Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

giải pháp Nâng cao năng lực Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (994.09 KB, 106 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
…………/………… …………/…………





NGUYỄN THANH TÂM





TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN
NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH AN GIANG




LUẬN VĂN THẠC SĨ HÀNH CHÍNH CÔNG




TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012

MỤC LỤC
Nội dung
Trang


LỜI NÓI ĐẦU
1
PHẦN NỘI DUNG
5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ

5
1.1. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng bộ máy chính quyền cấp xã.
5
1.1.1. Về xây dựng Hội đồng nhân dân xã.
6
1.1.2. Về xây dựng Ủy ban nhân dân xã.
7
1.2. Cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của ủy ban nhân dân cấp xã.
8
1.2.1. Hệ thống chính quyền cấp xã ở nước ta từ năm 1945 đến trước khi có
Luật tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
2003.

8
1.2.2. Tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp xã hiện nay.

11
1.3. Những đặc điểm, nguyên tắc làm việc, trách nhiệm và mối quan hệ
công tác của Ủy ban nhân dân cấp xã trong hệ thống chính quyền địa
phương.

16
1.3.1. Những đặc điểm của Ủy ban nhân dân cấp xã

16

1.3.2. Nguyên tắc làm việc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
22

1.3.3. Trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Uỷ ban nhân dân cấp
xã.
23
1.3.4. Các mối quan hệ công tác của Ủy ban nhân dân cấp xã.
29
1.3.5. Chế độ hội họp, giải quyết công việc của Ủy ban nhân dân cấp xã.
32
1.3.6. Quản lý và ban hành văn bản của Ủy ban nhân dân cấp xã.
39
1.4. Vai trò quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân trong hệ thống chính
quyền cấp xã.

42

1.4.1. Trong lĩnh vực kinh tế.
42
1.4.2. Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và tiểu
thủ công nghiệp.

43
1.4.3. Trong lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải.
44
1.4.4. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá và thể dục thể thao.
44
1.4.5. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và thi

hành pháp luật ở địa phương.

45
1.4.6. Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo.
46
1.4.7. Trong việc thi hành pháp luật.
46
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY
BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH AN GIANG
48
2.1. Khái quát vị trí địa lý, tự nhiên, dân số.
48
2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức Ủy ban
nhân dân cấp xã ở tỉnh An Giang.

50
2.2.1. Tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp xã.

50
2.2.2. Hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh An Giang.
57
2.3. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở tỉnh
An Giang trong thời gian vừa qua.

60
2.3.1. Mặt đạt được.
60
2.3.2. Những hạn chế.
61
2.3.3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.

67
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan.
67
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan.
68
2.3.3.3. Một số bài học kinh nghiệm trong tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân cấp xã.
70
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở
TỈNH AN GIANG

71
3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy
ban nhân dân cấp xã.
71
3.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân
cấp xã ở tỉnh An Giang nói riêng và ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
76
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về ủy ban nhân dân các cấp
trong đó có những quy định chi tiết, cụ thể đối với ủy ban nhân dân cấp xã.
76
3.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã.
78
3.2.3. Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy của Ủy ban nhân dân cấp xã.
81
3.2.4. Hiện đại hoá nền hành chính nhà nước ở cấp xã.
84
3.2.5. Đổi mới công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã.

86
3.2.6. Củng cố mối quan hệ của Ủy ban nhân dân cấp xã với nhân dân, huy
động sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào việc giám sát các hoạt động
của Ủy ban nhân dân cấp xã.
91
PHẦN KẾT LUẬN
96
Danh mục tài liệu tham khảo
99

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền địa phương của Việt Nam là một bộ phận hợp thành của
chính quyền nhà nước thống nhất, bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và các cơ quan, tổ chức
khác được thành lập theo quy định của pháp luật nhằm quản lý các lĩnh vực
của đời sống xã hội ở địa phương, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ và
kết hợp hài hoà giữa lợi ích nhân dân địa phương với lợi ích chung của cả
nước.
Chính quyền địa phương ở Việt Nam có 3 cấp đó là: Tỉnh, huyện và xã.
Trong đó, cấp xã là cấp chính quyền cơ sở, gần dân nhất, đồng thời là nơi trực
tiếp triển khai những nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội cũng như
đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn; Đảm bảo cho các nghị
quyết của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước được thực hiện một
cách đồng bộ và hiệu quả. Chính vì vậy, chính quyền cấp xã đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong hệ thống chính quyền địa phương ở Việt Nam.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá X, có nêu: “Chính quyền xã có
Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm xây dựng và chỉ
đạo thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quản lý ngân sách xã,
quản lý nhà nước về các lĩnh vực giáo dục, y tế, đất đai, xây dựng, hộ tịch,…

trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ
của chính quyền cấp xã, xác định cụ thể các chức danh công chức xã theo
hướng ổn định và chuyên sâu về nghiệp vụ.”
Như vậy, trong hệ thống chính quyền của Nhà nước ta, chính quyền cấp
xã có vị trí rất quan trọng ở cơ sở, đây là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân, có chức năng quản lý hành chính trên mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng. Ở nước ta cũng như

