Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

BÀI GIẢNG TÂM LÝ QUẢN LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 179 trang )


1

häc viÖn c«ng nghÖ bu chÝnh viÔn th«ng
khoa qu¶n trÞ kinh doanh 1







BÀI GIẢNG
TÂM LÝ QUẢN LÝ


Người biên soạn : Th.S Trần Đoàn Hạnh





HÀ NỘI, THÁNG 12/2013
PTIT

2


LỜI NÓI ĐẦU




Tâm lý quản lý là một chuyên ngành đặc biệt của tâm lý học, là một môn khoa học về con
người, trong khi đó nhân tố con người vừa được coi là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển
quyết định đến thành công của nhiều hoạt động nhất là hoạt động quản lý. Trong hoạt động quản
lý, con người luôn giữ vị trí trung tâm và luôn là chủ thể của thế giới nội tâm phong phú. Các yếu
tố đó, một mặt là sản phẩm hoạt động của con người, của các điều kiện kinh tế xã hội, mặc khác
là động lực nội sinh đóng vai trò thúc đẩy hoặc cản trở các hoạt động tâm lý. Bởi vậy việc nghiên
cứu, tìm hiểu những cơ sở tâm lý học của công tác quản lý là một yêu cầu khách quan và bức
thiết đối với tất cả những ai quan tâm đến việc cải tiến quản lý, nâng cao hiệu quả quá trình quản
lý, làm tốt việc tuyển chọn, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ quản lý. Đối với cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở các cấp, các ngành những tri thức của tâm lý học quản lý rất quan trọng và cần thiết để nâng
cao chất lượng và hiệu quả trong công tác lãnh đạo, quản lý.
Căn cứ vào chương trình đào tạo ngành Quản trị kinh doanh, đề cương chi tiết môn học
cua Học viện công nghệ BCVT tác giả đã biên soạn bài giảng “Tâm lý quản lý” nhằm trang bị
cho sinh viên những kiến thức về tâm lý quản lý tức là tâm lý của những người lãnh đạo, quản lý;
tâm lý của những người bị lãnh đạo, quản lý; tâm lý tập thể của những người bị lãnh đạo, quản lý.
Qua đó góp phần nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử, giao tiếp tạo điều kiện cải thiện và mở
rộng các mối quan hệ giữa người học với các đối tượng khác nhau trong xã hội.
Trong quá trình biên soạn, tác giả đã cố gắng bảo đảm tính khoa học, hiện đại và phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, với những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo. Tuy
nhiên, tâm lý quản lý là một chuyên ngành mới phát triển ở nước ta, còn nhiều vấn đề phức tạp,
chưa được nhận thức thống nhất, chưa được nghiên cứu sâu sắc, vì vậy bài giảng khó tránh khỏi
được những thiếu sót. Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn./.

Hà Nội, tháng 12 năm 2013
TH.S TRẦN ĐOÀN HẠNH





PTIT

3

MỤC LỤC
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÝ VÀ TÂM LÝ QUẢN LÝ 6
1.1 TÂM LÝ VÀ CÁC THUỘC TÍNH CỦA TÂM LÝ 6
1.1.1. Khái niệm tâm lý 6
1.1.2. Các hiện tượng tâm lý 6
1.1.3 Các thuộc tính của tâm lý 14
1.2 TÂM LÝ QUẢN LÝ 19
1.2.1 Khái niệm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 19
1.2.2 Lịch sử hình thành tâm lý học quản lý 21
1.2.3 Vai trò của yếu tố tâm lý trong lãnh đạo, quản lý và một số lĩnh vực khác 24
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1 31
CHƯƠNG 2: NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ 32
2.1 NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO 32
2.1.1 Khái niệm nhân cách của người lãnh đạo 32
2.1.2 Các thành tố trong nhân cách của người lãnh đạo 32
2.1.3 Những con đường hình thành và phát triển nhân cách của người lãnh đạo 36
2.2 UY TÍN CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO 38
2.2.1 Khái niệm uy tín và uy tín của người lãnh đạo 38
2.2.2 Các thành tố trong uy tín của người lãnh đạo 39
2.2.3 Phân loại uy tín 41
2.2.4 Vai trò uy tín của người lãnh đạo 43
2.3 KIỂU NGƯỜI LÃNH ĐẠO 44
2.3.1 Phân loại 44
2.3.2 Kiểu hoạt động lãnh đạo 46
2.4 MỘT SỐ YÊU CẦU ĐỐI VỚI NGƯỜI LÃNH ĐẠO TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ 49

2.4.1 Đặc điểm tâm lý chung của nhà lãnh đạo 49
2.4.2 Những yêu cầu đối với người lãnh đạo 51
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP ÔN TẬP CHƯƠNG 2 59
CHƯƠNG 3: NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG HỆ THỐNG QUẢN LÝ 60
PTIT

4
3.1 ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA CÁC LOẠI NGƯỜI LAO ĐỘNG 60
3.1.1. Đặc điểm tâm lý của người lao động theo độ tuổi 60
3.1.2 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo giới tính 67
3.1.3 Đặc điểm tâm lý của người lao động theo vị thế trong tập thể 79
3.1.4. Đặc điểm tâm lý của người lao động theo lịch sử thành, bại 81
3.1.5. Đặc điểm tâm lý của người lao động theo ngành nghề 82
3.1.6. Đặc điểm tâm lý của người lao động theo trình độ chuyên môn 82
3.1.7. Đặc điểm tâm lý của người lao động theo bản chất 83
3.1.8. Đặc điểm tâm lý của người lao động theo điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại 83
3.1.9. Đặc điểm tâm lý của người lao động theo vị trí địa lý (điều kiện tự nhiên) nơi sinh
trưởng 85
3.1.10. Đặc điểm tâm lý của người lao động theo điều kiện kinh tế – xã hội nơi sinh trưởng
85
3.1.11. Đặc điểm tâm lý của người lao động theo khí chất 87
3.2 NHU CẦU VÀ ĐỘNG CƠ LÀM VIỆC CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG 88
3.2.1. Đặc điểm của người lao động Việt Nam 88
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 3 108
CHƯƠNG 4: TẬP THỂ VÀ MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ 109
TRONG TẬP THỂ 109
4.1 TẬP THỂ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA TẬP THỂ 109
4.1.1 Khái niệm tập thể 109
4.1.2 Các giai đoạn phát triển của tập thể 110
4.1.3 Các yếu tố xây dựng một tập thể mạnh 112

4.2 MỘT SỐ HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ TRONG TẬP THỂ 113
4.2.1 Thủ lĩnh trong tập thể 113
4.2.2 Sự tương hợp tâm lý 114
4.2.3 Bầu không khí tâm lý 115
4.2.4 Dư luận tập thể 116
4.2.5 Hiện tượng xung đột 120
4.2.6 Hiện tượng lây lan tâm lý 122
4.2.7 Truyền thống tập thể 124
PTIT

5
4.2.8 Tâm trạng tập thể 125
4.2.9 Quy luật tâm lý của đám đông 126
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG 4 128
CHƯƠNG 5: TÂM LÝ GIAO TIẾP TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, 129
LÃNH ĐẠO 129
5.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAO TIẾP 129
5.1.1 Khái niệm giao tiếp 129
5.1.2 Vai trò của giao tiếp 132
5.1.3 Chức năng của giao tiếp 133
5.1.4 Các loại hình giao tiếp 141
5.1.5 Các phương tiện giao tiếp 142
5.2 GIAO TIẾP TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, LÃNH ĐẠO 145
5.2.1 Những nét đặc trưng của công tác quản lý, lãnh đạo 145
5.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp trong quản lý, lãnh đạo 147
5.2.3 Một số quy tắc giao tiếp trong quản lý, lãnh đạo 148
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG 5 178
TÀI LIỆU THAM KHẢO 179
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý


6
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÂM LÝ VÀ TÂM LÝ QUẢN LÝ


1.1 TÂM LÝ VÀ CÁC THUỘC TÍNH CỦA TÂM LÝ
1.1.1. Khái niệm tâm lý
Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người vẫn thường sử dụng từ "tâm lý" để nói về lòng
người, về cách cư xử của con người. Đó là cách hiểu tâm lý ở cấp độ nhận thức thông thường.
Trong tiếng Việt thuật ngữ "tâm lý", "tâm hồn" được định nghĩa một cách tổng quát là ý nghĩ,
tình cảm làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con người.
Theo nghĩa đời thường, chữ "tâm" được dùng với các cụm từ "nhân tâm","tâm đắc", "tâm
địa", "tâm can" thường có nghĩa như là chữ "lòng", thiên về tình cảm còn chữ "hồn" thường để
diễn đạt tư tưởng, tinh thần, ý thức, ý chí của con người. "Tâm hồn", "tinh thần" luôn gắn liền với
"thể xác" Trong tiếng La tinh "Psyche" là "linh hồn", "tinh thần" và "logos" là học thuyết, là
"khoa học". Vì thế "Tâm lý học" ( Psychologie) là khoa học về tâm hồn. Tâm lý học là khoa học
nghiên cứu tâm lý con người, nó vừa nghiên cứu cái chung trong tâm tư của con người, những
quan hệ tâm lý của con người với nhau. Hay nói cách khác, tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu
cầu thị hiếu của người khác, là sự cư xử hoặc cách xử lý tình huống của người nào đó, khả năng
chinh phục đối tượng. Nói một cách khái quát chung nhất: Tâm lý bao gồm tất cả những hiện
tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động
của con người. Các hiện tượng tâm lý đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống con người,
trong quan hệ giữa con người với con người và cả xã hội loài người.
1.1.2. Các hiện tượng tâm lý
* Đặc điểm của các hiện tượng tâm lý
 Các hiện tượng tâm lý có nhiều biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau;
 Trong một thời điểm, ở mỗi người có thể xuất hiện nhiều hiện tượng tâm lý, có khi có
những hiện tượng trái ngược nhau, tạo nên sự mâu thuẫn, băn khoăn, đấu tranh tư tưởng, dằn vặt
nội tâm trong con người. Bởi vậy, có khi chính con người cũng không tự hiểu được tâm lý của
chính mình;

