Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

MỘT số vấn đề về CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.92 KB, 15 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI Ở NƯỚC TA
I. Lược qua quá trình nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là vấn đề
lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp đến đường lối
chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đây là vấn đề
trung tâm, cốt lõi trong đường lối cách mạng nước ta; nó chi phối toàn bộ
các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh - quốc
phòng, xây dựng Đảng của Đảng ta. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề rất
rộng lớn và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau và hiện vẫn còn
không ít nội dung phải tiếp tục nghiên cứu, cắt nghĩa, lý giải, trả lời, cả trên
định hướng chung cũng như trên định hướng cụ thể cho từng lĩnh vực. Cuộc
đấu tranh tư tưởng diễn ra gay gắt từ nhiều năm nay chủ yếu cũng trên vấn
đề này. Trong nội bộ chúng ta có nhiều ý kiến khác nhau cũng xung quanh
vấn đề này.
Đảng ta ngay khi mới ra đời, trong Cương lĩnh (năm 1930) đã khẳng định
mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của nước ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Từ đó đến nay, hơn 70 năm chúng ta luôn luôn kiên định và quyết tâm
phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng đó. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào thì qua mỗi chặng đường
cách mạng chúng ta mới có được những nhận thức ngày càng sâu sắc hơn,
đầy đủ hơn.
Năm 1960, Đại hội III của Đảng đã xác định đường lối cơ bản xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta nhằm "đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội"; và tiếp sau đó nhiều Hội nghị
Trung ương và Bộ Chính trị có sự bổ sung, phát triển.
Năm 1976, Đại hội IV của Đảng đã phát triển một bước đường lối của Đại
hội III, vạch ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Đó là đường lối : “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng : cách


mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng
và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới xã hội chủ nghĩa "
Tuy nhiên, trong việc thiết kế các mô hình cụ thể và tổ chức chỉ đạo thực
hiện, chúng ta đã phạm phải một số sai lầm và khuyết điểm. Đó là những sai
lầm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã phân tích nguyên nhân sâu xa
của những sai lầm đó là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động
đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ
nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm nhận thức
đúng hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đại hội đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên, thừa nhận sự tồn
tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh
doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những
hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể
và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức
mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển
quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội VII của Đảng họp vào tháng 6-1991. Lúc này chế độ xã hội chủ
nghĩa ở các nước Đông Âu đã bị sụp đổ và Liên Xô đã đi chệch hướng cải
tổ, đang có nguy cơ đi đến tan rã. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân ta đã có những biểu hiện dao động, thậm chí có người muốn “đi con
đường khác”. Các thế lực thù địch thì dấn tới phản công quyết liệt vào các

nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam. Dựa trên cơ sở tổng
kết việc thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, Đại hội đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Cương lĩnh khẳng định chúng ta kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, xác định 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và 7 phương
hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau đó, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung
ương và Bộ Chính trị tiếp tục bổ sung, phát triển và cụ thể hóa các quan
điểm, phương hướng cơ bản nêu trong Cương lĩnh và Chiến lược. Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (tháng 1-1994) đã đề ra những
biện pháp đẩy tới việc thực hiện công cuộc đổi mới, đồng thời chỉ ra 4 nguy
cơ lớn đối với nước ta (nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ đi chệch
hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng, quan liêu; âm mưu, hành động
“Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch).
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) trên cơ sở phân tích, đánh giá tình
hình đã rút ra kết luận : nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cơ
bản hoàn thành nhiệm vụ của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, đất nước
chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Đại hội nhận định : “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta ngày càng được xác định rõ hơn"; "xét trên tổng thể, việc hoạch định và
thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa".
Như vậy là, đến trước Đại hội IX của Đảng, nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta theo tinh thần đổi mới đã
được xác lập và từng bước được bổ sung, hoàn thiện dần. Đó là kết quả của
cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ,
kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân ta trong nhiều thập kỷ.
Nó được rút ra từ thực tiễn và được thể hiện đậm nét ở các Nghị quyết của
Đại hội Đảng, của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đáng chú ý là Nghị

