa ở mỗi cấp
học đảm bảo sự thống nhất và tính khoa học; đã huy động được nhiều nhà khoa
học, nhà sư phạm và một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên cơ sở giáo dục phổ
thông tham gia biên soạn, thẩm định chương trình, sách giáo khoa.
đ) Chất lượng giáo dục phổ thông có tiến bộ, trình độ hiểu biết, năng lực
tiếp cận tri thức mới của học sinh được nâng cao; kết quả đánh giá quốc tế trên
diện rộng (PISA, PASEC) cho thấy học sinh Việt Nam không thua kém học sinh
thế giới về năng lực đọc hiểu, toán học, khoa học và được xếp ở thứ hạng cao.
Chất lượng giáo dục mũi nhọn được nâng cao; kết quả các kỳ thi học sinh giỏi
quốc gia và quốc tế có tiến bộ.
7
Nguyên nhân của những kết quả đạt được:
- Sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành
của Chính phủ và chính quyền các cấp; sự quan tâm, tham gia đóng góp của các
đoàn thể, tổ chức xã hội, của toàn dân đối với giáo dục đóng vai trò quyết định
trong đổi mới chương trình, sách giáo khoa.
- Quyết tâm đổi mới và sự chỉ đạo sát sao của ngành giáo dục và lòng yêu
người, yêu nghề, ý thức trách nhiệm, sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục các cấp đã góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới chương

trình, sách giáo khoa.
- Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ; đời
sống nhân dân được cải thiện và hội nhập quốc tế đã tạo môi trường thuận lợi
cho việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa.
- Truyền thống hiếu học của dân tộc được phát huy mạnh mẽ, thể hiện
trong từng gia đình, từng dòng họ, từng địa phương, từng cộng đồng dân cư đã
góp phần không nhỏ vào việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa.
- Trong quá trình thực hiện đổi mới chương trình đã tổ chức nhiều đợt
đánh giá chất lượng và hiệu quả thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa;
kịp thời triển khai nhiều giải pháp để khắc phục hạn chế của chương trình, sách
giáo khoa, đồng thời phát triển chương trình và hoàn thiện sách giáo khoa.
1.2. Những hạn chế so với yêu cầu của Nghị quyết 40
a) Chương trình chưa đáp ứng được yêu cầu mới về hình thành và phát
triển năng lực của học sinh. Mục tiêu phát triển năng lực cá nhân nêu trong Luật
Giáo dục chưa được cụ thể hoá trong chương trình hiện hành; chương trình các
môn học chỉ xây dựng chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ mà chưa
xây dựng chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng lực của học sinh; chưa đảm bảo sự
cân đối giữa “dạy chữ” và “dạy người”.
b) Trong một số môn học có những nội dung chưa đảm bảo tính hiện đại,
cơ bản, còn nặng tính hàn lâm, quá tải, chưa thiết thực với học sinh; việc tổ chức
các hoạt động giáo dục chưa được coi trọng; quan điểm tích hợp chưa được quán
triệt đầy đủ và chủ yếu chỉ mới thực hiện ở chương trình Tiểu học; chưa thực sự
đảm bảo tính liên thông giữa giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp và
giáo dục đại học để thực hiện mục tiêu phân luồng sau trung học cơ sở và sau
trung học phổ thông.
c) Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đánh giá kết quả
giáo dục mới chỉ là bước đầu. Phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là truyền đạt một
chiều, học sinh thụ động ghi nhớ máy móc; thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo
dục còn lạc hậu.
d) Một số cuốn sách giáo khoa chưa cân đối giữa yêu cầu khoa học và yêu

cầu sư phạm; một số nội dung chưa sát hợp với trình độ nhận thức của học sinh,
8
nhất là học sinh ở những vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, dân tộc ít
người; cấu trúc của sách giáo khoa chưa thực sự tạo điều kiện cho giáo viên, học
sinh đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
đ) Thiếu tính hệ thống trong việc tổ chức, chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện
chương trình; chưa thật sự kịp thời trong chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương
trong quá trình thí điểm và triển khai chương trình, sách giáo khoa; việc tổ chức
xin ý kiến của các đối tượng xã hội trong quá trình biên soạn và triển khai thực
hiện chương trình mới chưa thực sự có hiệu quả.
e) Một bộ phận giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục còn hạn chế về năng
lực sư phạm, năng lực quản lý. Ở một số nơi, cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục
chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu đổi mới chương trình.
g) Chất lượng giáo dục phổ thông đại trà còn thấp so với yêu cầu phát triển
của đất nước trong thời kỳ mới và so với một số nước tiên tiến; chưa giải quyết tốt
mối quan hệ giữa “dạy chữ” với “dạy người” và định hướng nghề nghiệp.
Nguyên nhân của những hạn chế:
- Công tác chỉ đạo, điều hành đổi mới chương trình đôi khi còn bị động,
duy ý chí; một số văn bản chỉ đạo chưa thực sự dựa trên kết quả khảo sát thực
tiễn; thiếu cơ chế quản lý có hiệu lực đảm bảo vận hành đồng bộ toàn bộ quá
trình xây dựng, triển khai chương trình, sách giáo khoa.
- Thiếu lực lượng chuyên gia giàu kinh nghiệm, hoạt động chuyên nghiệp
trong lĩnh vực phát triển chương trình, sách giáo khoa; thiếu điều kiện tiếp thu
một cách có hệ thống kinh nghiệm phát triển chương trình giáo dục phổ thông
của các nước tiên tiến.
- Chưa nhận thức đúng vai trò quyết định của đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục trong việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa nói riêng và
đổi mới giáo dục nói chung. Công tác tuyển dụng, quản lý, sử dụng đội ngũ giáo
viên còn nhiều bất cập; chính sách ưu đãi đối với nhà giáo chậm đổi mới nên
chưa kịp thời động viên, khuyến khích giáo viên yên tâm công tác, chưa đủ sức