 Còn nhiều hiện tượng tâm lý phức tạp cho đến ngày nay mà con người chưa giải thích
được đầy đủ, rõ ràng như hiện tượng ngoại cảm, nói mơ, mộng du,…
 Các hiện tượng tâm lý có quan hệ mật thiết với nhau, tạo nên 1 thể thống nhất chi phối
lẫn nhau, hiện tượng này làm xuất hiện hiện tượng khác;
 Tâm lý là hiện tượng tinh thần;
 Tâm lý là những hiện tượng rất quen thuộc gần gũi với con người;
 Tâm lý có sức mạnh to lớn đối với cuộc sống con người.
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

7
Tìm hiểu tâm lý con người, chúng ta cần chú ý đến hai dạng hiện tượng sau đây:
+ Hiện tượng tâm lý cá nhân
Là những hiện tượng tâm lý chủ yếu nảy sinh trong một con người nhất định như nhận
thức của cá nhân, cảm xúc của cá nhân, ý chí, ý thức, ngôn ngữ của cá nhân… Mỗi hiện tượng
trên lại bao gồm nhiều hiện tượng khác nhau.
Như nhận thức của cá nhân bao gồm cảm giác, tri giác, tư duy tưởng tượng của cá nhân
đó… Mỗi cá nhân có một thế giới tâm lý riêng mà ta thường gọi là thế giới tâm hồn, thế giới bên
trong, thế giới nội tâm…
+ Hiện tượng tâm lý tập thể hay tâm lý xã hội
Là những hiện tượng tâm lý nảy sinh trong mối quan hệ giữa người này đối với người
khác, hoặc những hiện tượng tâm lý của một nhóm người. Như tâm lý trong giao tiếp, tâm lý tập
thể, tâm trạng tập thể…
Tâm lý xã hội cũng rất phức tạp và nảy sinh diễn biến theo những quy luật nhất định.
* Các hiện tượng tâm lý cơ bản của con người
a. Hoạt động nhận thức
Là hoạt động của con người nhằm nhận biết về thế gới khách quan, trả lời các câu hỏi Đó
là cái gì? Đó là ai? Người đó như thế nào? Việc đó có ý nghĩa gì?
Hoạt động nhận thức là hoạt động tâm lý cơ bản nhất trong đời sống tâm lý con người, nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của con người, quyết định tài năng, nhân cách con người. Tìm

hiểu con người trước hết là tìm hiểu nhận thức của họ.
Hoạt động nhận thức diễn ra theo hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức thấp, nhận thức giác quan cho ta biết được
những đặc điểm bề ngoài của con người như nét mặt, hình dáng, màu sắc… Giai đoạn này bao
gồm quá trình cảm giác và quá trình tri giác.
Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao, nhận thức bằng hoạt động trí tuệ, cho ta biết
được những đặc điểm bên trong, bản chất của con người như đạo đức, tài năng, quan điểm, ý
thức… con người. Nhận thức lý tính bao gồm quá trình tư duy và quá trình tưởng tượng.
Nhà quản lý cần phân biệt rõ hai giai đoạn này trong hoạt động của mình, nhất là khi đánh
giá con người. Cần nhận thức hiện tượng với bản chất, hành vi và nội tâm – lời nói, việc làm với
ý thức, tài năng… Khi đánh giá năng lực con người cần chú ý những đặc điểm sau đây ở họ:
 Sự nhạy bén, tinh tế khi nhận thức (việc phát hiện vấn đề có nhanh chóng hay không…)
 Khả năng quan sát nhanh chóng, chính xác
 Khả năng tư duy, giải quyết vấn đề (có sâu sắc, linh hoạt, sáng tạo, độc đáo hay
không…)
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

8
Khi đánh giá trình độ nhận thức của con người cần chú ý các đặc điểm sau:
 Trình độ kiến thức: đó là sự hiểu biết, khối lượng kiến thức về lĩnh vực chuyên môn
hoặc đời sống xã hội… trình độ kiến thức thường thể hiện ở bằng cấp, trình độ học vấn…
 Trình độ văn hóa xã hội: là trình độ hiểu biết về đời sống văn hóa xã hội (về đạo đức,
cách cư xử, giao tiếp, thẩm mỹ…)
 Trình độ kinh nghiệm sống (sự từng trải, những hoạt động đã trải qua…)
 Trình độ tư duy: khả năng tiếp nhận hoặc giải quyết vấn đề, sự linh hoạt, sáng tạo hoặc
cách ứng xử thích hợp.
Đó là những biểu hiện quan trọng của hoạt động nhận thức con người cho ta xác định
được năng lực nhận thức của họ. Đó là những căn cứ quan trọng để sử dụng con người.
b. Hoạt động tình cảm

Hoạt động tình cảm có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc sống con người. nó chi phối cuộc
sống, hoạt động và các mối quan hệ của con người.
Trong hoạt động, tình cảm có hai mức độ rất quan trọng là xúc cảm và tình cảm
+ Xúc cảm là những hiện tượng của đời sống tình cảm, thường diễn ra trong khoảng thời
gian ngắn, người ngoài có thể nhìn thấy được. Xúc cảm có nhiều biểu hiện như vui mừng, giận
hờn, lo âu, sợ hãi, thích thú, dễ chịu,… Xúc cảm cho ta thấy được hiện trạng xúc cảm của con
người. Nó biểu thị thái độ của con người. Khi giao tiếp với con người, dựa vào xúc cảm, ta có thể
xác định được thái độ của họ đối với mình: tôn trọng hay coi thường, hài lòng hay khó chịu, thân
thiện hay độc ác,…
Đối với người dễ bộc lộ xúc cảm, ta biết được thái độ của họ dễ dàng hơn những người
không bộc lộ cảm xúc. Những người này thường có dáng vẻ bề ngoài lầm lì, lạnh lung, điềm
nhiên… Họ là những người khó hiểu hơn. Những người không hoặc ít bộc lộ cảm xúc có hai loại
cần chú ý:
 Loại người sâu sắc, kín đáo, có bản lĩnh.
 Loại người cần cù, đần độn, chậm hiểu, khờ dại…
Do con người có ý thức, họ có thể giả tạo trong biểu hiện xúc cảm, nhà quản lý cần có
nhận xét tinh tế để phân biệt được sự biểu hiện xúc cảm thật hay giả của con người.
Trong đời sống xúc cảm, nhà quản lý cần lưu ý tới hiện tượng xúc động. Xúc động là
những xúc cảm có cường độ mạnh hoặc rất mạnh như quá giận dữ, quá đau khổ, quá khiếp sợ…
Xúc động thường ảnh hưởng lớn đến con người trong hoạt động, trong giao tiếp cư xử của họ.
Trong hoạt động quản lý, xúc động thường gây ra những tác hại to lớn như:
 Nó làm cho nhà quản lý thiếu sáng suốt, không lường trước được hậu quả của hành vi,
mất cân bằng trong hoạt động, dễ mắc sai lầm trong quyết định, trong việc ra mệnh lệnh…
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

9
 Xúc động dễ làm căng thẳng mối quan hệ hoặc làm xấu đi mối quan hệ của con người,
giữa thủ trưởng với nhân viên, dễ làm cho con người bộc lộ nhược điểm , điểm yếu của mình.
 Xúc động làm cho cơ thể dễ mất cân bằng, làm cho sức khỏe bị giảm sút nhanh chóng

thậm chí có thể làm cho người ta già đi nhanh hơn, ốm yếu đi nhanh hơn, xấu đi nhanh hơn, con
người có thể rơi vào trạng thái sốc, ngất xỉu, chân tay run rẩy…
Bởi vậy nhà quản lý cần biết điều chỉnh xúc cảm, tránh để xúc động. Nếu bị xúc động cần
phải biết kiềm chế, không nên để cấp dưới chứng kiến sự xúc động của mình. Nhà quản lý không
nên có những biểu hiện quá vui sướng, quá đau khổ, quá thất vọng, quá khiếp sợ… trước mặt cấp
dưới. Đặc biệt nhà quản lý không nên giận dữ, la lối, quát tháo cấp dưới. Sự xúc động thường
biểu hiện sự bất lực, sự thô bạo, sự thiếu tôn trọng con người. Nó dễ tạo ra hiện tượng “uy tín
giả” của nhà quản lý. Người quản lý cần biết cách cư xử khéo léo đối với người khác khi họ ở
trong trạng thái xúc động. Trong trường hợp này nhà quản lý cần biết vận dụng những thủ thuật
tâm lý, sự cư xử khéo léo để giải tỏa sự xúc động của họ.
Một trong những yếu tố quan trọng của nghệ thuật quản lý là luôn luôn biết gìn giữ trạng
thái cân bằng trong xúc cảm, ngăn chặn các xúc động, biết kiềm chế khi bị xúc động và biết xử
sự phù hợp với con người khi họ bị xúc động.
+ Tình cảm là những biểu hiện của đời sống tình cảm diễn ra trong khoảng thời gian dài,
ổn định. Tình cảm biểu thị thái độ của con người đối với sự vật hoặc người khác. Tình cảm chi
phối các xúc cảm được hình thành trên cơ sở kết hợp, tổng hợp của nhiều xúc cảm. Tình cảm
thường tiềm tàng trong con người và thường bộc lộ thông qua các xúc cảm. Tình cảm chỉ được
nhận biết qua các xúc cảm. Con người có nhiều tình cảm như tình yêu tổ quốc, tình yêu đất nước,
tình yêu nam nữ, tình bạn, tình mẫu tử, tình anh em, tình đồng nghiệp…
Tình cảm có vai trò to lớn đối với con người. Nó chi phối cuộc sống, hoạt động của con
người. Nó làm cho nhận thức, ý chí, hành vi, cách đánh giá… và toàn bộ đời sống tâm lý bị biến
đổi đi. Tình cảm là chỗ mạnh nhất nhưng đồng thời cũng là chỗ yếu nhất của con người.
Trong hoạt động quản lý, việc tác động vào tình cảm của con người có ý nghĩa rất quan
trọng vì tình cảm làm tăng hoặc giảm sự gắn bó của con người với công việc, với tập thể, làm
tăng hoặc giảm tính tích cực và hiệu quả của hoạt động, ảnh hưởng mạnh đến năng suất và chất
lượng của sản phẩm. Nhà quản lý cần chú ý:
 Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, tình cảm tốt đẹp giữa các thành viên trong tập thể;
 Quản lý con người bằng tình cảm chân thực, bằng sự thương mến, quan tâm đến con
người, cảm hóa con người;
 Chú ý đến yếu tố tình cảm trong hoạt động quản lý. Tác động vào tình cảm và tác động