quyết hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) tháng 8-1979 với những chủ trương
làm cho sản xuất "bung ra"; Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa IV) năm 1981 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao
động trong các HTX nông nghiệp; các Quyết định 25/CP, 26/CP của Thủ
tướng Chính phủ năm 1982 về nhiều nguồn cân đối và "Kế hoạch ba phần" ;
Nghị quyết Đại hội V (tháng 3-1982) với việc xác định lại thứ tự ưu tiên
trong phát triển kinh tế, khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa V, tháng 6-1985) về giá, lương, tiền; kết
luận của Bộ Chính trị (khóa V, tháng 8-1986) về ba quan điểm kinh tế lớn;
Nghị quyết Đại hội VI (tháng 12-1986) về đổi mới toàn diện đất nước;
Cương lĩnh và Chiến lược được thông qua tại Đại hội VII (tháng 6-1991);
chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định tại Đại
hội VIII (tháng 6-1996) v.v Tuy nhiên, cũng còn không ít vấn đề chưa đủ
sáng tỏ, chưa kết luận được, thực tiễn còn đang vận động, có nhiều việc phải
vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Đại hội IX của Đảng có nhiệm vụ phải tiếp tục
tổng kết thực tiễn, bổ sung, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hoàn thiện thêm
một bước những nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Vậy Đại hội IX của Đảng đã bổ sung, làm sáng rõ thêm những vấn đề gì ?
II. Những nội dung chủ yếu được bổ sung, phát triển trong văn kiện
đại hội IX của Đảng.
Vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
được đề cập trong toàn bộ các văn kiện, nhưng tập trung nhất ở Báo cáo
Chính trị, trong đó đặc biệt cô đọng và trực tiếp là ở phần III. Phần III chỉ có
6 trang, nhưng chứa đựng nhiều nội dung hàm xúc cực kỳ quan trọng, làm rõ
thêm một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đây không phải là những vấn đề lý luận thuần túy, mang tính
học thuật, mà là những quan điểm lý luận - chính trị, đặt nền móng cho toàn
bộ đường lối chung của cách mạng Việt Nam.
1. Về mục tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng.
Đại hội IX chỉ rõ : Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua

15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông
qua tại Đại hội VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng
rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội một lần nữa
khẳng định : Cương lĩnh (năm 1991) là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của
sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong những thập kỷ
tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Sự khẳng định này là rất cần thiết, nhất là vào thời điểm hiện
nay, khi đất nước cùng nhân loại bước vào thế kỷ XXI, trên thế giới có
những diễn biến rất nhanh và phức tạp, trong nước cũng đứng trước nhiều
nguy cơ và thách thức mới.
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ, mục tiêu cao cả, thiêng liêng, bất di bất dịch
của nhân dân ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, đi lên
chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã
hội gắn liền với độc lập dân tộc. Đây là vấn đề nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước ta. Bởi vì độc lập dân tộc là
điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
khách quan theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh
sau bao nhiêu năm lăn lộn trong đấu tranh cách mạng, từ tổng kết thực tiễn
mới đi đến được kết luận : “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”; “Chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai
cấp công nhân toàn thế giới".
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát triển như nước ta
là quá trình phấn đấu đầy khó khăn gian khổ, chưa có tiền lệ trong lịch sử;
có những khuyết điểm và sai lầm là điều khó tránh khỏi. Cần phải thừa nhận
và tìm cách để khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm ấy. Nhưng
cũng cần khẳng định rằng những khuyết điểm, sai lầm ấy không thuộc về