thu hút những người giỏi làm nghề sư phạm.
- Những tác động khách quan làm tăng thêm những yếu kém bất cập của
giáo dục. Mặt trái của kinh tế thị trường đã có nhiều tác động tiêu cực đến giáo
dục. Nhu cầu học tập của nhân dân và đòi hỏi nâng cao chất lượng giáo dục
ngày càng cao trong khi khả năng đáp ứng của ngành giáo dục và trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước còn hạn chế. Trong xã hội, tâm lý khoa cử,
sính bằng cấp, bệnh thành tích vẫn chi phối việc dạy, học và thi.
1.3. Bài học kinh nghiệm của Việt Nam về đổi mới chương trình, sách
giáo khoa
a) Phải thường xuyên quán triệt nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo của Đảng
và Nhà nước; tuân thủ Luật Giáo dục; tiếp thu những thành tựu của chương trình
9
trước đó và cập nhật kinh nghiệm của thế giới trong quá trình xây dựng và triển
khai chương trình.
Những điểm thành công, tiến bộ của chương trình hiện hành đều thể hiện
rõ chương trình đã quán triệt tinh thần đổi mới được nêu trong các nghị quyết
của Đảng, Nhà nước, Quốc hội; kế thừa, phát huy những ưu điểm của chương
trình trước đó và tiếp thu có chọn lọc chương trình của một số nước có nền giáo
dục tiên tiến trên thế giới. Tinh thần này được thể hiện một cách thường xuyên,
liên tục nhằm cập nhật và đáp ứng được những biến đổi nhanh chóng của đời
sống kinh tế - xã hội.
Ví dụ: Chương trình khi xây dựng đã tuân thủ Luật Giáo dục năm 1998.
Nội dung của Luật Giáo dục năm 1998 chưa quy định đầy đủ các thành tố của
chương trình. Cập nhật thành tựu của thế giới, quá trình xây dựng chương trình
từ năm 2000 theo Nghị quyết 40 đã đề xuất và hiện thực hoá khái niệm chương
trình bao gồm các thành tố của quá trình giáo dục: mục tiêu giáo dục; chuẩn kiến
thức, kỹ năng; nội dung giáo dục; phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục;
đánh giá kết quả giáo dục. Những thay đổi này là cơ sở để hoàn chỉnh quy định
về chương trình trong Luật Giáo dục năm 2005 và quán triệt, thể hiện đầy đủ
trong chương trình giáo dục phổ thông ban hành năm 2006.

b) Luôn tôn trọng quan điểm tiếp cận hệ thống khi xem xét, giải quyết các
vấn đề của chương trình, sách giáo khoa
Chương trình mỗi cấp học có tính đặc thù, đồng thời mang tính thống nhất
của hệ thống giáo dục phổ thông. Giáo dục phổ thông lại có liên quan chặt chẽ
với giáo dục mầm non, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường
xuyên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Mặt khác, chương trình cũng là một hệ
thống bao gồm các thành tố của quá trình giáo dục có mối quan hệ chặt chẽ và
tác động qua lại lẫn nhau.
Chương trình hiện hành chưa được xây dựng trên tinh thần quán triệt
quan điểm hệ thống trên. Biểu hiện rõ nhất là chương trình mỗi cấp học được
xây dựng riêng rẽ, cắt khúc do chưa xây dựng chương trình giáo dục phổ thông
tổng thể. Tính liên thông giữa các cấp bậc học, giữa giáo dục phổ thông với các
hệ thống khác trong giáo dục quốc dân chưa được chú ý đúng mức, chưa tạo
điều kiện cho việc học suốt đời. Các điều kiện (giáo viên, cơ sở vật chất) để
thực hiện có hiệu quả chương trình hiện hành còn hạn chế; chưa xử lý tốt quan
hệ sư phạm - phổ thông, giữa đào tạo và sử dụng giáo viên phổ thông; ngay từ
khi triển khai đã chỉ đạo đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh nhưng chậm chỉ đạo
đổi mới việc thi, kiểm tra, đánh giá, chủ yếu vẫn hướng vào kết quả sự ghi nhớ
của học sinh, hình thức đánh giá đơn điệu, lạc hậu… đã là những nguyên nhân
cơ bản của những hạn chế của giáo dục phổ thông.
10
Trong những năm gần đây, việc đổi mới đồng bộ hình thức tổ chức và
phương pháp dạy học, thi, kiểm tra, đánh giá đã bước đầu chuyển biến, đã khắc
phục một phần những hạn chế nêu trên và đặt cơ sở ban đầu cho những thay đổi
mạnh mẽ trong thời gian tới.
c) Xác định đúng những khó khăn, thách thức trong quá trình xây dựng và
triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới đồng thời phải quyết tâm vượt
qua bằng những giải pháp, bước đi phù hợp.
Đổi mới bao giờ cũng có những khó khăn, thách thức. Để vượt qua những

khó khăn, thách thức đó cần phải kiên quyết thực hiện theo phương hướng đã đề
ra với lộ trình và các giải pháp phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm trong từng
thời kỳ.
Ví dụ: Một trong những yêu cầu xây dựng và triển khai chương trình là
phải quán triệt tinh thần tích hợp và phân hoá. Đây là một vấn đề khó, cần phải
vượt qua những thách thức về trình độ của những người biên soạn chương trình,
sách giáo khoa; tâm lý chưa sẵn sàng và sự chuẩn bị chưa đầy đủ năng lực của
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục… Chương trình hiện hành chưa vượt qua
được những thách thức đó, đặc biệt là ở trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Nguyên nhân là do tư tưởng cầu toàn, muốn có thời gian để chuẩn bị về đội ngũ
và cơ sở vật chất của giáo dục phổ thông trong cả nước mà chưa đưa ra được
một lộ trình mang tính khả thi, đến nay vẫn chưa chuẩn bị được những điều kiện
đó. Tuy nhiên, trong những năm gần đây đã tiến hành thực nghiệm việc vận
dụng quan điểm tích hợp vào xây dựng và triển khai chương trình ở trung học cơ
sở như: thực nghiệm chương trình của mô hình trường học mới, xây dựng và
triển khai dạy học các chủ đề liên môn, nghiên cứu khoa học của học sinh theo
định hướng tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết những vấn
đề đặt ra trong thực tiễn; tổ chức nhiều “sân chơi” trí tuệ đáp ứng nhu cầu và
năng khiếu riêng của các học sinh khác nhau Các hoạt động thực nghiệm này
đã thành công và ngày càng được nhân rộng trong toàn quốc, là kinh nghiệm
cho việc tăng cường dạy học kết hợp tích hợp và phân hoá vì mục tiêu phát triển
phẩm chất và năng lực học sinh.
d) Phải luôn hướng tới mục tiêu giáo dục phổ thông bằng việc tôn trọng
và giải quyết hài hoà giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chương trình giáo
dục, của các địa phương, cơ sở giáo dục.
Một trong những hạn chế cơ bản của chương trình hiện hành là chưa giải
quyết hài hoà giữa yêu cầu và điều kiện chung của toàn quốc với yêu cầu và
điều kiện riêng của mỗi địa phương, nhà trường; giữa mục tiêu chung của
chương trình mà mỗi môn học, hoạt động giáo dục phải tuân thủ với đặc thù
riêng về mục tiêu, phương pháp dạy học của chương trình từng môn học, hoạt