bằng tình cảm;
 Phải giải quyết công việc theo nguyên tắc “”thấu tình đạt lý”
 Cần dè chừng, cảnh giác trước những cơn xúc động : giận dữ, quá lo âu, căng thẳng…
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

10
 Tránh để tình cảm chi phối dẫn đến sự thiên lệch trong cách cư xử với cấp dưới, hoặc
ấn tượng, thành kiến, thiếu khách quan khi đánh giá con người.
Muốn xây dựng tình cảm tốt đẹp với cấp dưới, với mọi người cần tạo ra những xúc cảm
tốt đẹp với cấp dưới, với mọi người (xúc cảm xuất hiện do sự thỏa mãn nhu cầu, ước muốn của
con người), bằng sự quan tâm chăm sóc, xử sự ân cần, lịch sự, tôn trọng con người.
c. Các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý. Cụ thể
* Các quá trình tâm lý : là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối
ngắn, có mở đầu, diễn biến, kết thúc tương đối rõ ràng. Người ta thường phân biệt thành ba quá
trình tâm lý :
 Các quá trình nhận thức gồm cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy.
+ Cảm giác là cơ sở của hoạt động tâm lý. Con người nhận biết hiện thực xung quanh bắt
đầu từ cảm giác. Cảm giác còn báo hiệu về trạng thái bên trong của cơ thể như cảm giác đói,
khát…
Cảm giác là công cụ duy nhất nối liền ý thức với thế giới bên ngoài. Không có cảm giác
thì không thể định hướng được môi trường xung quanh, không thể giao tiếp được với mọi người,
không thể lao động, không thể tránh được mọi nguy hiểm.
Ví dụ: ta nhận biết được quả táo là nhờ những cảm giác có được như: vàng, thơm, ngọt,
giòn khi nhai. Đó là thông qua các cơ quan cảm giác như mắt, tai, lưỡi, tay… Cảm giác còn cho
ta biết hình ảnh chân thực của hiện tượng khách quan.
Như vậy cảm giác là sự phản ánh có tính chất riêng biệt của các sự vật hiện tượng đang
trực tiếp tác động đến giác quan của chúng ta.
+ Tri giác: là sự phản ánh các sự vật và hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp lên các
giác quan. Tri giác được hình thành trên cơ sở của cảm giác, nhưng tri giác không phải là con số

cộng giản đơn các cảm giác. Tri giác phản ánh cả một tập hợp các thuộc tính và bộ phận của sự
vật hiện tượng. Những người khác nhau có tri giác khác nhau.
Người ta phân biệt tri giác thành tri giác có chủ định và tri giác không có chủ định. Một
đặc trưng nhất thiết phải có của tri giác chủ định là sự nỗ lực của ý chí. Quan sát một loại tri giác
có chủ định, có kế hoạch lâu dài, có mục đích và có tổ chức. Quan sát sẽ đạt kết quả tốt hơn nếu
người quan sát có tầm nhìn rộng trong lĩnh vực quan sát có tư duy, trí nhớ, chú ý phát triển.
Chẳng hạn, đôi khi do nhìn các mặt hàng tương tự giống nhau mà mua nhầm phải những
thứ hàng mà mình không cần, hoặc khi nhìn nhận về một con người nào đó mà ta nhìn nhận
không đúng về bản chất của họ đó là hoạt động tư duy trong quá trình tri giác chưa tốt.
Một người lãnh đạo muốn rèn luyện và phát triển óc quan sát cần có trình độ lý luận cao,
niềm tin vững vàng, tính nguyên tắc, quan điểm giai cấp trong việc đánh giá các hiện tượng, các
sự kiện, có sự am hiểu con người.
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

11
+ Trí nhớ: là một quá trình tâm lý trong đó con người củng cố, lưu giữ và sau đó làm hiện
lại trong ý thức của mình tất cả những yếu tố của kinh nghiệm quá khứ. Không có trí nhớ thì
không thể có bất kỳ hoạt động nào. Trí nhớ là điều kiện chủ yếu của sự phát triển tâm lý con
người, nó bảo đảm sự thống nhất và tính toàn diện của nhân cách con người.
Trí nhớ diễn ra dưới dạng các quá trình ghi nhớ, giữ lại, nhớ lại (tái hiện). Trong quá trình
đó thì ghi nhớ là quá trình chủ yếu. Ghi nhớ quyết định tính đầy đủ và chính xác của sự nhớ lại
tài liệu, quyết định tính vững chắc và tính bền vững của sự giữ lại tài liệu. Là quá trình phức tạp
nhằm nắm vững, hệ thống hóa nội dung và lược bỏ những gì không cần thiết.
+ Tưởng tượng: là quá trình tâm lý sáng tạo những biểu tượng và ý nghĩa mới dựa trên
kinh nghiệm sẵn có. Tương tự như cảm giác, tri giác thì tưởng tượng là một quá trình nhận thức
tâm lý và phản ánh hiện thực khách quan.
Tưởng tượng giữ vai trò to lớn trong bất kỳ hoạt động nào của con người, là điều kiện cần
thiết để phát huy sức sáng tạo của con người nhằm biến đổi hiện thực.
Tưởng tượng có thể tích cực hay thụ động. Trong trường hợp tưởng tượng là tích cực thì

nó là điều kiện cho hoạt động sáng tạo của cá nhân, nhằm biến đổi hiện thực xung quanh. Tuy
nhiên nếu tưởng tượng là thụ động, tiêu cực thì tưởng tượng sẽ là mơ mộng không có thực tế.
Hình thức đặc biệt của tưởng tượng là ước mơ. Ước mơ là hình ảnh của tương lai mà
mình đang mong muốn. Nó nâng cao tính hoạt động của con người, thôi thúc họ vượt qua những
trở ngại. Khói khăn nảy sinh trong khi thực hiện những mục đích của mình, ước mơ kêu gọi hành
động chứ không phải suy tưởng một cách thụ động.
+ Tư duy: là sự nhận thức hiện thực một cách khái quát và gián tiếp. Trong quá trình tư
duy, con người hiểu rõ những tính chất cơ bản, những mối liên hệ và quan hệ giữa các sự vật,
hiện tượng. Sự phản ánh trực tiếp, cảm tính thực hiện qua cảm giác và tri giác tỏ ra chưa đủ cho
con người để định hướng đúng đắn trong thế giới tự nhiên và xã hội, trong bản thân mình. Khi
tìm kiến lời giải cho các câu hỏi đặt ra, con người tập vận dụng những hành động suy nghĩ với
các đối tượng và các hình ảnh của đối tượng trong ý thức của mình. Tư duy chính là quá trình
tâm lý nói trên để nhận thức và biến đổi hiện thực bằng tinh thần, để tìm tòi và khám phá những
điều mới mẻ về bản chất.
Tư duy phát triển trong lao động, trong giao tiếp thực tiễn xã hội là nguồn tư duy, là mục
đích cuối cùng của tư duy, là tiêu chuẩn của chân lý.
Tư duy bao giờ cũng xuất phát từ những nhu cầu nào đó của cá nhân. Nếu không có nhu
cầu thì sẽ không có sự thúc đẩy hoạt động tư duy. Kết quả của tư duy phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực của con người, biết tập trung vào vấn đề, biết để ý tâm trí vào vấn đề, kiên trì suy nghĩ
thấu đáo vấn đề, khắc phục những khó khăn xảy ra, tức là phụ thuộc vào các phẩm chất, ý chí. Ý
chí sẽ thúc đẩy tích cực các hoạt động tư duy.
Tư duy liên hệ đặc biệt mật thiết với ngôn ngữ. Quá trình chuyển từ cảm giác, tri giác và
biểu tượng thành khái niệm được tiến hành bằng lời nói. Lời nói được dung để khái quát các dấu
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

12
hiệu của sự vật, tách ra những dấu hiệu của bản chất, bỏ qua những dấu hiệu không bản chất, cố
định và lưu giữ thông tin, truyền đạt thông tin đó cho người khác, vận dụng các tri thức sẵn có
xây dựng những suy lý và bằng cách đó đi đến những tri thức mới.