bản chất của chủ nghĩa xã hội; không vì có khuyết điểm, sai lầm trong một
số chủ trương thuộc về chỉ đạo thực hiện cũng như sự đổ vỡ của một mô
hình chủ nghĩa xã hội hiện thực nào đó mà phủ nhận chủ nghĩa xã hội, xa rời
mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao
dộng làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu ; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay cũng có thể diễn đạt mục tiêu phấn đấu của nhân
dân ta là "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh". Như vậy, so với các Đại hội trước, Đại hội IX đã
bổ sung thêm từ "dân chủ" vào trong mục tiêu, để phản ánh đầy đủ hơn, rõ
ràng hơn nhận thức của chúng ta về vấn đề dân chủ, vấn đề bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
Thực ra, không phải lâu nay chúng ta coi nhẹ vấn đề dân chủ. Bác Hồ đã
nhiều lần nói : "Nước ta là nước dân chủ"; "Xây dựng một nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Quốc hiệu của nước ta
trong nhiều thập kỷ là "Nước Việt Nam dân chủ, cộng hòa". Đảng ta đã từng
trăn trở tìm tòi xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Gần đây, Cương lĩnh năm 1991 đã ghi rõ : "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ", "Xây
dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người", "Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta là
nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa".
Điều lệ của Đảng cũng đã ghi : "Mục đích của Đảng ta là xây dựng nước
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Sau

Đại hội VII có nêu câu "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh" (không có từ "dân chủ") vì lúc đó quan
niệm rằng nói công bằng, văn minh đã bao hàm ý dân chủ. Đến Đại hội VIII
có ý kiến đề nghị nên thêm từ "dân chủ" vào mục tiêu này, nhưng không
được Đại hội chấp nhận vì cho rằng câu này lâu nay đã đi vào cuộc sống, ai
cũng thuộc, cũng nhớ, không nên thay đổi. Vả lại, nếu thêm vào thì vừa dài,
vừa có thể gây hiểu lầm là chúng ta chịu ảnh hưởng của dân chủ tư sản hoặc
bị sức ép nào từ phía bên ngoài mà phải thêm. Nay Đại hội IX quyết định bổ
sung từ “dân chủ” vào mục tiêu phấn đấu của chúng ta là cần thiết và được
đa số cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình.
2. Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Báo cáo Chính trị khẳng định mục tiêu lý tưởng của cách mạng, đồng thời
cũng nói rõ chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nói như thế để thấy chúng ta đang ở đâu, đang ở trình độ phát triển nào, để
có quyết sách đúng. Nước ta còn nghèo, lực lượng sản xuất kém phát triển,
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn, cho nên phải tập trung sức phát
triển lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh
tế, huy động mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội; không nên lấy mục tiêu xa để áp đặt bắt thực tiễn phải khuôn
theo khi chưa có đủ điều kiện.
Báo cáo Chính trị chỉ rõ con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản, nhất là về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đồng thời phải
từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; chống tư tưởng duy lực lượng sản xuất, chủ nghĩa
kỹ trị.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến

đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa
"cái xã hội chủ nghĩa" và "cái không phải xã hội chủ nghĩa", phải sử dụng
một số hình thức trung gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có
tính chất quá độ. Ví dụ : chúng ta phải chấp nhận còn nhiều hình thức sở hữu
về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội
khác nhau.
3. Về mô hình kinh tế tổng quát.
Như chúng ta đều biết, từ Đại hội VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương cho
phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế, khai thác mọi khả năng của các thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một
giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần giải phóng mọi khả năng để phát
triển lực lượng sản xuất.
Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (tháng 3-1989) phát triển thêm một
bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm
nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi "chính sách kinh tế nhiều thành
phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên
chủ nghĩa xã hội".
Đến Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng
định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta. Cương lĩnh của Đảng khẳng định : “Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Nhưng lúc đó cũng mới nói kinh tế
hàng hóa, cơ chế thị trường, chưa chính thức dùng khái niệm "kinh tế thị
trường". Ở Trung Quốc cũng phải đến Đại hội Đảng lần thứ 14 (1992) mới
nêu vấn đề kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Lần này Đại hội IX của Đảng
đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Nội hàm
của khái niệm này thực chất vẫn là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng được diễn đạt gọn hơn, nói rõ được mô
hình kinh tế tổng quát ở nước ta trong thời kỳ quá độ.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế
của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan
liêu bao cấp, nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do, tức
là không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, như trên đã nói, chúng ta còn
đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen và đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố chủ nghĩa xã
hội.
Vậy đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
gì ? Báo cáo Chính trị đã nêu một số đặc trưng rất cơ bản. Theo nhiều nhà
nghiên cứu khoa học thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt : sở hữu, tổ
chức quản lý và phân phối. Nếu so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những điểm khác căn
bản sau đây :
- Về mục đích : Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phục vụ lợi ích các
nhà tư bản, xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa tư bản, bảo vệ chế độ tư
bản, phát triển chủ nghĩa tư bản; bây giờ có điều chỉnh gì cũng là để bảo vệ
chủ nghĩa tư bản. Còn chúng ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong những chặng đường đầu của thời
kỳ quá độ, lực lượng sản xuất còn yếu kém, là để phát triển lực lượng sản
xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phục vụ và nâng
cao đời sống nhân dân, bảo đảm từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Ta dùng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương pháp
quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần
năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng là để đi lên chủ nghĩa xã hội, không để
cho thị trường tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa.
- Về chế độ sở hữu : Dưới chủ nghĩa tư bản, nền tảng của chế độ sở hữu là
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Còn ở nước ta hiện nay, cũng thực hiện đa
dạng hóa các hình thức sở hữu nhưng trên cơ sở chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu.
- Các thành phần kinh tế : Dưới chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế có nhiều
thành phần (có cả kinh tế nhà nước, liên doanh, kinh tế tư bản nhà nước )
nhưng do nhà nước tư sản quản lý và do tư bản tư nhân chi phối, kinh tế tư
nhân là chủ đạo. Còn ở nước ta hiện nay cũng có nhiều thành phần kinh tế,
trong đó có cả kinh tế tư bản tư nhân, nhưng do nhà nước xã hội chủ nghĩa
quản lý, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
- Về chế độ quản lý : Trong thời đại ngày nay, kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều cần có sự
quản lý của Nhà nước, không muốn để cho bàn tay vô hình là thị trường chi
phối. Tư bản cũng phải làm thế, thậm chí ở nhiều nước còn can thiệp khá
mạnh. Điều khác nhau ở đây là ở bản chất hai nhà nước. Nhà nước của họ là
nhà nước tư sản, dân chủ tư sản, bảo vệ lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản,
những người có của. Còn của chúng ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa thật sự
của dân, do dân, vì dân và do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của đại
đa số nhân dân lao động. Về quản lý thì xu thế của kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa chủ yếu vẫn là tự do cạnh tranh, vẫn là "cá lớn nuốt cá bé", hình
thành các công ty siêu quốc gia, xuyên quốc gia, các tập đoàn lớn cạnh tranh
nhau quyết liệt. Còn của ta có sự quản lý của Nhà nước để kết hợp tính định
hướng và cân đối của kế hoạch với tính năng động và nhạy cảm của thị
trường. Trong các Nghị quyết Đại hội VII và Đại hội VIII đều nói thị trường
vừa là đối tượng, vừa là căn cứ để chúng ta kế hoạch hóa. Chúng ta sử dụng
cơ chế thị trường không phải để đoạn tuyệt với kế hoạch mà là để thực hiện
kế hoạch một cách tổng thể hơn, tốt hơn. Sự quản lý của Nhà nước là để phát

huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Đối với chúng
ta, cơ chế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng, không phải là mục
đích, mà chỉ là phương tiện. Mục đích của ta không phải là chạy theo lợi
nhuận tối đa cho một thiểu số người, mà chính là để xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
- Về chế độ phân phối : Cả hai nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều có nhiều hình thức phân
phối. Sự khác nhau là ở chỗ kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phân phối
chủ yếu theo tư bản, phục vụ lợi ích tối đa của các nhà tư bản; còn chúng ta
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời có
các hình thức phân phối khác, vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm
phúc lợi cơ bản.
- Về chính sách xã hội : Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thời kỳ hoang
sơ ra đời bằng tước đoạt, bằng cướp bóc, tích tụ ruộng đất, dồn dân. Các-
Mác nói chủ nghĩa tư bản ra đời bằng tích lũy nguyên thủy thấm đầy máu và
nước mắt đến tận lỗ chân lông của nó. Ngày nay chủ nghĩa tư bản có sự điều
chỉnh nhất định, văn minh hơn, hiện đại hơn và cũng chú ý một số chính
sách xã hội, (có lẽ vì thế mà có người đã gọi chủ nghĩa tư bản ngày nay là
"chủ nghĩa tư bản nhân dân", "chủ nghĩa tư bản xã hội"). Nhưng xét về bản
chất thì sự điều chỉnh đó không giải quyết được mâu thuẫn cơ bản, từ nguồn
gốc chế độ sở hữu của chủ nghĩa tư bản; đây chỉ là điều chỉnh buộc các nhà
tư bản phải làm để bảo vệ, duy trì, kéo dài sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản,
đại đa số nhân dân lao động vẫn sống khổ sở. Ta vẫn thường nghe nói thế
giới ngày nay 20% người giàu nhất chiếm 80% của cải, 80% số người còn
lại chỉ có 20% của cải Chúng ta chủ trương làm giàu nhưng đó là làm giàu
hợp pháp; cùng với làm giàu phải xóa đói giảm nghèo, hạn chế sự phân cực
quá đáng giàu nghèo. Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo
là khó tránh khỏi, phải chấp nhận, nhưng phải hạn chế nó. Phải chăm lo tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong quá trình phát triển kinh tế chứ không
phải đến khi kinh tế phát triển mới lo chính sách xã hội. Nhiều nước trên thế

giới đang đòi nhà nước dành 20% ngân sách cho chính sách xã hội thì ở ta từ
lâu tỷ lệ đó đã là 28%; chính sách xóa đói giảm nghèo của ta được thế giới
rất hoan nghênh. Chúng ta phải giữ gìn đạo đức và bản sắc văn hóa dân tộc,
xây dựng quan hệ giữa con người với con người có tình thương yêu lẫn
nhau; không phải tất cả chỉ vì tiền.
Đó là các điểm giống nhau và khác nhau giữa kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương của
Đảng ta về vấn đề này là sự thể hiện rõ tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Đây là điểm mới và là mô hình kinh tế tổng quát của chúng ta trong
thời kỳ quá độ. Đây cũng là một điểm quan trọng làm sáng tỏ hơn nội dung
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trên cơ sở mô hình này, Đại hội IX đã xác định đường lối phát triển kinh
tế của nước ta trong thời kỳ quá độ là : Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi
liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an
ninh.
4. Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế.
Đây là vấn đề cơ bản và quan trọng trong chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng. Sở hữu về tư liệu sản
xuất là yếu tố hàng đầu quyết định các mối quan hệ sản xuất, quyết định chế
độ phân phối và chế độ quản lý. Quan hệ sản xuất, đến lượt nó, với tư cách
là hạ tầng cơ sở, lại quyết định thượng tầng kiến trúc. Vì thế, vấn đề sở hữu
về tư liệu sản xuất từ xưa đến nay luôn luôn là một trong những vấn đề cơ