động giáo dục; giữa giáo dục toàn diện cho mọi học sinh với việc phát triển
năng lực, sở trường riêng của mỗi học sinh.
11
Những hạn chế nêu trên dẫn đến chưa khuyến khích được sự tự chủ, tính
năng động, sáng tạo của các địa phương, cơ sở giáo dục; chưa phát huy được sở
trường của mỗi học sinh; chất lượng, hiệu quả giáo dục của các môn học có mục
tiêu chính là phát triển kỹ năng (ngoại ngữ), phát triển năng khiếu (nghệ thuật,
thể dục) hay giáo dục đạo đức, phát triển kỹ năng mềm… chưa được cải thiện.
Trước thực trạng đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo thực nghiệm một số
giải pháp như: giao quyền chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường; thi
nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh trung học; điều chỉnh mục tiêu, nội
dung, phương pháp, đánh giá kết quả giáo dục các môn học Âm nhạc, Mỹ thuật,
Thể dục, Ngoại ngữ, Tin học, Đạo đức - Giáo dục công dân Các giải pháp này
đã bước đầu thành công và sẽ được tổng kết, rút kinh nghiệm trong quá trình xây
dựng chương trình mới.
đ) Nhận thức đầy đủ về nội dung và ý nghĩa của xã hội hoá giáo dục, tăng
cường thực hiện xã hội hoá giáo dục
Thực hiện xã hội hoá giáo dục là một chủ trương và giải pháp quan trọng
để thực hiện thành công đổi mới giáo dục nói chung và chương trình giáo dục
phổ thông nói riêng. Thời gian qua, công tác xã hội hoá giáo dục chủ yếu nhằm
góp phần cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường mà chưa phát huy hết sức
mạnh của các lực lượng xã hội trong việc tham gia đóng góp ý tưởng, trí tuệ để
phát triển giáo dục. Quan niệm về xã hội hoá giáo dục chưa đầy đủ nên chưa
huy động được các nguồn lực một cách toàn diện, do đó hiệu quả xã hội hoá
giáo dục chưa cao.
Nhằm khắc phục hạn chế trên, một số biện pháp đã được triển khai để tạo
ra cơ chế phát huy tổng hợp nguồn lực của nhà trường, của các tổ chức chính trị,
xã hội và của các đoàn thể vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc
biệt giáo dục đạo đức, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh (phát động thực hiện
phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; thực hiện cuộc

vận động “Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” ); tăng cường mối quan hệ
giữa nhà trường, gia đình, xã hội thông qua việc xây dựng và phát triển mô hình
trường học mới (VNEN) và trường phổ thông chất lượng cao, vừa đáp ứng nhu
cầu dịch vụ giáo dục cao của nhân dân, vừa tạo được cơ chế thu hút sự đóng góp
về trí tuệ, công sức, vốn đầu tư cho giáo dục của các lực lượng xã hội.
1.4. Những bất cập của chương trình, sách giáo khoa hiện hành so với
yêu cầu của Nghị quyết 29
a) Chương trình mới chú trọng việc truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng
phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh
Nghị quyết 29 yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm
phát triển phẩm chất và năng lực người học, hài hoà đức, trí, thể, mỹ; dạy người,
dạy chữ và định hướng nghề nghiệp.
12
Chương trình hiện hành chưa xác định chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng
lực học sinh; chương trình của từng môn học, hoạt động giáo dục chỉ xác định
mục tiêu cần đạt về kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ đối với học sinh.
Điều đó cũng thể hiện trong việc thiết kế nội dung, áp dụng hình thức và phương
pháp giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục.
b) Trong thiết kế chương trình, chưa xây dựng thành hai giai đoạn: giai
đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp
Nghị quyết 29 đề ra mục tiêu cụ thể của giáo dục phổ thông là bảo đảm
cho học sinh có trình độ trung học cơ sở có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng
yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải định
hướng nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng.
Muốn thực hiện được mục tiêu này thì nội dung giáo dục phổ thông phải được
xây dựng theo hướng tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hoá dần ở các lớp
học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng số môn học, chuyên đề học tập và hoạt
động trải nghiệm sáng tạo.
Trong chương trình, sách giáo khoa hiện hành, quan điểm tích hợp và
phân hoá chưa được coi trọng; việc tích hợp nội dung giáo dục vừa thiếu, vừa

chưa đảm bảo tính khoa học nên phải điều chỉnh, bổ sung trong quá trình triển
khai (như giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng phòng chống tệ nạn xã hội, kỹ năng
tiếp cận nghề nghiệp…); chưa tích hợp nhiều lĩnh vực thành một môn học ở cấp
trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông; số môn học bắt buộc của mỗi lớp
học, cấp học còn khá nhiều. Phương thức dạy học phân hoá bằng phân ban kết
hợp với tự chọn ở cấp trung học phổ thông chưa thành công, hầu hết học sinh
đăng ký học ban Cơ bản, đăng ký học các ban còn lại ngày càng giảm, nhất là
Ban Khoa học Xã hội và Nhân văn. Với cách thiết kế nội dung giáo dục như vậy
thì chưa thể đáp ứng được yêu cầu của Nghị quyết 29.
c) Nội dung giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu về tính thiết thực, tinh
giản, hiện đại
Nghị quyết 29 yêu cầu đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản,
hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành,
vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối
sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản
của văn hoá, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, giá trị cốt
lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường
giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ
và tin học theo hướng chuẩn hoá, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người
học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số.
Chương trình hiện hành đặt trọng tâm vào việc cung cấp nhiều kiến thức
thông qua hoạt động dạy học, chưa quan tâm đúng mức các nội dung phục vụ
rèn luyện đạo đức, kỹ năng. Một số nội dung của một số môn học và hoạt động
13
giáo dục chưa cân đối, chưa phù hợp với đối tượng; một số nội dung của các
môn học như Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, Ngoại ngữ, Tin học, Giáo dục quốc
phòng và an ninh, Giáo dục hướng nghiệp, Nghề phổ thông chưa đảm bảo tính
hiện đại, cơ bản và thiết thực; chưa phù hợp với đặc thù của các bộ môn (nhất là
yêu cầu về bồi dưỡng hứng thú hoạt động thường xuyên của các môn Âm nhạc,
Mỹ thuật, Thể dục; rèn luyện kỹ năng của các môn Ngoại ngữ, Tin học) vì

chúng vẫn được thiết kế tương tự như các bộ môn văn hoá khác.
d) Việc thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục còn phiến diện, lạc hậu,
chưa hướng tới mục tiêu phát triển hài hoà phẩm chất và năng lực của học sinh
Nghị quyết 29 yêu cầu đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi,
kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng coi trọng phát triển năng lực
học sinh. Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục cần từng bước theo các
tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công
nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối
kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh
giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội. Đổi mới phương
thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng giảm áp lực và
tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng
lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo dục
đại học. Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục ở cấp độ quốc gia, địa phương
và đánh giá theo chương trình quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải
pháp cải thiện chất lượng giáo dục.
Nhìn chung, chưa triển khai đúng và đầy đủ về nội hàm và ý nghĩa của
hoạt động đánh giá chất lượng giáo dục. Thực trạng thi, kiểm tra và đánh giá kết
quả giáo dục về cơ bản chưa đạt được các yêu cầu nêu trên của Nghị quyết 29.
Theo tinh thần mới thì việc kiểm tra, đánh giá phải diễn ra thường xuyên, trong
suốt quá trình giáo dục, không chỉ đánh giá kết quả giáo dục mà điều quan trọng
là cần xác định kiểm tra, đánh giá cũng chính là phương pháp giáo dục, góp
phần làm nên kết quả giáo dục. Việc thi, kiểm tra và đánh giá hiện nay chỉ chú
trọng yêu cầu ghi nhớ kiến thức, chưa coi trọng vận dụng kiến thức, kỹ năng để
giải quyết các vấn đề thực tiễn; nặng về đo lường định kỳ kết quả học tập (thông
qua cho điểm), chưa coi trọng nhận xét của giáo viên để đánh giá sự tiến bộ và
khuyến khích học sinh vươn lên; chưa hướng dẫn học sinh tự đánh giá để kịp
thời điều chỉnh hoạt động dạy và học. Việc phối hợp giữa đánh giá của người
dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia
đình và của xã hội còn hạn chế; phương thức thi tốt nghiệp trung học phổ thông