Nhờ có lời nói mà tri thức trở thành tài sản chung của xã hội, mà hoạt động tư duy của loài người
có được tính kế thừa, đạt được sự phát triển của lịch sử.
 Các quá trình cảm xúc có thể biểu hiện dưới dạng tâm trạng, xúc động, đam mê, căng
thẳng và hẫng hụt tùy theo đặc điểm độ bền, cường độ và sự phức tạp của các rung động.
+ Xúc động là những rung động mạnh mẽ hoàn toàn lôi cuốn con người diễn ra trong một
thời gian ngắn. Xúc động thường hay xuất hiện nhiều nhất ở những người mất cân bằng, những
người có tính mềm yếu.
+ Đam mê là một rung động mạnh mẽ, sâu sắc, kéo dài và ổn định, có xu hướng rõ rệt
nhằm đạt được mục đích hay đối tượng ước ao.
+ Căng thẳng: xuất hiện khi tiến hành hoạt động trong những điều kiện khó khăn. Trong
đa số trường hợp, sự ăng thẳng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến công việc.
+ Hẫng hụt: khi con người không thể vượt qua được những khó khăn trở ngại hoặc không
đạt được mục đích như mình mong muốn thì xuất hiện trạng thái này. Hẫng hụt biểu hiện sự bực
bội, căm tức, dửng dưng, hờ hững với những người xung quanh, u sầu, buồn bã, chán nản.
 Quá trình hành động ý chí.
* Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối dài,
việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng như chú ý, tình cảm và xúc cảm.
+ Tình cảm xúc cảm phản ánh hiện thực khách quan qua các rung động, chúng biểu hiện thái độ
chủ quan của con người đối với sự vật hiện tượng của hiện thực xung quanh.
Tình cảm và xúc cảm nảy sinh trong quá trình hoạt động, chúng báo hiệu cho con người
biết là sự hoạt động của họ đã đạt được kết quả tới mức nào.
Khác với quá trình nhận thức, tình cảm và xúc cảm nhiều khi thể hiện cả ở hành vi bên
ngoài như: nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, động tác, tư thế hành động, phong thái, ở sự hoạt động của 1
số tuyến mồ hôi, nước mắt…
Tình cảm xúc cảm còn đặc trưng bằng tính phân biệt và tính mềm dẻo. Mỗi tình cảm và
mỗi cảm xúc đều có những rung động đối lập với nó. Giữa hai cái đối lập có vô số những bước
chuyển tiếp. Chẳng hạn đối lập với vui mừng là đau buồn. Đồng thời cùng là một tình cảm xúc
cảm, người ta có thể rung động đến mức sâu sắc khác nhau, tùy theo nguyên nhân gây ra chúng
và tùy theo đặc điểm của hoạt động mà cá nhân đang tiến hành. Tình cảm, xúc cảm và sự biểu
hiện tình cảm, cảm xúc ra ngoài còn có một đặc điểm nữa là sự biểu hiện ra ngoài rung động của

người này có thể tác động tới người khác.
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

13
Tình cảm có nhiều loại như tình cảm tích cực (tin tưởng, hài lòng, thỏa mãn…) và tình
cảm tiêu cực (đau khổ, hơn giận, bực mình…) với tư cách là một thành viên của xã hội, con
người vốn có tình cảm đạo đức, tình cảm pháp luật, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ…
Tình càm đạo đức thể hiện quan hệ thái độ của một người đối với xã hội, đối với những
người khác và đối với bản thân mình.
Tình cảm pháp luật biểu hiện thái độ của cá nhân đối với các hành vi và hành động bị điều
tiết bởi đủ các loại tiêu chuẩn của pháp luật.
Tình cảm trí tuệ nảy sinh trong quá trình học tập và sáng tạo.
Tình cảm thẩm mỹ là rung động trước những vẻ đẹp và xấu trong thiên nhiên, trong nghệ
thuật lao động…
+ Chú ý là xu hướng và sự tập trung hoạt động tâm lý vào một đối tượng nhất định. Sự
tập trung thể hiện ở việc bỏ qua tất cả những gì ngoài cuộc, ở mức độ đi sâu vào hoạt động.
Chú ý là đảm bảo cho các quá trình nhận thức và toàn bộ hoạt động tâm lý có được hiệu
suất cao, kết quả tốt.
Có 3 loại chú ý:
 Chú ý không chủ định hay chú ý không theo ý muốn: nảy sinh một cách không chủ định
do ảnh hưởng của các kích thích bên ngoài và không đòi hỏi sự nỗ lực ý chí.
 Chú ý có chủ định hay chú ý theo ý muốn: nảy sinh và phát triển do kết quả của sự nỗ
lực ý chí của con người và có đặc điểm là có tính mục đích, tính tổ chức và tính bền vững cao.
Chú ý có chủ định rất cần để thực hiện thắng lợi bất kỳ một hoạt động nào.
 Chú ý sau chủ định xuất hiện tiếp sau chú ý có chủ định. Thoạt đầu người ta phải nỗ lực
ý chí để buộc mình tập trung vào một việc gì đó, nhưng về sau thì chú ý được tập trung vào đối
tượng hoạt động một cách tự nhiên. Cho nên chú ý sau chủ định ít làm con người mệt mỏi hơn là
chú ý có chủ định. Loại chú ý này xuất hiện khi có hứng thú hoạt động và nó đảm bảo tiến hành
hoạt động với chất lượng cao nhất.

*. Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình
thành và khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Người ta thường nói tới bốn nhóm
thuộc tính tâm lý cá nhân như xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
d. Ngoài ra còn có các hiện tượng tâm lý sau
 Các hiện tượng tâm lý có ý thức: là những hiện tượng tâm lý có sự tham gia điều khiển,
điều chỉnh của ý thức con người. Đây là những hiện tượng tâm lý có thể tạo nên giá trị xã hội của
con người, có thể là những hiện tượng tâm lý có ý nghĩa quan trọng mà trong hoạt động quản lý
người lãnh đạo cần phải lưu ý xem xét, dựa vào đó mà đánh giá con người.
 Các hiện tượng tâm lý chưa được ý thức: là những hiện tượng tâm lý không có hoặc ít
có sự tham gia của ý thức như ngủ mơ, nói mơ, tâm lý của người điên khùng mất năng lực hành
vi… những hiện tượng này thường không có ý nghĩa lớn trong việc đánh giá con người.
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

14
Chúng ta có nhiều nhận biết về các hiện tượng tâm lý có ý thức (được nhận thức hay tự
giác). Còn những hiện tượng tâm lý chưa được ý thức vẫn luôn diễn ra, nhưng ta không ý thức về
nó, hoặc dưới ý thức, chưa kịp ý thức. Một số tác giả nước ngoài còn chia ý thức thành hai mức:
"vô thức" là những lĩnh vực nằm ngoài ý thức, khó lọt vào lĩnh vực ý thức (một số bản năng vô
thức, một số hành động lỡ lời, lỡ chân tay, ngủ mơ, mộng du ) và mức độ " tiềm thức" là những
hiện tượng bình thường nằm sâu trong ý thức, thỉnh thoảng trong những hoàn cảnh nhất định có
thể được ý thức "chiếu rọi" tới.
 Hiện tượng tâm lý sống động : thể hiện trong hành vi hoạt động
 Hiện tượng tâm lý tiềm tàng : tích đọng trong sản phẩm của hoạt động.
 Hiện tượng tâm lý cá nhân : vui, buồn, giận dữ, lo âu
 Hiện tượng tâm lý xã hội : phong tục tập quán, tin đồn, dư luận
Như vậy, thế giới tâm lý của con người vô cùng đa dạng và phức tạp. Các hiện tượng tâm
lý có nhiều cấp độ, mức độ khác nhau có quan hệ đan xen vào nhau, chuyển hoá cho nhau.
1.1.3 Các thuộc tính của tâm lý
Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó mất

đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách. Các thuộc tính tâm lý bao gồm: xu hướng, tính cách,
khí chất và năng lực.
1.1.3.1 Xu hướng
Xu hướng là những đặc điểm tâm lý hướng con người tới một mục tiêu, một đối tượng
nào đó. Xu hướng cho ta biết con người sẽ trở thành người như thế nào. Xu hướng nói lên sự
vươn tới của con người, thúc đẩy con người hoạt động theo mục tiêu nhất định.
Xu hướng là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, bao gồm một hệ thống động cơ
quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn thái độ của nó. Xu hướng
thường biểu hiện ở một số mặt chủ yếu như nhu cầu, hứng thú, thế giới quan, niềm tin
a. Nhu cầu: là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần thỏa mãn để tồn tại và phát triển.
Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản như:
 Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng thoả
mãn nó thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng.
 Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định.
 Nhu cầu có tính chu kỳ.
 Nhu cầu của con người khác nhu cầu của con vật, nhu cầu con người mang bản chất xã
hội.
 Nhu cầu của con người rất đa dạng.
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