bản và sâu xa của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Khi nói chế độ sở hữu là nói chung, với hàm nghĩa là cơ sở của chế độ
kinh tế. Loài người đã trải qua nhiều chế độ sở hữu tư liệu sản xuất phát
triển từ thấp đến cao, nhưng tựu trung chỉ có hai chế độ sở hữu cơ bản. Đó là
sở hữu công cộng (còn gọi là sở hữu xã hội) và sở hữu tư nhân; nhiều khi
gọi tắt là công hữu và tư hữu. Mỗi chế độ sở hữu lại có nhiều trình độ, nhiều
hình thức biểu hiện cụ thể khác nhau. Chế độ công hữu có các trình độ và
hình thức cụ thể như : sở hữu công xã, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
Chế độ tư hữu cũng có nhiều trình độ, nhiều hình thức cụ thể như : sở hữu
của nông dân cá thể, sở hữu của người sản xuất hàng hóa nhỏ, sở hữu của
địa chủ, của nhà tư bản, v.v.
Hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Mà
xã hội xã hội chủ nghĩa, như Cương lĩnh năm 1991 xác định, là một xã hội
có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta,
như Đại hội VII của Đảng chỉ rõ, còn tồn tại ba hình thức (hoặc loại hình) sở
hữu cơ bản : sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Các hình
thức sở hữu có thể đan xen, hỗn hợp. Trên cơ sở các hình thức sở hữu cơ bản
đó, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh
doanh đa dạng.
Đại hội VIII đã xác định ở nước ta có 5 thành phần kinh tế : kinh tế nhà
nước; kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã; kinh tế tư bản nhà nước;
kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân.
Xuất phát từ tình hình thực tế những năm gần đây, Đại hội IX quyết định
bổ sung thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
Như vậy, hiện nay ở nước ta có các thành phần kinh tế như sau : kinh tế
nhà nước; kinh tế tập thể trong đó nòng cốt là hợp tác xã; kinh tế cá thể, tiểu
chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Các thành phần kinh tế này có thể có các hình thức sản xuất,

kinh doanh đan xen, hỗn hợp, vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhau trong cùng
một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Tất cả các thành phần kinh tế đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Sở dĩ bổ sung thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là vì
thực tế trong những năm gần đây bộ phận đầu tư kinh doanh của nước ngoài
chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Trong 10 năm (1991 - 2000) các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phát triển khá nhanh. Giá trị sản xuất bình quân tăng 22% một năm. Trong 5
năm (1996 - 2000) vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài được thực hiện
khoảng 10 tỉ USD, chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công
nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP. Thành
phần kinh tế này không đồng nhất với các thành phần kinh tế trong nước về
cả mục tiêu và cơ chế vận hành, cần vừa có chính sách thu hút mạnh hơn,
vừa phải quan tâm theo dõi, phân tích, điều chỉnh để bảo đảm mối tương
quan hợp lý với các thành phần kinh tế trong nước và lợi ích của đất nước.
Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này có thể 100% vốn nước ngoài
(một thành viên hoặc nhiều thành viên), có thể liên kết, liên doanh với doanh
nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta, do vậy cũng không
thể xếp tất cả vào thành phần kinh tế hỗn hợp hoặc thành phần kinh tế tư bản
nhà nước.
Việc xác định các loại hình sở hữu và phân định các thành phần kinh tế là
rất cần thiết để làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển nền kinh
tế nói chung, cho việc phát triển từng thành phần kinh tế nói riêng nhằm
không phải để phân biệt đối xử mà là để có chính sách đúng đắn, giải phóng
mọi lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển phù hợp với định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội lần này còn nói rõ : xây dựng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu

sản xuất là một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước,
nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn mà tìm tòi, thử nghiệm để
xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung
với những bước đi vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây
dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát
triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã
hội.
5. Về đấu tranh giai cấp và động lực phát triển đất nước.
Những năm gần đây, trong đời sống thường ngày dường như chúng ta ít
nói đến đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa. Trong cán bộ, đảng viên ta cũng có cách hiểu không rõ và
chưa thống nhất về vấn đề đấu tranh giai cấp. Lần này Đại hội IX lại đưa ra
chủ đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc ", nhấn mạnh động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân, như vậy phải chăng chúng ta coi
nhẹ đấu tranh giai cấp ?
Thực tế cho thấy, đã đề cập đến con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong
thời kỳ quá độ thì không thể không đụng đến vấn đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp; hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn tồn tại một cách
khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Không thể xóa nhòa ranh giới
giữa các giai cấp, không thể phủ nhận đấu tranh giai cấp, cũng không nên
hiểu đấu tranh giai cấp là điều hòa lợi ích giữa các giai cấp. Nhưng đấu tranh
giai cấp ở nước ta hiện nay cần được nhận thức cho đúng, nó diễn ra trong
điều kiện mới, với những nội dung mới và bằng những hình thức mới. Bởi
vì, cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội, cơ cấu giai cấp, nội
dung, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều; mối
quan hệ giữa các giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự nghiệp xây
dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước không còn như trước đây.
Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối
quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu

dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu
chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống bóc lột,
chống nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển.
Vì vậy, trong Báo cáo Chính trị khẳng định : Nội dung chủ yếu của đấu
tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã
hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư
tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh
phúc.
Đồng thời Báo cáo Chính trị cũng khẳng định : Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân
với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội.
Hai mặt đó không mâu thuẫn nhau, trái lại, thống nhất biện chứng với
nhau. Đảng ta luôn luôn coi việc giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân
là truyền thống quý báu của dân tộc, là đường lối chiến lược, là nguồn sức
mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng này thấm
sâu vào tất cả các văn kiện Đại hội và được nêu thành tiêu đề của Báo cáo
Chính trị và cũng là chủ đề của Đại hội. Chủ đề của Đại hội IX là phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội chỉ rõ rằng, thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp,

tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước,
người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã
nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam, dù sống trong nước
hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền
thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu
giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau,
không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến và phân
biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần; xây dựng tinh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.
Đây là một nội dung quan trọng, nói đậm nét trong Báo cáo Chính trị trình
Đại hội và được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ.
6. Về nền tảng tư tưởng của Đảng.
Trong Cương lĩnh thông qua tại Đại hội VII đã khẳng định : Chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động của Đảng. Đây là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và
là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Nó được thực tiễn vừa qua chứng minh sự khẳng định đó là hoàn toàn chính
xác và đúng đắn.
Với kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, Đại hội IX nói rõ hơn
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh để định hướng cho toàn
Đảng, toàn dân học tập và vận dụng thực hiện. Đại hội xác định : Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức
mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của
nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế
và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân

dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; về chăm
lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Nói rõ tư tưởng Hồ Chí Minh tuyệt nhiên không có nghĩa là để hạ thấp
chủ nghĩa Mác -
Lê-nin; càng không phải để đối lập hoặc tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh
với chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là tinh hoa văn hóa dân tộc, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, cộng với tư chất, cốt cách, phong cách
riêng của Hồ Chí Minh.
Có thể nói, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hai nhưng
là một, là một nhưng là hai. Đó là quan hệ rất biện chứng.
*
* *
Trên đây là một số vấn đề cơ bản liên quan trực tiếp đến lý luận và thực
tiễn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được Đại hội IX của
Đảng làm sáng tỏ thêm. Với những kết quả này, rõ ràng Đại hội IX đã thực
hiện được một yêu cầu rất quan trọng là làm sáng tỏ hơn nữa về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; chỉ ra những điều đã
rõ, đã sáng tỏ hơn, và cả những điều còn phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn; vừa khẳng định Cương lĩnh, đường lối, quan điểm đúng đắn của
Đảng đã được vạch ra tại các Đại hội trước, trong các Nghị quyết của Trung
ương, của Bộ Chính trị, vừa bổ sung, phát triển, hoàn thiện thêm một bước
đường lối, quan điểm của Đảng.
Điều này cũng góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của

những người cộng sản và nhân dân thế giới. Tại Đại hội IX, đồng chí U-ê-đa
Côi-chi-rô, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Nhật Bản tham dự Đại hội
Đảng ta, trong bài phát biểu của mình, đã nhấn mạnh : "Đường lối đổi mới
trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội
trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, là con đường
của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử. Chúng tôi hy vọng rằng
Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong
cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới
trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”
(1)
.
Còn đồng chí Giô-dê Ca-đa-nô-va, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản
Bồ Đào Nha, cũng tại diễn đàn Đại hội IX đã nói : "Những thành tựu trong
việc cụ thể hóa một con đường thích hợp quá độ lên chủ nghĩa xã hội không
chỉ là tài sản vô giá của những người cộng sản Việt Nam mà còn là nguồn
cảm hứng và tin tưởng đối với những người cộng sản và cách mạng trên toàn
thế giới" (2).
* PGS, TS, Ủy viên Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng
(1) Lời chào mừng Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 53
(2) Sdđ, tr 140

×