chưa được đổi mới căn bản và kết quả kỳ thi chưa đảm bảo độ tin cậy để làm cơ
sở cho tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
đ) Các hạn chế nêu trên của nội dung, phương pháp dạy học và kiểm tra
đánh giá đã hạn chế hiệu quả hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực học
14
sinh; chưa đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đạo đức, lối sống, rèn
luyện kỹ năng, phát triển khả năng sáng tạo, tự học để học tập suốt đời.
Nghị quyết 29 yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại, coi trọng dạy cách học; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền đạt
áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ
chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên
cứu khoa học.
Do mục tiêu của chương trình giáo dục hiện hành chủ yếu là trang bị kiến
thức nên phương pháp dạy học vẫn theo lối truyền đạt một chiều, học sinh thụ
động, ghi nhớ máy móc kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa mà ít được rèn
luyện phương pháp học. Hình thức tổ chức dạy học chủ yếu là trên lớp học, chưa
dành thời lượng thoả đáng cho các hoạt động trải nghiệm (đây là một nguyên
nhân làm mất dần hứng thú học tập, gây quá tải). Những hạn chế về cách thiết
kế nội dung các môn học và hoạt động giáo dục (nêu tại mục c) cùng với những
hạn chế về hình thức tổ chức và phương pháp dạy học, phương pháp và nội dung
của hoạt động kiểm tra, đánh giá (nêu tại mục d) là nguyên nhân chính hạn chế
hiệu quả giáo dục đạo đức, rèn luyện kỹ năng. Việc vận dụng phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học tiên tiến, hiện đại mới bước đầu được chú trọng.
e) Chưa phát huy được vai trò tự chủ của nhà trường và tính tích cực, sáng
tạo của giáo viên, cán bộ quản lý trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục;
chưa đáp ứng yêu cầu giáo dục của các vùng khó khăn
Nghị quyết 29 yêu cầu phải đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo
động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục. Đa dạng hoá nội
dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học và nhu cầu học tập suốt

đời của mọi người; chương trình giáo dục và sách giáo khoa phải phù hợp với
các vùng miền khác nhau của cả nước.
Thực trạng tổ chức thực hiện chương trình, sử dụng sách giáo khoa hiện
nay còn nhiều bất cập so với tinh thần đổi mới này. Luật Giáo dục quy định: Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình; duyệt và quyết định
chọn sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy,
học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông. Trên thực tế, cả nước chỉ có một bộ sách
giáo khoa. Điều này dẫn đến chưa huy động được sự sáng tạo phong phú của các
tổ chức, cá nhân vào việc viết các sách giáo khoa khác nhau như ở hầu hết các
nước hiện nay; sách giáo khoa không phù hợp với điều kiện cụ thể của một số
vùng, miền; hạn chế tính năng động, sáng tạo của giáo viên và học sinh. Nhà
trường, giáo viên, học sinh chưa có kinh nghiệm và thói quen lựa chọn, sử dụng
các sách giáo khoa khác nhau. Việc biên soạn sách giáo viên và sách bài tập
tương ứng với sách giáo khoa như hiện nay sẽ không phù hợp và không cần thiết
khi có nhiều sách giáo khoa khác nhau được biên soạn.
15
g) Khoa học giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục
Nghị quyết 29 yêu cầu quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa
học quản lý, tập trung đầu tư nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động
của cơ quan nghiên cứu khoa học giáo dục quốc gia.
Thực trạng nghiên cứu về phát triển chương trình giáo dục chưa đáp ứng
yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục theo tinh thần trên. Nhìn chung, tư duy
về giáo dục nói chung và về phát triển chương trình giáo dục nói riêng chậm đổi
mới, thiếu tính chuyên nghiệp, đồng bộ, kịp thời; hiệu quả đầu tư nghiên cứu
phát triển chương trình, sách giáo khoa chưa cao, các đề tài nghiên cứu và ứng
dụng các kết quả nghiên cứu chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách
giáo khoa. Cả nước chưa có đội ngũ chuyên nghiệp nghiên cứu và xây dựng
chương trình, sách giáo khoa.
2. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng, phát triển và quản lý phát triển
chương trình; biên soạn và sử dụng sách giáo khoa, tài liệu dạy học

2.1. Về xây dựng, phát triển và quản lý phát triển chương trình
a) Từ cuối thế kỷ XX đến nay, nhiều nước tiên tiến đã và đang thực hiện
xây dựng chương trình theo định hướng phát triển năng lực người học. Hầu hết
các nước đều chú ý hình thành, phát triển những năng lực cần cho việc học suốt
đời, gắn với cuộc sống hằng ngày, trong đó chú trọng các năng lực chung như:
năng lực tự học, học cách học; năng lực cá nhân (tự chủ, tự quản lý bản thân);
năng lực xã hội; năng lực hợp tác; năng lực giao tiếp (tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ);
năng lực tư duy; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực công nghệ thông tin và
truyền thông
b) Đảm bảo tính thống nhất giữa dạy học tích hợp và dạy học phân hoá
được xác định là yêu cầu bắt buộc của mục đích phát triển năng lực học sinh.
- Tích hợp và phân hoá là hai mặt khác nhau nhưng thống nhất, đồng thời
tồn tại và có tính nguyên tắc trong quá trình giáo dục - dạy học. Kết hợp giữa
dạy học tích hợp và dạy học phân hoá là tuân theo quy luật nhận thức của loài
người và quy luật phát triển của khoa học; đáp ứng yêu cầu giải quyết có hiệu
quả các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống, đòi hỏi học sinh phải vận dụng tổng
hợp kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm một cách linh hoạt, từ đó hình thành, phát
triển đồng thời các năng lực chung, năng lực có tính chuyên biệt và tiềm năng
riêng của từng học sinh.
- Coi trọng tính tích hợp trong việc thiết kế nội dung chương trình giáo
dục, đặc biệt là ở cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở. Ở giai đoạn đầu của cấp
tiểu học, xây dựng môn học tích hợp các lĩnh vực về tự nhiên và xã hội (bao
gồm cả con người). Ở giai đoạn sau của cấp tiểu học và cả cấp trung học cơ sở
xây dựng môn học tích hợp các lĩnh vực khoa học tự nhiên và môn học tích hợp
các lĩnh vực khoa học xã hội. Ở cả ba cấp học đều thực hiện tích hợp trong nội
bộ môn học, trong đó tích hợp cả các chủ đề liên quan đến thực tiễn đời sống.
16
- Dạy học phân hoá được coi trọng ở tất cả các cấp học, được thực hiện
thông qua việc thiết kế nội dung chương trình và phương pháp dạy học, tăng dần
ở các cấp học trên của giáo dục phổ thông, đặc biệt phân hoá mạnh ở các lớp cuối