15
Để làm rõ hơn nhu cầu của con người nhà tâm lý học người Mỹ B.Maslow đã đưa ra 5
bậc thang nhu cầu dạng hình chóp trong đó bao gồm: nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu
giao tiếp, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự khẳng định.
b. Hứng thú: là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối
với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại xúc cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động.
 Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, ở bề rộng và chiều sâu của
hứng thú. Hứng thú nảy sinh chủ yếu do tính hấp dẫn về mặt cảm xúc của nội dung hoạt động.
 Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, tăng sức làm việc, đặc biệt là tăng tính tự

giác, tích cực trong hoạt động, vì vậy hứng thú làm tăng hiệu quả hoạt động. Cùng với nhu cầu,
hứng thú là một thành phần trong hệ thống động cơ của nhân cách.
c. Lý tưởng: là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực, tương đối hoàn chỉnh, có sức lôi
cuốn con người vươn tới nó.
 Lý tưởng khác với ước mơ ở chỗ, trong lý tưởng chứa đựng mặt nhận thức sâu sắc của
chủ thể về các điều kiện chủ quan và khách quan để vươn tới lý tưởng, đồng thời chủ thể có tình
cảm mãnh liệt đối với hình ảnh mẫu mực của mình. Chính vì thế, lý tưởng có sức mạnh lôi cuốn
toàn bộ cuộc sống con người vào các hoạt động vươn tới lý tưởng của mình. Tuy vậy, ước mơ có
thể là cơ sở cho sự hình thành lý tưởng cao đẹp sau này.
 Lý tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có tính lãng mạn. Có tính hiện thực vì lý tưởng bao
giờ cũng được xây dựng từ nhiều "chất liệu" có thực của đời sống. Song lý tưởng lại là hình ảnh
mẫu mực chưa có trong hiện thực, là cái chỉ có thể đạt được trong tương lai. Lý tưởng phản ánh
xu thế phát triển của con người.
 Lý tưởng mang tính lịch sử và giai cấp.
 Lý tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức năng xác định
mục tiêu, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối sự hình thành và phát
triển tâm lý cá nhân.
d. Thế giới quan: là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xác định
phương châm hành động của con người. Thế giới quan khoa học là thế giới quan duy vật biện
chứng mang tính khoa học, tính nhất quán cao. Thế giới quan quyết định thái độ của con người
đối với thế giới xung quanh, quyết định những phẩm chất và phương hướng phát triển của nhân
cách. Thế giới quan (hay nghĩa hẹp là nhân sinh quan) là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, cho sự
phát triển của con người. Nó chỉ rõ thái độ con người đối với đời sống, nó chi phối cách sống, lối
sống của con người. Vì vậy đây là một biểu hiện rất quan trọng của xu hướng.
Trong lãnh đạo, việc nắm được thế giới quan của con người sẽ giúp ta biết rõ người đó
như thế nào và sử dụng họ ra sao?
e. Niềm tin: là một sản phẩm của thế giới quan, là kết tinh các quan điểm, tri thức, rung
cảm, ý chí được con người thể nghiệm, trở thành chân lý bền vững trong mỗi cá nhân. Niềm tin
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý


16
tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động theo quan điểm của mình, là lẽ sống của con
người.
1.1.3.2 Tính cách
Tính cách là một thuộc tính phức tạp của cá nhân, bao gồm một hệ thống thái độ của nó
đối với hiện thực khách quan và thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương
ứng. Tính cách là một tổ hợp những thuộc tính tâm lý thể hiện thái độ của cá nhân đối với hiện
thực. Mỗi thuộc tính đó được gọi là một nét tính cách. Ở mỗi người đều có những nét tính cách
như tính cách tốt (chăm chỉ, khiêm tốn, trung thực, dung cảm…), nét tính cách xấu như lười
biếng, kêu ngạo, hèn nhát, dối trá,…
Thông thường trong mỗi con người đều có những nét tính cách tốt và nét tính cách xấu.
Ta thường đánh giá một người tốt hay xấu dựa trên tỷ lệ nét tính cách tốt hay xấu cao hay thấp,
hoặc một dạng của chúng quan trọng như thế nào đối với xã hội, con người.
Tính cách là thái độ của con người đối với người khác, là cư xử của con người đối với xã
hội. Tính cách nói lên bộ mặt đạo đức của con người.
Tính cách mang tính ổn định và bền vững, tính thống nhất và đồng thời cũng mang tính
độc đáo, riêng biệt, điển hình cho mỗi cá nhân. Vì thể, tính cách của cá nhân là sự thống nhất
giữa cái chung và cái riêng, cái điển hình và cái cá biệt. Tính cách của cá nhân chịu sự chế ước
của xã hội.
* Cấu trúc của tính cách: tính cách có cấu trúc bao gồm: hệ thống thái độ và hệ thống
hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng.
 Hệ thống thái độ của cá nhân bao gồm 4 mặt sau đây
+ Thái độ đối với tập thể và xã hội, thể hiện qua nhiều nét tính cách như : lòng yêu nước,
yêu CNXH, thái độ chính trị, tinh thần đổi mới, tinh thần hợp tác cộng đồng
+ Thái độ đối với lao động, thể hiện ở những nét tính cách cụ thể như : lòng yêu lao
động, cần cù, sáng tạo, lao động có kỷ luật, tiết kiệm
+ Thái độ đối với mọi người thể hiện ở những nét tính cách như : lòng yêu thương con
người theo tinh thần nhân đạo, quý trọng con người, có tinh thần đoàn kết, tương thân,
tương ái

+ Thái độ đối với bản thân, thể hiện ở những nét tính cách như : tính khiêm tốn, lòng tự
trọng, tinh thần tự phê bình.
 Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân: đây là sự thể hiện cụ thể ra bên
ngoài của hệ thống thái độ nói trên. Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng rất đa dạng, chịu sự
chi phối của hệ thống thái độ. Người có tính cách tốt, nhất quán thì hệ thống thái độ sẽ tương ứng
với hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng. Trong đó, thái độ là mặt nội dung, mặt chủ đạo, còn
hành vi, cử chỉ, cách nói năng là hình thức biểu hiện của tính cách, chúng không tách rời nhau,
thống nhất hữu cơ với nhau.
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

17
Tính cách có quan hệ chặt chẽ với các thuộc tính, các phẩm chất khác của nhân cách như :
xu hướng, khí chất, tình cảm, ý chí, kỹ xảo, thói quen và vốn sống của cá nhân.
1.1.3.3 Khí chất
Khí chất là thuộc tính phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tiến độ và nhịp độ của
các hoạt động tâm lý, thể hiện sắc thái của hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân. Khí chất
có cơ sở sinh lý là các kiểu thần kinh, quy định nhịp độ, tiến độ của các hoạt động tâm lý. Đó là
nguyên nhân gây ra sự khác biệt rõ rệt trong những đặc điểm bên ngoài của hành vi con người.
Tuy nhiên, khí chất mang bản chất xã hội.
Hoạt động tâm lý cá nhân biểu hiện ra bên ngoài rất khác nhau: có người hăng hái, hoạt
bát, có người ưu tư, lo lắng, có người trầm tĩnh, bình thản, có người lại vội vàng, nóng nảy…
Những biểu hiện như vậy, chỉ rõ hoạt động tâm lý con người là mạnh hay yếu, nhanh hay chậm,
đồng đều hay bất thường. Đó là khí chất của cá nhân, ta còn gọi đó là tính khí của con người.
Cùng một trình độ hiểu biết như nhau nhưng đứng trước một sự việc, có người nhận thức nhanh,
có người nhận thức chậm. Khi thực hiện một công việc, người này vội vàng hấp tấp, người kia lại
bình tĩnh khoan thai. Về tình cảm, có người bộc lộ mạnh mẽ, sôi nổi, có người kín đáo, trầm lặng.
Khí chất của con người rất đa dạng, muôn màu muôn vẻ.
* Các kiểu khí chất
Kiểu khí chất là sự kết hợp khác nhau của những thuộc tính khí chất có quan hệ qua lại

với nhau 1 cách có quy luật, có các loại khí chất như sau
 Kiểu khí chất hăng hái: người thuộc kiểu khí chất này thường là người hoạt bát, vui vẻ,
yêu đời, sống động, ham hiểu biết, cảm xúc không sâu, dễ hình thành và dễ thay đổi, nhận thức
nhanh nhưng cũng hay quên, tâm hồn hướng ngoại, cởi mở, dễ thích nghi với môi trường mới.
Đây là loại khí chất tương ứng với kiểu thần kinh mạnh cân bằng linh hoạt của hưng
phấn, ức chế nên loại người này hoạt động mạnh mẽ, rất dễ thành lập phản xạ có điều kiện. Họ
giao tiếp rộng rãi, thân mật. Họ tham gia hăng hái mọi công việc, nhiệt tình và tích cực trong
công việc, dễ thích ứng với hoàn cảnh mới. Tuy nhiên họ cũng có những nhược điểm nhất định.
Tóm lại đây là người hoạt động nhiệt tình, hiệu quả nhưng chỉ khi họ làm những công việc phù
hợp hứng thú và thường xuyên được kích thích. Còn như những công việc không phù hợp với họ
thì họ dễ chán nản, uể oải. Đối với loại người này, nhà quản lý nên tăng cường động viên, kiểm
tra đôn đốc, giao cho họ những công việc có tinh chất “động”, họ sẽ làm rất tốt.
 Kiểu khí chất bình thản: người thuộc kiểu khí chất này thường là người chậm chạp,
điềm tĩnh, chắc chắn, kiên trì, ưa sự ngăn nắp, trật tự, khả năng kiềm chế tốt, nhận thức chậm
nhưng chắc chắn, tình cảm khó hình thành nhưng sâu sắc, ít ưa cãi cọ và không thích ba hoa, có
tình ý khi khởi động hoạt động, khó thích nghi đối với môi trường mới.
Loại khí chất này tương ứng với kiểu thần kinh cân bằng không linh hoạt. Do những
thuộc tính thần kinh không linh hoạt nên loại người này khó thành lập phản xạ có điều kiện,
nhưng khi đã thành lập thì khó phá vỡ. Loại người này có tâm lý bền vững sâu sắc. Họ thường
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

18
bình tĩnh, chín chắn trong hoạt động, có năng lực tự kiềm chế, năng lực tự chủ cao. Họ làm việc
một cách đều đặn, có mức độ, có phương pháp, không tiêu phí sức lực vô ích.
 Kiểu khí chất nóng nảy: người có kiểu khí chất này thường hành động nhanh, mạnh,
hào hứng, nhiệt tình, hay có tính gay gắt, nóng nảy, mệnh lệnh, quyết đoán, dễ bị kích động,
thẳng thắn, chân tình, khả năng kiềm chế rất thấp
Loại khí chất này tương ứng với kiểu thần kinh mạnh và không cân bằng. Tâm lý họ
thường được biểu hiện một cách mạnh mẽ. Ở họ nhận thức tương đối nhanh nhưng không sâu

sắc, họ vội vàng hấp tấp nóng vội khi đánh giá công việc. Đặc biệt họ dễ bị kích thích và khi họ
bị kích thích thì thường phản ứng nhanh và mạnh. Tình cảm của họ bộ lộ mãnh liệt, nhưng dễ
thiếu tế nhị. Họ rất thẳng thắn, trung thực và quả quyết. Trong công tác họ là người dũng cảm,
can đảm, hăng hái, sẵn sang hiến thân với tất cả lòng nhiệt tình. Trong việc làm họ tỏ ra quả
quyết nhưng dễ đi đến chỗ liều mạng. Họ dễ vui nhưng cũng dễ khùng. Đối với loại người này ta
nên cư xử tế nhị, nhẹ nhàng tránh phê bình trực diện.
 Kiểu khí chất ưu tư: người có kiểu khí chất này thường biểu hiện hoạt động chậm chạp,
chóng mệt mỏi, luôn hoài nghi, lo lắng, thiếu tự tin, hay u sầu, buồn bã, xúc cảm khó nảy sinh
nhưng rất sâu sắc, có cường độ mạnh và bền vững. Ở kiểu khí chất này, con người thường có sự
nhạy bén, tinh tế về cảm xúc, giàu ấn tượng, trong quan hệ thường mềm mỏng, tế nhị, nhã nhặn,
chu đáo và vị tha, họ thường hay sống với nội tâm của mình (hướng nội), đặc biệt là khó thích
nghi đối với môi trường mới.
Loại khí chất này tương ứng kiểu thần kinh yếu nên loại người này ít hành động. Họ có
năng lực tưởng tượng phong phú, dồi dào, lường trước được mọi hậu quả của hành động. Nhìn
chung họ là người tốt, có tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt. Nhà quản lý cần
biết động viên, khuyến khích họ. Tin tưởng giao công việc cho họ, không nên phê bình họ một
cách trực tiếp.
Tóm lại, mỗi kiểu khí chất trên đều có mặt mạnh, mặt yếu, không có loại nào tốt hoặc xấu
hoàn toàn. Trên thực tế thường gặp ở một người có những nét của kiểu khí chất nào đó chiếm ưu
thế, nhưng đồng thời lại có những nét riêng lẻ nào đó thuộc kiểu khí chất khác. Ngoài ra, còn có
những kiểu khí chất trung gian bao gồm nhiều đặc tính của cả 4 kiểu khí chất trên. Mặc dù khí
chất có cơ sở là các kiểu thần kinh nhưng khí chất vẫn chịu sự chi phối của các đặc điểm xã hội,
có thể biến đổi do rèn luyện và giáo dục. Trong hoạt động quản lý, chúng ta cần nghiên cứu các
hướng đối xử, tiếp xúc điều khiển sử dụng thích hợp. Nếu giao những công việc phù hợp với khí
chất con người, họ sẽ hoàn thành công việc có hiệu quả hơn.
Người quản lý cần cư xử với con người theo đặc điểm khí chất của họ, đồng thời cần phải
chú ý những nhược điểm trong khí chất của mình để rèn luyện, nâng cao phẩm chất nhân cách
của mình.
1.1.3.4 Năng lực
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của

một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả tốt.
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

19
 Năng lực không phải là một thuộc tính tâm lý xuất sắc nào đó mà nó là tổ hợp các thuộc
tính tâm lý của cá nhân.
 Năng lực vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hoạt động. Năng lực là điều kiện cho hoạt
động đạt kết quả nhưng đồng thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy.
 Năng lực là sản phẩm của lịch sử. Sự phân công và chuyên môn hoá lao động đã dẫn
đến sự phân hoá và chuyên môn hoá năng lực người. Mặt khác, mỗi khi nền văn minh nhân loại
dành được những thành tựu mới thì lại xuất hiện ở con người những năng lực mới và những năng
lực đã có trước đây bây giờ chứa đựng một nội dung mới.
 Năng lực được hình thành chủ yếu qua quá trình sống và rèn luyện của cá nhân, trong
hoạt động của cá nhân. Năng khiếu chỉ là dấu hiệu của năng lực, năng khiếu là đặc điểm bẩm sinh
là điều kiện, tiền đề cho sự phát triển của nhân cách.
* Phân loại năng lực hai loại
 Năng lực chung: là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, là những
điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt động đạt kết quả.
 Năng lực chuyên biệt: là sự thể hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên
môn, nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao.
Hai loại năng lực này luôn bổ sung và hỗ trợ cho nhau
1.2 TÂM LÝ QUẢN LÝ
1.2.1 Khái niệm, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1.2.1.1 Khái niệm và đối tượng nghiên cứu của tâm lý quản lý
Tâm lý học quản lý là một ngành của khoa học tâm lý.Tâm lý học quản lý nghiên cứu các
hiện tượng tâm lý (tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội) nảy sinh trong hệ thống quản lý; chỉ ra những
đặc điểm, quy luật tâm lý của người lãnh đạo, người bị lãnh đạo và tâm lý tập thể những người bị
lãnh đạo. Mặt khác, nó còn nghiên cứu những yêu cầu về phẩm chất và năng lực, về uy tín và
phong cách người lãnh đạo để nâng cao hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý.

Tâm lý học quản lý giúp cho người lãnh đạo nghiên cứu tâm lý những người dưới quyền,
nhìn thấy được những hành vi của cấp dưới, sắp xếp cán bộ một cách hợp lý, phù hợp với khả
năng của họ. Tâm lý học quản lý giúp người lãnh đạo biết cách ứng xử, tác động mềm dẻo cương
quyết với cấp dưới và lãnh đạo được những hành vi của họ, đoàn kết thống nhất tập thể những
người dưới quyền.
* Nhiệm vụ của tâm lý học quản lý
Khi xác định nhiệm vụ của tâm lý học quản lý, không nên chỉ chú ý đến mục đích kinh tế
mà còn quan tâm đến cả mục đích giáo dục, nhân văn (tức là phải chú ý đến việc phát huy nhân
tố con người, vì con người). Với mục đích trên, tâm lý học quản lý có nhiệm vụ cơ bản là phân
tích những đặc điểm và điều kiện của hoạt động quản lý với mục đích nâng cao hiệu quả của
công tác trong hệ thống quản lý. Ngoài ra nó còn có các nhiệm vụ sau
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

20
 Nghiên cứu những đặc điểm tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội của các tập thể với tư cách là
chủ thể và khách thể của quản lý, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật của các nhân tố tâm lý xã
hội thuận lợi cho hoạt động quản lý (uy tín, bầu không khí tâm lý, dư luận, tâm trạng tập thể )
 Nghiên cứu cơ sở tâm lý học của việc nâng cao hiệu quả quản lý, lãnh đạo trong các
lĩnh vực, của việc nâng cao hiệu qủa hoạt động của cá nhân và tập thể lao động.
 Nghiên cứu về đặc trưng hoạt động giao tiếp và những phẩm chất nhân cách cần có của
người lãnh đạo; xác định con đường hình thành, phát triển nhân cách; các kiểu người lãnh đạo
cũng như vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo.
 Nghiên cứu nhu cầu, động cơ lao động của tập thể; các định hướng giá trị xã hội, tâm
thế của các thành viên nhằm xác định cách thức tác động phù hợp để phát huy nhân tố con người
trong quản lý.
 Nghiên cứu những yếu tố tâm lýsư phạm của việc đánh giá, tuyển chọn, sắp xếp, đào
tạo cán bộ, trong công tác tư tưởng và kiểm tra
1.2.1.2. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học quản lý
Là một chuyên ngành của tâm lý học, tâm lý học quản lý sử dụng các phương pháp

nghiên cứu trong tâm lý học nói chung và của tâm lý học xã hội nói riêng như : quan sát, điều tra
( trò chuyện, phỏng vấn, trắc nghiệm, thực nghiệm ) ngoài ra tâm lý học quản lý còn sử dụng
các phương pháp sau:
 Phương pháp khái quát các nhận xét độc lập
Thực chất của phương pháp này là lấy ý kiến nhận xét độc lập của một số người (ở cấp
trên, trong ban lãnh đạo, trong tập thể cơ quan) về một vấn đề tâm lý nào đó của người lãnh đạo.
Trong phương pháp này việc chọn đối tượng hỏi ý kiến có vai trò quan trọng.
 Phương pháp nghiên cứu qua kết quả, sản phẩm hoạt động
Thông qua kết quả, sản phẩm hoạt động như các biên bản, báo cáo, nghị quyết, kế hoạch,
hiệu quả công tác để đoán trước được các đặc điểm tâm lý, trình độ chuyên môn, ý chí, kỹ năng
của chủ thể hoạt động. Phân tích kết quả hoạt động của người lãnh đạo cần tách ra được đâu là
kết quả của bản thân người đó, đâu là kết quả của tập thể.
 Phương pháp trò chơi "sắm vai quản lý"
Để tiến hành phương pháp này, người ta xây dựng các tình huống trong quản lý và đưa
từng người nhập cuộc để giải quyết các tình huống đó. Qua cách thức giải quyết các tình huống
mà biết được chỗ mạnh, chỗ yếu của người lãnh đạo, của người muốn bổ nhiệm để có biện pháp,
phương hướng đào tạo, bồi dưỡng phù hợp.
 Phương pháp nghiên cứu tiểu sử hoạt động của người lãnh đạo, quản lý nổi tiếng.
Đây là một trong những phương pháp có giá trị thực tiễn rất lớn. Việc nghiên cứu tiểu sử
hoạt động, những thành công và thất bại trong hoạt động quản lý, lãnh đạo của các chính khách,
các nhà doanh nghiệp chẳng những cho chúng ta thấy được những đức tính cần có của các nhà tổ
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