cấp trung học phổ thông với hình thức dạy học tự chọn theo tín chỉ khá phổ biến.
- Chương trình cấp tiểu học và chương trình cấp trung học cơ sở thường
quy định các môn học bắt buộc, đồng thời có một số hoạt động, chuyên đề tự
chọn. Ở cấp trung học phổ thông, đa số các nước phân luồng thành các loại hình
trường trung học nghề, trung học phổ thông kỹ thuật, trung học phổ thông nhằm
đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng, xu hướng nghề nghiệp của từng học sinh.
Chương trình dành cho loại hình trường trung học phổ thông thường có hai hình
thức tổ chức dạy học phân hoá là phân ban và tự chọn. Hiện nay, đa số các nước
tổ chức dạy học phân hoá theo hình thức tự chọn.
c) Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo
dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng chuyển từ hoạt động truyền
thụ kiến thức sang chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập linh hoạt,
đa dạng; thông qua đó học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức, hình thành
phương pháp học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, biết vận dụng sáng
tạo kiến thức, hình thành năng lực tư duy phản biện…
- Kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục không chỉ nhằm đánh giá về
kiến thức mà phải đánh giá đúng năng lực người học; đánh giá phải giúp hướng
dẫn, điều chỉnh cách dạy, cách học ngay trong quá trình giáo dục; đánh giá
bằng nhiều hình thức, kết hợp đánh giá quá trình với đánh giá định kỳ; sử dụng
kết quả đánh giá một cách hợp lý. Ngoài đánh giá năng lực của từng cá nhân
người học còn có đánh giá chất lượng giáo dục trên diện rộng (chất lượng giáo
dục của địa phương hay của quốc gia) để kiến nghị các chính sách, giải pháp
phát triển giáo dục.
d) Cách thức tổ chức thực nghiệm chương trình được tiến hành theo hướng
ngày càng đơn giản, gọn nhẹ, ngay trong quá trình xây dựng chương trình. Nhà
nước công bố chương trình (ban hành lần 1), các trường thực hiện và phản hồi
đánh giá, đề xuất điều chỉnh chương trình. Căn cứ vào kết quả triển khai chương
trình, tổng hợp các ý kiến phản hồi, nhà nước tổ chức chỉnh sửa, hoàn thiện, công
bố các phiên bản mới của chương trình (nếu cần).

Việc thực nghiệm thường chỉ tiến hành đối với những nội dung mới của
chương trình một số môn học có những đổi mới căn bản nhằm xác định tính khả
thi và kết quả đạt mục tiêu của chương trình các môn học này. Nếu chỉ điều
chỉnh chương trình, không làm xáo trộn các phương thức giáo dục, không dẫn
tới các phản ứng tiêu cực của xã hội thì không cần tổ chức thực nghiệm (nhiều
nước chỉ công bố chương trình được điều chỉnh và triển khai áp dụng đại trà).
17
đ) Chú trọng phân cấp trong xây dựng và quản lý chương trình theo
hướng: Nhà nước xây dựng chương trình giáo dục hoặc khung chương trình
giáo dục quốc gia; đồng thời giao quyền cho các địa phương căn cứ vào chương
trình quốc gia để điều chỉnh chương trình phù hợp với địa phương; các nhà
trường có thể xây dựng chương trình riêng (chương trình nhà trường).
2.2. Về biên soạn và sử dụng sách giáo khoa, tài liệu dạy học
a) Nhiều nước trên thế giới thực hiện đa dạng hoá sách giáo khoa và tài
liệu dạy học. Sách giáo khoa là một loại tài liệu dạy học quan trọng nhưng
không phải là tài liệu duy nhất mà có thể có nhiều sách giáo khoa khác nhau
cho cùng một môn học; đồng thời giáo viên và học sinh có thể và cần phải tham
khảo nhiều nguồn tư liệu khác nhau, nhưng tất cả đều phải căn cứ và đáp ứng
được mục tiêu giáo dục và chuẩn kết quả cần đạt của chương trình.
b) Ở phần lớn các nước tiên tiến, sách giáo khoa chủ yếu do các nhà xuất
bản tổ chức biên soạn và phát hành theo cơ chế thị trường. Các địa phương, nhà
trường, phụ huynh và học sinh có quyền lựa chọn sách giáo khoa cho mình.
II. NGUYÊN TẮC ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA
1. Quán triệt đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ XI, Nghị quyết 29 và các nghị quyết khác của Ban chấp hành Trung
ương; tuân thủ các quy định của Hiến pháp (Điều 61) và của Luật Giáo dục.
2. Kế thừa và phát huy những thành tựu và kinh nghiệm thành công của
nền giáo dục Việt Nam.
3. Tham khảo, học hỏi một cách có chọn lọc và có hệ thống kinh nghiệm,
thành tựu giáo dục của các nước, nhất là các nền giáo dục phát triển có điều kiện

tương đồng với Việt Nam.
4. Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tinh giản, hiện
đại, thiết thực để phát triển phẩm chất và năng lực người học; chú trọng giáo dục
lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống; nâng cao năng lực ngoại ngữ, tin học;
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; phát triển khả năng sáng
tạo, ý thức tự học. Chú trọng và tăng cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
5. Đảm bảo tiếp nối, liên thông giữa chương trình cấp học, lớp học, giữa
các môn học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
6. Khuyến khích cá nhân, tổ chức tham gia biên soạn sách giáo khoa (sách
in và sách điện tử) trên cơ sở chương trình giáo dục phổ thông đã được Bộ Giáo
dục và Đào tạo phê duyệt, sử dụng thống nhất trong toàn quốc.
18
III. NỘI DUNG ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA
1. Đổi mới mục tiêu cơ bản của giáo dục từ tập trung vào trang bị
kiến thức, kỹ năng sang phát triển phẩm chất và năng lực người học, đảm
bảo hài hoà giữa “dạy chữ”, “dạy người” và định hướng nghề nghiệp
a) Thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa theo định hướng
phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Chương trình phải hướng tới phát
triển các năng lực chung và các năng lực chuyên biệt liên quan đến từng lĩnh vực
giáo dục/môn học/hoạt động trải nghiệm sáng tạo mà mọi học sinh đều cần có
trong cuộc sống, đồng thời tạo điều kiện phát triển tốt nhất tiềm năng của mỗi
học sinh. Xác định các mức độ khác nhau của mỗi năng lực tương thích với từng
cấp học và từng lĩnh vực giáo dục/môn học/hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
b) Tạo điều kiện để học sinh được phát triển hài hoà cả thể chất và tinh
thần. Thực hiện giáo dục toàn diện: đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, các kỹ
năng cơ bản; rèn luyện, phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết và định
hướng nghề nghiệp. Đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống
cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, kỹ
năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội.
c) Mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực của chương trình mới được