21
chức, lãnh đạo chính trị, lãnh đạo các đoàn thể nhân dân, lãnh đạo doanh nghiệp ở các giai đoạn
lịch sửxã hội khác nhau mà còn cho chúng ta biết thêm những kinh nghiệm, cách thức giải quyết
các tình huống đa dạng, phức tạp trong quản lý, lãnh đạo.
1.2.2 Lịch sử hình thành tâm lý học quản lý
Ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất, tâm lý con người đã hình thành. Ở thời kỳ

tiền khoa học, những người đứng đầu các bộ lạc đã biết sử dụng những tri thức về con người
được đúc rút qua kinh nghiệm để tiến hành công việc của mình. Xã hội loài người càng phát
triển, sự hiểu biết về con người, đời sống tâm lý, tinh thần của con người không chỉ được khám
phá qua quan sát mà còn bằng những cách thức tinh vi hơn và được lưu truyền từ đời này sang
đời khác nhất là qua ca dao, tục ngữ, qua các câu chuyện cổ tích và sau đó là trong binh thư yếu
lược và sử học kể cả ở phương Đông và phương Tây. Nói chung sự phát triển của tâm lý học
quản lý được chia thành 4 giai đoạn sau
1. Vào thế kỷ IVIII TCN, nhà triết học phương Tây nổi tiếng Xôcrát, trong tập Nghị luận
của mình đã viết rằng: những người nào biết cách sử dụng con người sẽ điều khiển công việc,
hoặc cá nhân hay tập thể một cách sáng suốt. Trong khi những người không biết làm như vậy sẽ
mắc sai lầm trong việc tiến hành cả hai công việc này.
Tư tưởng về quản lý con người nói chung và những yêu cầu về người đứng đầu  cai trị
dân nói riêng còn được tìm thấy trong những quan điểm của nhà triết học cổ Hy Lạp Platon. Trên
quan điểm "Đức trị" Platon cho rằng, muốn trị nước phải đoàn kết dân lại, phải vì dân. Ông rất đề
cao vai trò của tầng lớp những người làm công việc cai trị dân. Theo ông, sức mạnh của giới cai
trị dân làm nên sức mạnh nhà nước, sự nhu nhược của họ là sự yếu kém của nhà nước. Nói cho
cùng, tất cả phụ thuộc vào người đứng đầu, mọi sự thay đổi đều xuất phát từ đây. Một chế độ suy
vong là do lầm lỗi của những người đứng đầu. Mặt khác, ông cũng đòi hỏi rất cao ở đội ngũ này
về phẩm chất đạo đức và năng lực. Theo ông, chỉ có những bậc hiền triết mới làm được công việc
cai trị dân. Muốn vậy, phải ham hiểu biết, thành thật, tự chủ, biết điều độ, ít tham vọng về vật
chất và đặc biệt là phải được đào tạo kỹ lưỡng.
2. Ở Phương đông cổ đại, nhất là ở Trung Hoa và Ấn Độ cũng sớm xuất hiện những tư
tưởng về quản lý con người nói chung và về việc chú trọng những yếu tố tâm lý con người trong
quản lý nói riêng. Những tư tưởng về phép trị nước của Khổng Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử theo
đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu hiện đại vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc và đậm nét trong phong
cách quản lý và văn hoá của nhiều nước châu Á nhất là ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam
Nếu như Khổng Tử, Mạnh Tử và một số người khác chủ trương dùng "Đức trị" để cai trị dân theo
nguyên tắc người trên noi gương, kẻ dưới tự giác tuân theo; lấy phép nhân trị làm học thuyết
quản lý xã hội ; khuyên những người cai trị phải tu thân để trở thành người Nhân, biết làm điều
nhân, xã hội hoá điều nhân và phát triển bằng nhân tâm thì Hàn Phi Tử, Thương Ưởng và một số

người khác lại chủ trương quản lý xã hội bằng "Pháp trị". Hàn Phi Tử cho rằng, trong phép cai trị
dân phải loại bỏ yếu tố tình cảm, thân quen, phải dựa trên pháp luật mới có thể quản lý và phát
triển xã hội. Người cai trị dân phải có những phẩm chất cơ bản là : khả năng kết hợp hài hoà giữa
pháp  thuật  thế ; phải công bằng, thưởng phạt công minh, "pháp không bỏ qua người tôn qúy,
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

22
hình phạt không tránh quan đại thần". Phải dựa vào "pháp" để chọn người, dùng người, cai trị
người, phương pháp cai trị dân phải biến đổi cho phù hợp với thời thế.
3. Vào thế kỷ XVIII, nền văn minh công nghiệp ra đời đã tác động và làm biến đổi có tính
chất cơ bản toàn bộ đời sống xã hội con người mà trước tiên ở phương Tây. Thời kỳ "xã hội công
nghiệp" này đã tạo ra những tiền đề lý luận và thực tiễn, hình thành nhiều chuyên ngành khoa học
phục vụ cho những nhu cầu cấp thiết của xã hội.
Ngay từ thế kỷ XVIII, tư tưởng cho rằng việc quản lý các quá trình kinh tếxã hội cần
phải được tiến hành một cách khoa học đã được một số người đề cập đến như Robert Owen
(17711858) trong việc dùng phương pháp "người giám sát im lặng", Charles Babbge (1792
1871) đã chú trọng đến mối quan hệ giữa giới chủ và công nhân. Tuy nhiên, khoa học quản lý
mới thực sự hình thành với tư cách là một khoa học độc lập khi nhà quản lý học, nhà tâm lý học
và tổ chức lao động người Mỹ F.Taylor (18561915) làm cho các vấn đề của quản lý trở thành
đối tượng của khoa học này và được nghiên cứu một cách đầy đủ và tương đối có hệ thống. Năm
1911, khi "Những nguyên lý quản lý khoa học" của F.Taylor được công bố đã mở ra "kỷ nguyên
vàng" trong quản lý và ông đã được gọi là "cha đẻ của thuyết quản lý theo khoa học".
Tư tưởng cơ bản về quản lý của F.Taylor bao gồm những vấn đề sau
 Chú trọng cải tạo các quan hệ trong quản lý (chú trọng quan hệ giữa người công nhân
và máy móc, chú trọng "tính hợp lý" của hành vi và những thao tác của người lao động).
 Tiêu chuẩn hoá các công việc
 Chuyên môn hoá lao động
 Hình thành quan niệm "con người kinh tế"
Trên cùng quan niệm về con người với tư cách là con người kinh tế. Thuyết quản lý hành

chính do H.Fayol (18411925) nhà quản lý người Pháp cùng thời với F.Taylor cũng ra đời.
H.Fayol đã chú trọng áp dụng những vấn đề cơ bản của khoa học quản lý trong lĩnh vực quản lý
nhà nước và các tổ chức khác ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Ông là một trong những người
sớm đưa ra 5 yếu tố cơ bản của quản lý và đó cũng chính là 5 chức năng cơ bản của quản lý  đó
là : dự tính (dự toán và lập kế hoạch), tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra. Với mục đích
"khoa học hoá" quản lý hành chính, ông đa đưa ra 16 quy tắc hướng dẫn và được gọi là " Những
chức trách quản lý của một tổ chức". Học thuyết về quản lý hành chính của ông có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn to lớn đến nỗi người ta đánh giá ông là một Taylor của châu Á.
Học thuyết về quản lý của F.Taylor và H.Fayol có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn quản lý
thời bấy giờ, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu tỉ mỉ, khoa học về thao
tác lao động, hợp lý hoá lao động sản xuất, chuyên môn hoá lao động, chú trọng khai thác nguồn
nhân lực đã đem lại lợi ích to lớn cho giới chủ tư bản. Song vì quan niệm con người  người công
nhân là con người kinh tế, ham lợi ích vật chất, không có khả năng độc lập sáng tạo, thiếu ý thức
tổ chức kỷ luật, bỏ qua những nhu cầu xã hội, tinh thần của con người nên đã dẫn tới mâu thuẫn
gay gắt giữa giới chủ và giới thợ. Cũng từ đây xuất hiện nhu cầu cấp bách của thực tiễn quản lý
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