cụ thể hoá bằng chuẩn đầu ra. Đối với giáo dục phổ thông, chuẩn đầu ra bao
gồm hệ thống các phẩm chất, năng lực chung và năng lực chuyên biệt của từng
cấp học, trong đó mỗi năng lực được thể hiện thông qua các tiêu chí, các biểu
hiện cụ thể, được sắp xếp theo một lôgic hợp lý. Đối với các môn học và hoạt
động trải nghiệm sáng tạo, chuẩn đầu ra về kiến thức, kỹ năng cần cụ thể, chi
tiết đến cấp, lớp; chuẩn đầu ra về năng lực cần cụ thể đến mức độ nhất định; làm
cơ sở cho việc lựa chọn và cấu trúc nội dung khi biên soạn sách giáo khoa, xác
định phương pháp và hình thức giáo dục, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục.
d) Xác định nội dung cốt lõi của giáo dục phổ thông trong từng môn học
theo từng cấp học phù hợp với chuẩn đầu ra làm căn cứ cho việc biên soạn sách
giáo khoa, dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục.
2. Nội dung chương trình phải đảm bảo chuẩn hoá, hiện đại hoá, hội
nhập quốc tế; đảm bảo tính hoàn chỉnh, linh hoạt, liên thông thống nhất
trong và giữa các cấp học; tích hợp và phân hoá hợp lý, có hiệu quả
a) Đảm bảo kế thừa những thành tựu của Việt Nam và vận dụng hợp lý
kinh nghiệm quốc tế về phát triển chương trình. Theo tinh thần này, chương
trình mới sẽ chủ yếu là kế thừa, có phát triển chương trình hiện hành ở cấp tiểu
học và cấp trung học cơ sở nhưng thiết kế mới, thay đổi căn bản chương trình
cấp trung học phổ thông; sẽ ít thay đổi về nội dung và hình thức dạy học nhưng
sẽ tăng cường và thay đổi căn bản nội dung và hình thức tổ chức các hoạt động
giáo dục mang tính trải nghiệm sáng tạo.
19
b) Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng đảm bảo tiếp nối từ
chương trình giáo dục mầm non, đồng thời tạo nền tảng cho chương trình giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; đảm bảo liên thông giữa chương trình cấp
học, lớp học, giữa các môn học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo và trong mỗi
môn học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
c) Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực,
phù hợp với lứa tuổi và trình độ nhận thức của học sinh; tăng thực hành, vận
dụng kiến thức vào thực tiễn. Nội dung giáo dục được lựa chọn là những tri thức

cơ bản, đảm bảo vừa hội nhập quốc tế, vừa gắn với thực tiễn Việt Nam trong giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đề cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh. Cải tiến nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục công dân theo hướng coi
trọng các giá trị cơ bản, cốt lõi và nhân văn của đạo lý dân tộc và tinh hoa văn
hoá nhân loại; giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ nhằm phát triển hài hoà
thể chất và tinh thần, phát huy năng khiếu và hứng thú riêng của từng học sinh.
Dạy học ngoại ngữ, tin học theo hướng đáp ứng nhu cầu sử dụng trực tiếp của
người học.
d) Chương trình được xây dựng theo một chỉnh thể, nhất quán từ lớp 1 đến
lớp 12, từ cấp học đến các môn học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Chương
trình được thiết kế thành hai giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản (gồm chương
trình cấp tiểu học và chương trình cấp trung học cơ sở) và giai đoạn giáo dục
định hướng nghề nghiệp (chương trình cấp trung học phổ thông).
đ) Nội dung giáo dục được thiết kế theo hướng tăng cường tích hợp ở giai
đoạn giáo dục cơ bản, phân hoá rõ dần từ cấp tiểu học đến cấp trung học cơ sở
và sâu hơn ở cấp trung học phổ thông.
- Tích hợp cao những lĩnh vực/môn học ở tiểu học và trung học cơ sở để
giảm tải, giảm tính hàn lâm, giảm số lượng môn học bằng cách lồng ghép những
nội dung gần nhau của nhiều môn học vào cùng một lĩnh vực hoặc bổ sung, phát
triển môn học tích hợp đã có trong chương trình hiện hành tạo thành môn học
mới. Nội dung các môn học tích hợp được thiết kế theo hướng vẫn giữ các nội
dung chính của các môn học nhưng lựa chọn, lồng ghép, sắp xếp và bố trí các
chủ đề/đề tài gần nhau của các môn học này để chúng bổ sung, làm sáng tỏ cho
nhau trong quá trình dạy và học; hình thành các chủ đề dạy học liên môn. Ở cả
ba cấp học đều thực hiện tích hợp trong nội bộ môn học, trong đó tích hợp cả
các chủ đề liên quan đến thực tiễn đời sống.
- Phân hoá mạnh ở trung học phổ thông hoàn toàn bằng tự chọn theo định
hướng: Kết thúc cấp trung học cơ sở là học sinh đã hoàn thành giáo dục cơ bản;
lên trung học phổ thông thực hiện phân hóa mạnh gắn với định hướng nghề
nghiệp. Học sinh chỉ học ít môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc, còn lại tự

chọn môn học và chuyên đề học tập theo sở trường và nguyện vọng của cá nhân
trong giới hạn khả năng đáp ứng của nhà trường. Các chuyên đề học tập tự chọn
20
nhằm đáp ứng hiểu biết nâng cao hoặc mở rộng kiến thức các môn học; cung
cấp những hiểu biết và kỹ năng ban đầu như là nhập môn các khoa học hoặc
ngành nghề; giúp học sinh có những thông tin để định hướng và tiếp cận nghề
nghiệp sau trung học phổ thông. Hướng tới việc tổ chức dạy học theo tín chỉ; xét
kết quả, chuyển đổi giữa các bậc học bằng cách tích lũy tín chỉ.
Các trường trung học phổ thông cần bố trí phòng học và giáo viên dạy
theo chuyên đề học tập; phát triển theo hướng “mở”, phối hợp, liên kết với các
trường trên cùng địa bàn, với các đơn vị sản xuất, kinh doanh… để đáp ứng
ngày càng cao nhu cầu học tự chọn của học sinh.
3. Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhằm phát
triển phẩm chất và năng lực học sinh
a) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại;
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng
thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập của người học. Học sinh
tự tìm tòi kiến thức, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức, bồi dưỡng phẩm
chất, năng lực thông qua các hoạt động học tập dưới sự chỉ đạo, tổ chức, hướng
dẫn của giáo viên; học sinh được trình bày và bảo vệ ý kiến của mình, được lắng
nghe và phản biện ý kiến của bạn, nhất là khi tham gia các hoạt động xã hội, trải
nghiệm sáng tạo; khắc phục lối truyền đạt áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
b) Khuyến khích và tạo điều kiện cho việc chuyển hình thức tổ chức giáo
dục từ chủ yếu là dạy học trên lớp sang đa dạng hoá hình thức học tập, đồng thời
với dạy học trên lớp phải chú trọng các hoạt động xã hội và nghiên cứu khoa
học. Cân đối giữa dạy học và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo; giữa
hoạt động tập thể, nhóm nhỏ và cá nhân; giữa dạy học bắt buộc và dạy học tự
chọn để đảm bảo hiệu quả của việc giáo dục đạo đức, lối sống và rèn luyện kỹ
năng của học sinh, vừa đảm bảo chất lượng giáo dục chung, vừa phát triển tiềm
năng của cá nhân người học.

c) Tăng cường hiệu quả của các phương tiện dạy học, đặc biệt là công
nghệ thông tin và truyền thông để hỗ trợ đổi mới việc lựa chọn và thiết kế nội
dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Tạo điều kiện cho học sinh
được học tập qua các nguồn học liệu đa dạng, phong phú trong xã hội, nhất là
qua Internet Từ đó phát triển năng lực tự học và chuẩn bị tâm thế cho học tập
suốt đời.
4. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá
chất lượng giáo dục theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh
a) Thi, kiểm tra, đánh giá có vai trò kép: tạo động lực, điều chỉnh hoạt
động dạy, hoạt động học, hoạt động quản lý giáo dục và xác nhận sự tiến bộ và
thành tích học tập theo chuẩn đầu ra được quy định trong chương trình giáo dục.
Vì vậy, đánh giá chất lượng giáo dục phải phản ánh mức độ đạt chuẩn chương
trình (của cấp học, môn học); phải cung cấp thông tin đúng, khách quan, kịp thời
21
cho việc điều chỉnh hoạt động dạy, hướng dẫn hoạt động học nhằm nâng cao dần
năng lực học sinh.
b) Thực hiện đa dạng phương pháp đánh giá như quan sát, vấn đáp, kiểm
tra trên giấy, trình bày báo cáo, dự án học tập Phối hợp sử dụng kết quả đánh
giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người
dạy với tự đánh giá của học sinh; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia
đình và của xã hội. Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học
phổ thông theo hướng gọn nhẹ, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo
đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc
tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
c) Ngoài việc đánh giá năng lực của các cá nhân học sinh, bổ sung thêm
các hình thức đánh giá chất lượng giáo dục ở cấp quốc gia, cấp địa phương và
tham gia các kỳ đánh giá của quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp
cải thiện chất lượng giáo dục phổ thông.
5. Quản lý quá trình xây dựng và thực hiện chương trình đảm bảo
tính khả thi, linh hoạt, phù hợp địa phương và đối tượng học sinh

a) Chương trình phải đảm bảo tính khả thi, phù hợp với sự phát triển năng
lực đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của trường phổ
thông. Những trường chưa đầy đủ điều kiện, về cơ bản vẫn có thể vận dụng thực
hiện được, cho dù kết quả có thể hạn chế trong một vài năm đầu; những năm sau
phải đủ điều kiện để triển khai có hiệu quả chương trình mới.
b) Nội dung giáo dục phải phù hợp với đối tượng học sinh, làm cơ sở cho
việc liên thông và phân luồng trong hệ thống giáo dục. Trên cơ sở chuẩn đầu ra
và nội dung cốt lõi của chương trình giáo dục phổ thông, xác định mục tiêu, nội
dung giáo dục của trường trung học phổ thông chuyên (giáo dục toàn diện đồng
thời phát triển cao nhất năng khiếu riêng của mỗi học sinh), trường trung học
phổ thông kỹ thuật (đảm bảo nội dung cốt lõi chương trình giáo dục phổ thông
đồng thời đạt trình độ sơ cấp hoặc trung cấp nghề) và chương trình giáo dục
thường xuyên (bổ túc văn hoá - đảm bảo nội dung cốt lõi chương trình giáo dục
phổ thông, phát huy và phù hợp với kinh nghiệm cuộc sống và công việc của
học viên).
c) Nội dung giáo dục phải phù hợp với thời lượng dạy học: ở cấp tiểu học,
học cả ngày ở trường nhưng có hướng dẫn vận dụng cho những cơ sở giáo dục
chỉ có điều kiện dạy học một buổi trong ngày; ở cấp trung học cơ sở và cấp trung
học phổ thông, học một buổi trong ngày nhưng có hướng dẫn vận dụng cho
những cơ sở giáo dục có điều kiện dạy học hai buổi trong ngày.
d) Dựa trên mục tiêu, chuẩn và nội dung chương trình thống nhất toàn
quốc, đảm bảo quyền linh hoạt của các địa phương và nhà trường. Chuyển từ
việc các nhà trường thực hiện rập khuôn chương trình sang trao quyền cho các
địa phương tự chủ trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường.
22
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng chương trình giáo dục phổ thông
trong đó có quy định chuẩn đầu ra, những nội dung cốt lõi và yêu cầu bắt buộc
(phần cứng) đồng thời dành thời lượng (khoảng 20%) để các địa phương và nhà
trường vận dụng, bổ sung những nội dung mang tính đặc thù về lịch sử, văn hóa và
kinh tế - xã hội của địa phương và điều chỉnh kế hoạch giáo dục cho phù hợp với