23
là: cần thiết phải có một chuyên ngành nghiên cứu những vấn đề thuộc về đời sống tinh thần, văn
hoá và xã hội của con người trong hệ thống quản lý.
4. Tâm lý học quản lý với tư cách là một chuyên ngành của tâm lý học ra đời vào những
năm 20 của thế kỷ XX trên cơ sở trào lưu quản lý theo khoa học. Sự ra đời của tâm lý học quản lý
gắn liền với sự hình thành "Học thuyết quan hệ con người" do Elton Mayo (18801949) xây dựng
và một số đóng góp của các nhà tâm lý học công nghiệp khác như Hugo Munsterberg  nhà tâm
lý học Đức đã phát triển tâm lý học ứng dụng trong lĩnh vực quản lý các xí nghiệp ; nhà tâm lý
học M.Follet đã nghiên cứu về bản chất quyền lực trong quản lý và mối quan hệ con người.
Các ông cho rằng, hiệu quả của lao động không chỉ tăng lên nhờ cách thức quản lý khoa
học mà nó còn phụ thuộc vào thực chất các mối quan hệ con người trong quản lý. Học thuyết
"các mối quan hệ con người" lưu ý các chủ doanh nghiệp tư bản hãy chú ý một cách nghiêm

chỉnh đến tính chất các mối quan hệ giữa người quản lý và công nhân, cần tiến hành những biện
pháp đặc biệt để xây dựng bầu không khí lành mạnh. Học thuyết của E.Mayo cũng giúp cho các
chủ tư bản hiểu rằng : tình cảm, tâm trạng, niềm tin và các mối quan hệ của công nhân có vai trò
quan trọng đối với việc tăng lợi nhuận cho họ. Tuy nhiên vì bản chất các mối quan hệ giữa chủ tư
bản và công nhân mang tính chất đối kháng nên trong chế độ tư bản chủ nghĩa, về nguyên tắc rất
khó có thể xây dựng được các mối quan hệ con người thực sự tốt đẹp, bình đẳng. Tâm lý học
quản lý ở phương Tây, từ những năm 1930 đã phát triển theo xu hướng thực dụng. Đặc biệt sự ra
đời và phát triển của tâm lý học hành vi đã ảnh hưởng lớn đến khoa học quản lý.
Chủ nghĩa Mác ra đời đã tạo một bước ngoặt to lớn đối với sự phát triển kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội và khoa học của nhân loại. Tuy nhiên, vấn đề quản lý các quá trinh kinh tếxã hội
theo mục tiêu của chủ nghĩa xã hội thực sự mới bắt đầu sau Cách mạng tháng 10 năm 1917  khi
đất nước XHCN đầu tiên trên thế giới ra đời. Dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin, trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước Nga Xô viết, khoa học quản lý cùng với tâm lý học quản lý và các khoa học
nhân văn khác mới thực sự được quan tâm và phát triển mạnh mẽ.
V.I.Lênin rất quan tâm đến khoa học quản lý và coi đó là một phương tiện, một công cụ
tối quan trọng để phát triển kinh tếxã hội của đất nước XHCN. Quán triệt chỉ thị của người, nhà
nước Nga Xô Viết đã sớm quan tâm vận dụng những tri thức tâm lý học, đặc biệt là tâm lý học xã
hội vào lĩnh vực quản lý con người. Tháng 3/1924 Hội nghị lần thứ hai về tổ chức lao động khoa
học được tiến hành. Trong Hội nghị đã có nhiều tác giả trình bày những kết quả nghiên cứu về
tâm lý học quản lý.
 Nghiên cứu những phẩm chất của người lãnh đạo, nhấn mạnh đến khả năng về tầm nhìn
xa, trông rộng, tính kiên trì, quyết đoán, khả năng kiềm chế bản thân
 Nghiên cứu những yêu cầu tâm lý học của việc ra các chỉ thị, mệnh lệnh như : phải
ngắn gọn, rành mạch, chính xác, phù hợp với đặc điểm tâm lý của đối tượng, của người thực
hiện.
Đến cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX lĩnh vực tâm lý học quản lý
đặc biệt được quan tâm. Trong các xí nghiệp người ta yêu cầu lãnh đạo phải xác định và đưa ra
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý


24
được những chỉ tiêu xã hội và tâm lý trong kế hoạch sản xuất, khắc phục tình trạng "kinh tế đơn
thuần"; có nghĩa là yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải quan tâm giải quyết những vấn đề phức
hợp của con người trong tập thể lao động như :
+ Từng bước giảm bớt sự khác biệt về xã hộikinh tế giữa lao động chân tay và lao động
trí óc.
+ Xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa lãnh đạo và tập thể; lãnh đạo với cấp dưới; cá
nhân với cá nhân; cá nhân với tập thể, xã hội
+ Cải thiện sinh hoạt vật chất, văn hoá tinh thần cho những người lao động.
Ở Việt Nam, khoa học tâm lý phát triển tương đối muộn. Mãi đến năm 1958 mới thành
lập Bộ môn Tâm lý giáo dục đầu tiên của cả nước thuộc trường Đại học sư phạm Hà nội I. Giáo
trình Tâm lý học đại cương, Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm đầu tiên được các tác giả Nguyễn
Đức Minh, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân biên soạn và đưa vào giảng dạy cho sinh viên khoa tâm lý
giáo dục của trường cũng như cho sinh viên các trường Đại học sư phạm trong cả nước. Những
năm đầu 1980, những kiến thức tâm lý học quản lý đã được đưa vào giảng dạy tại trường Đảng
cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Ngày 5/10/1987 Bộ
môn tâm lý học xã hội chính thức được thành lập. Giáo trình Tâm lý học xã hội trong công tác
lãnh đạo, quản lý (sơ thảo) do tác giả Nguyễn Hải Khoát chủ biên chính thức ra đời và đưa vào
giảng dạy năm 1991. Chương trình tâm lý học quản lý cũng được đưa dần vào các trường Đảng
khu vực, trong đó có trường Nguyễn Ái Quốc. Ngay từ năm 1983, trong khoa kiến thức bổ trợ đã
có dạy 1 số chuyên đề tâm lý học.
Năm 19851986, ở trường Nguyễn Ái Quốc I đã đưa thành môn học và đến năm 1990
chính thức có khoa Tâm lýxã hội học và dân số. Tháng 6/1993, do yêu cầu phát triển của chuyên
ngành ở phân viện Hà Nội chính thức thành lập Khoa Tâm lý học và đầu tư cho việc xây dựng
đội ngũ cán bộ giảng dạy, biên soạn chương trình cho các hệ cử nhân chính trị, lý luận chính trị
cao cấp, bồi dưỡng và các lớp tại chức cho cán bộ chủ chốt ở các tỉnh. Hiện nay, tâm lý học quản
lý là một môn học không thể thiếu được trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt
các cấp, kể cả các cán bộ làm công tác tổ chức, kiểm tra và lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước
thuộc Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Mặc dù ra đời muộn, song tâm lý học nói chung
và tâm lý học xã hội, tâm lý học quản lý nói riêng ở Việt Nam đã thực sự phục vụ mục đích chính

trị của Đảng ta, làm tốt hai chức năng cơ bản là chức năng tư tưởng hệ và chức năng ứng dụng
trong công cuộc đổi mới đất nước ta.
1.2.3 Vai trò của yếu tố tâm lý trong lãnh đạo, quản lý và một số lĩnh vực khác
a. Bản chất của việc quản lý con người
Như chúng ta đã biết, việc quản lý con người, quản lý tập thể con người là nhiệm vụ
chính của việc quản lý không phải chỉ là đối với toàn bộ xã hội mà còn đối với từng cấp, từng
ngành, từng tổ chức nằm trong phạm vi của nó. Có thể nói, con người có vai trò chủ đạo trong hệ
thống quản lý. Trong lĩnh vực quản lý người ta xem xét con người và hoạt động của con người
trên ba góc độ
PTIT
Chương I : Lý luận chung về tâm lý và tâm lý quản lý

25
+ Con người với tư cách là chủ thể quản lý
+ Con người với tư cách là đối tượng quản lý
+ Quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
Con người và tập thể không thụ động trước tác động của quản lý, bởi vì mỗi con người
đều có ý chí, có ý thức, có những lợi ích và nhu cầu riêng, có nhận thức về các sự kiện. Trong hệ
thống quản lý, con người có thể tiếp nhận các quyết định quản lý, tuân theo các quyết định đó, và
cũng có thể không tiếp nhận hoặc tiếp nhận ở một mức độ nhất định. Chính vì thế, trong việc
quản lý con người, sự tác động lẫn nhau giữa hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý không thể
theo quy định cứng nhắc mà mang tính linh hoạt, mềm dẻo. Vậy vấn đề đặt ra là có thể quản lý
con người, điều chỉnh được công việc và hành vi của con người hay không? Quản lý con người là
quản lý cái gì?
Như chúng ta đã biết, con người sống trong xã hội không thể tách khỏi người khác và xã
hội, mà luôn có mối quan hệ gắn bó với người khác, với tập thể và với xã hội. Do đó, quản lý và
lãnh đạo con người trong xã hội chúng ta không thể tách rời khỏi quản lý tập thể, quản lý xã hội.
Quản lý con người một cách có khoa học là phải thiết lập được sự hài hoà, tối ưu giữa những lợi
ích, nguyện vọng và sự phát triển của cá nhân, của tập thể và điều hoà được những yêu cầu của cá
nhân, của tập thể và xã hội đối với nhau.

Trong chủ nghĩa tư bản, dù có phát triển cao như hiện nay thì về cơ bản chức năng quản
lý của nó vẫn là giám sát, đàn áp, bóc lột người lao động, thao túng công việc và hành vi của con
người. Vì thế theo Các Mác, nó đã dần dần làm tha hoá con người, khiến con người thành “cỗ
máy” chỉ biết phục tùng.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa của chúng ta, việc quản lý con người và quản lý các tập thể
lao động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội có nghĩa là tổ chức một cách hợp lý hoạt động
của từng người, của từng tập thể; là tổ chức có hiệu quả đời sống kinh tế, chính trị  xã hội và tinh
thần của họ; là giáo dục con người Việt Nam thấm nhuần những quan điểm của Chủ nghĩa Mác
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giúp họ sống và làm việc theo pháp luật; theo quy định về đạo
đức cách mạng.
Quản lý con người là một công việc khó khăn, phức tạp không phải ai cũng có thể làm
được. Với quan điểm về bản chất quản lý con người như trên, chúng ta có thể luận giải nó qua
các mặt cụ thể sau đây:
 Quản lý con người trước tiên là phải xác định được vị trí đúng đắn của mỗi người trong
tập thể, trong hệ thống xã hội, quy định rõ chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ và vai trò xã hội của
họ;
 Quản lý con người còn có nghĩa là đào tạo, bồi dưỡng con người; hướng dẫn, giúp đỡ
họ thực hiện vai trò xã hội, những chức năng, nghĩa vụ và quyền hạn của họ với tư cách là một
người công dân và tư cách là một chủ thể hoạt động ở vị trí của họ trong hệ thống tổ chức. Ở đây,
PTIT

×