điều kiện của mình. Dựa trên chương trình do cấp trên quy định, nhà trường và giáo
viên được quyền tự chủ, sáng tạo về nội dung, phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh
giá chất lượng giáo dục; các cơ quan quản lý giáo dục địa phương (sở/phòng giáo
dục và đào tạo, phòng giáo dục và đào tạo) hướng dẫn, giám sát, các nhà trường
quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục hàng năm của nhà trường.
6. Thực hiện chủ trương một chương trình nhiều sách giáo khoa
Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn, thẩm định và ban hành chương
trình giáo dục phổ thông để sử dụng thống nhất trong toàn quốc.
Công khai các yêu cầu, tiêu chí đánh giá sách giáo khoa để làm căn cứ
cho việc biên soạn, thẩm định, phê duyệt và sử dụng sách giáo khoa. Tất cả sách
giáo khoa phải được Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định và phê duyệt trước khi
sử dụng trong các cơ sở giáo dục phổ thông; có thể có nhiều sách giáo khoa
được phát hành sau khi thẩm định. Các nhà trường lựa chọn sách giáo khoa phù
hợp với điều kiện của mình trong số sách giáo khoa đã được Bộ Giáo dục và
Đào tạo thẩm định, phê duyệt.
Đa dạng hoá các tài liệu dạy học; giáo viên và học sinh có thể vận dụng tư
liệu từ nhiều nguồn khác nhau, nhiều cách tiếp cận, học tập khác nhau để đạt
được mục tiêu và chuẩn của chương trình. Phát triển các loại tài liệu hướng dẫn,
hỗ trợ dạy và học phù hợp với từng loại đối tượng, đáp ứng sự đa dạng vùng
miền; đặc biệt chú trọng các tài liệu hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số và học sinh
sống ở các vùng có điều kinh kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải
đảo, học sinh khuyết tật.
Tổ chức nghiên cứu mô hình sách giáo khoa điện tử để từng bước biên
soạn, thử nghiệm và sử dụng ở những nơi có đủ điều kiện.
IV. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
Trên cơ sở mục tiêu, phạm vi, nguyên tắc và nội dung đổi mới chương
trình, sách giáo khoa, Đề án có các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
1. Chuẩn bị điều kiện để xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo
khoa mới
1.1. Tiếp tục tổng kết kinh nghiệm của Việt Nam và tiếp tục nghiên cứu,

cập nhật kinh nghiệm quốc tế về phát triển chương trình, biên soạn sách giáo
khoa và quản lý việc thực hiện chương trình, sử dụng sách giáo khoa
a) Tiếp tục việc tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm của Việt Nam
về xây dựng, phát triển chương trình, biên soạn sách giáo khoa; quản lý việc
thực hiện chương trình, sử dụng sách giáo khoa và các tài liệu dạy học…
23
b) Tiếp tục nghiên cứu, học tập kinh nghiệm về phát triển chương trình,
biên soạn sách giáo khoa; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục;
cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục trường học… của một số nước trên thế giới có
nhiều điểm tương đồng với Việt Nam tại thời điểm bắt đầu thực hiện đổi mới,
đến nay đã và đang đổi mới thành công.
c) Tiếp tục triển khai nhiều công việc đã và đang thực hiện bước đầu
thành công trong những năm gần đây nhằm chuẩn bị cho việc đổi mới của
chương trình sau năm 2015 như:
- Triển khai thực hiện Đề án dạy học ngoại ngữ theo yêu cầu sử dụng thiết
thực của người học;
- Triển khai phương pháp dạy Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục, đảm
bảo học sinh đọc, viết đúng và nhanh, không bị quên;
- Triển khai áp dụng phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” đối với các
môn khoa học tự nhiên, bảo đảm học sinh được học theo phong cách nghiên cứu
khoa học qua trải nghiệm thực tế của bản thân;
- Triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trung học dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, giảng viên và các nhà khoa học;
- Đổi mới nội dung, phương pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục
phổ thông, các kỳ thi tốt nghiệp và tuyển sinh đại học; Tham dự các kỳ đánh giá
quốc tế trên diện rộng (PISA, PASEC) theo tinh thần Nghị quyết 29;
- Triển khai mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN), học sinh được
hướng dẫn lĩnh hội kiến thức qua tự học và áp dụng kiến thức vào thực tiễn;
được tự quản các hoạt động của trường, của lớp;
- Triển khai thực hiện thí điểm phát triển kế hoạch giáo dục nhà trường,

bảo đảm quyền tự chủ của nhà trường, phát huy tính sáng tạo của giáo viên và ban
giám hiệu các trường trong quá trình tổ chức thực hiện chương trình giáo dục;
- Triển khai thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”, tạo cơ chế xã hội hoá để đẩy mạnh các hoạt động giáo
dục toàn diện, nhất là giáo dục đạo đức, nghệ thuật, thể thao, rèn luyện kỹ năng
của học sinh;
- Triển khai thí điểm thông qua giáo dục di sản nhằm đổi mới hình thức tổ
chức dạy học, tăng cường hoạt động trải nghiệm của học sinh;
- Đổi mới quy định việc bồi dưỡng thường xuyên giáo viên phổ thông
theo yêu cầu chung, đồng thời đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân giáo viên, ứng
dụng công nghệ thông tin nhằm phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng của
giáo viên.
Thực tiễn đổi mới giáo dục của các nhà trường phổ thông thông qua các
hoạt động trên cho thấy đội ngũ giáo viên có khả năng thích ứng, tiếp thu kiến
thức, kỹ năng mới để dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh.
24
1.2. Pháp chế hoá các hoạt động tổ chức, chỉ đạo và giám sát, đánh giá
việc thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa
a) Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia Đổi mới chương trình, sách giáo khoa
và các Ban Chỉ đạo Đổi mới chương trình, sách giáo khoa cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương; thành lập ở cấp quốc gia: Ban Những vấn chung về
chương trình, sách giáo khoa; Ban Xây dựng chương trình tổng thể; các ban xây
dựng chương trình môn học (trong đó mỗi ban đều có tổng chủ biên chương
trình từ lớp 1 đến lớp 12); các Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình, sách
giáo khoa; ban hành Quy định về tiêu chí lựa chọn các thành viên, chức năng và
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức được thành lập.
b) Xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật:
- Quy định về Tiêu chí đánh giá chương trình và quy trình biên soạn,
chỉnh sửa/phát triển chương trình.
- Quy định về Những vấn đề chung, cấu trúc và Tiêu chí đánh giá sách

giáo khoa.
- Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động, tiêu chuẩn,
số lượng và cơ cấu thành viên của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình và
sách giáo khoa.
- Quy định về nội dung và định mức chi các hoạt động của Đề án.
1.3. Phát triển đội ngũ tác giả biên soạn chương trình và sách giáo khoa
mới; tăng cường lực lượng nghiên cứu, thẩm định, đánh giá và hoàn thiện
chương trình, sách giáo khoa
a) Huy động tối đa trí tuệ của những người am hiểu và có kinh nghiệm về
giáo dục phổ thông tham gia xây dựng, góp ý chương trình, sách giáo khoa.
Tăng cường năng lực cho đội ngũ tác giả chương trình, sách giáo khoa và người
tham gia thẩm định chương trình, sách giáo khoa. Tổ chức cho các thành viên
này tham dự các khoá tập huấn, hội thảo ở trong nước, nước ngoài về xây dựng,
triển khai và đánh giá chương trình, sách giáo khoa…
b) Tăng cường lực lượng nghiên cứu về việc phát triển chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông.
2. Xây dựng chương trình mới
Chương trình mới gồm chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (sau
đây gọi là chương trình tổng thể) và chương trình của từng môn học, hoạt
động trải nghiệm sáng tạo từ lớp 1 đến lớp 12 (sau đây gọi chung là chương
trình môn học).
2.1. Xây dựng chương trình tổng thể
a) Dự thảo chương trình tổng thể, bao gồm:
25

×