2
các nước trên thế giới, vai trò của chính quyền địa phương là đặc biệt quan
trọng, quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp
quyền do dân, vì dân vững mạnh. Do cấp xã là đơn vị hành chính thấp nhất,
gần dân nhất, có trách nhiệm chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân địa
phương, phát huy mọi khả năng của mình để xây dựng địa phương vững
mạnh, nên chính quyền xã, phường mạnh hay yếu việc làm của cấp xã tốt
hay không tốt, đúng hay sai điều tác động trực tiếp đến đời sống vật chất,
tinh thần có khi ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị của người dân, đến lòng
tin của nhân dân đến Đảng và Nhà nước.
Trong thời gian vừa qua, chính quyền cấp xã đã thực hiện khá tốt vai
trò nhiệm vụ của mình, nhưng vẫn còn ở một vài địa phương, chính quyền
cấp xã vẫn còn nhiều hạn chế yếu kém, như: công tác quản lý, điều hành của
bộ máy chính quyền cấp xã còn hạn chế, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa
cao, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật, kỷ cương của một bộ phận cán bộ công
chức còn yếu kém, năng lực trình độ chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới hiện
nay. Điều này đã gây ảnh hưởng rất lớn đến năng lực quản lý và điều hành
của Ủy ban nhân dân cấp xã, đồng thời nó còn làm mất uy tín của Đảng và
Nhà nước đối với nhân dân trong địa phương, từ đó nhiều chủ trương, chính
sách của Nhà nước đã không được nhân dân hưởng ứng, ngược lại còn có
những thái độ và hành động đi ngược lại với những chủ trương, chính sách
đó.

Vì vậy, việc chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân
cấp xã ở tỉnh An Giang” làm luận văn tốt nghiệp chương trình thạc sĩ quản
lý Nhà nước, đó là nhằm mục đích tìm ra những nguyên nhân, giải pháp nhằm
củng cố và nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp
xã ở tỉnh An Giang để đáp ứng được nhu cầu của giai đoạn công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước hiện nay.


3
2. Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài
Luận văn tập trung việc tổng hợp và nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
các hoạt động tổ chức và điều hành của Ủy ban nhân dân cấp xã đối với việc
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở
địa phương; các vấn đề liên quan đến việc sử dụng, bố trí, tuyển dụng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã nói chung và tình hình thực tế đội ngũ cán bộ công
chức cấp xã trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng. Qua đó, nhằm tìm ra những
nguyên nhân, đề xuất những giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, điều
hành của Ủy ban nhân dân cấp xã đảm bảo phù hợp với những nhiệm vụ, yêu
cầu phát triển trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã rất rộng và đa dạng nên trong
phạm vi của khoá luận tốt nghiệp, em chỉ tập trung nghiên cứu một số hoạt
động có tác động trực tiếp đến tổ chức bộ máy và hoạt động của Ủy ban nhân
dân cấp xã từ năm 2005 đến nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao
năng lực tổ chức và trong hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở tỉnh An
Giang.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về khoa học tổ chức nhân sự, khoa học
quản lý; các quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã.

- Luận văn sử dụng và kết hợp các phương pháp luận duy vật biện
chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp qui nạp, phương pháp thống kê,
phương pháp chuyên gia.



4
5. Những đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận, đối với chính quyền cấp xã đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu, đề ra những giải pháp, cách thức nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
của chính quyền cấp xã. Vì vậy, luận văn này chỉ nhằm hoàn thiện hơn về mặt
lý luận đối với chính quyền cấp xã, và trong thực tế ở những vùng, miền khác
nhau, có những phong tục, tập quán sinh sống khác nhau, do vậy cần phải xác
định được những mấu chốt của vấn đề trong xây dựng và cũng có chính
quyền ở cơ sở vừa phù hợp với các chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước vừa phù hợp với thực tế địa phương, đồng thời phải đáp
ứng yêu cầu cải cách, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đảm bảo
được các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới hiện nay; luận văn còn
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, nhà hoạch định
chính sách ở tỉnh An Giang.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần
nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân cấp xã.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã
ở tỉnh An Giang.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của
Ủy ban nhân dân cấp xã ở tỉnh An Giang.






5

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng bộ máy chính quyền ở cơ
sở
Thực tế, cơ quan Nhà nước ở Trung ương không thể trực tiếp quản lý
toàn diện, trọn vẹn tất cả các công việc nhà nước trên toàn bộ lãnh thổ quốc
gia. Mặt khác, mỗi vùng lãnh thổ của quốc gia có những đặc điểm riêng về vị
trí địa lý, tình hình kinh tế, xã hội, truyền thống, phong tục, tập quán, phong
phú, đa dạng mà Trung ương không thể nắm, hiểu hết và thoả mãn đầy đủ các
nhu cầu của dân cư cũng như thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước ở địa
phương. Do đó, cần có đại diện của mình tại địa phương hoặc uỷ quyền cho
một cơ quan, tổ chức ở địa phương thực hiện công việc nhà nước trên địa bàn
lãnh thổ, để đảm bảo quản lý xã hội một cách có hiệu lực, hiệu quả. Thực tế,
ngay sau khi giành được độc lập, việc đầu tiên mà Bác Hồ quan tâm là xây
dựng chính quyền non trẻ và từ bước hoàn thiện bộ máy Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương, điều này được thể hiện qua việc ban hành hai sắc lệnh
63/SL và 77/SL năm 1945 quy định về chính quyền địa phương các cấp, đặc
biệt là chính quyền cơ sở; Đến nay, theo điều 118 - Hiến pháp nước cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (Sữa đổi), hệ thống hành chính nước ta
được tổ chức thành bốn cấp: Chính phủ Trung ương; chính quyền tỉnh, Thành
phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); chính quyền quận, huyện,

thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện); chính quyền xã,
phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Trong hệ thống đơn vị hành chính lãnh
thổ thì cấp xã là đơn vị có địa giới hành chính nhỏ nhất, vì vậy chính quyền

6
cấp xã được gọi là chính quyền cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền bốn cấp
hoàn chỉnh.
Cấp xã được coi như là chính quyền cấp cơ sở, nơi trực tiếp thi hành
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và địa phương, có
chức năng quản lý hành chính trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, theo sự phân công của cơ quan hành
chính cấp trên, nhằm đảm bảo pháp luật được tôn trọng và thực hiện đầy đủ,
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của công dân, đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân ổn định đời sống
vật chất và tinh thần trong phạm vi thẩm quyền quản lý của mình.
1.1.1. Về xây dựng Hội đồng nhân dân xã
Căn cứ vào điều 1, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, thì Hội đồng nhân dân
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng
nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy
tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với
cả nước. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội
đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa

phương.
Về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, theo Luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân quy định có từ mười lăm đến ba mươi lăm đại biểu,

7
tùy vào số lượng dân số và vị trí địa lý của từng đơn vị xã phường, thị trấn.
Cụ thể: Xã, thị trấn miền xuôi có từ bốn nghìn người trở xuống được bầu hai
mươi lăm đại biểu, có trên bốn nghìn người thì cứ thêm hai nghìn người được
bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại biểu; Xã,
thị trấn miền núi và hải đảo có từ ba nghìn người trở xuống đến hai nghìn
người được bầu hai mươi lăm đại biểu, có trên ba nghìn người thì cứ thêm
một nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba
mươi lăm đại biểu; xã, thị trấn có dưới hai nghìn người trở xuống đến một
nghìn người được bầu mười chín đại biểu; xã, thị trấn có dưới một nghìn
người được bầu mười lăm đại biểu; Phường có từ tám nghìn người trở xuống
được bầu hai mươi lăm đại biểu, có trên tám nghìn người thì cứ thêm bốn
nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi
lăm đại biểu;
1.1.2. Về xây dựng Ủy ban nhân dân xã
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra và là cơ quan chấp hành
của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Chính quyền cấp xã
mang tính tự quản nhất định với đầy đủ tư cách pháp nhân, có ngân sách, tài
sản riêng, năng lực pháp lý tham gia tố tụng. Đồng thời chính quyền cấp xã
chịu sự kiểm soát của chính quyền cấp trên; phân cấp không có nghĩa là trao
độc lập cho chính quyền địa phương mà là hình thức chính quyền trung ương
uỷ quyền cho chính quyền địa phương các cấp thực hiện những công việc
nhất định. Trong phạm vi thực hiện nhiêm vụ được giao, chính quyền cấp xã
được trao thẩm quyền, những nguồn lực nhất định và chịu sự kiểm soát của

chính quyền Trung ương và chính quyền cấp trên trong việc thực hiện thẩm
quyền của mình.

8
Điều 123 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: “Ủy ban nhân
dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành
Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết
của Hội đồng nhân dân (hội đồng nhân dân)”.
Điều 2 Luật tổ chức của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm
2003 quy định: “Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân
dân, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà
nước cấp trên”.
Theo đó: Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu ra, chịu trách nhiệm trước Hội
đồng nhân dân cấp xã và cơ quan nhà nước cấp trên về việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Như vậy, Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương có thẩm quyền chung, hoạt động với tư cách:
Cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp;
Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Số lượng thành viên Ủy ban nhân dân xã có từ 3 đến 5 thanh viên, tuy
thuộc vào điều kiện tự nhiên, dân số của mỗi vùng.
1.2. Cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân
cấp xã
1.2.1. Hệ thống chính quyền cấp xã ở nước ta từ năm 1945 đến trước khi
có Luật tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
năm 2003


9
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương giữ vị
trí, vai trò rất quan trọng. Ở nước ta, chính quyền địa phương của Nhà nước
kiểu mới được thành lập bằng cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng vũ
trang giành chính quyền từ tay bọn thực dân đế quốc và bọn tay sai của chúng
trong cuộc cách mạng tháng tám năm 1945. Các ủy ban giải phóng ra đời
trong cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa
phương là hình thức chính quyền “tiền chính phủ” của nhân dân tại các địa
phương khi ta chưa giành chính quyền trong cả nước. Cách mạng tháng tám
1945 thành công, các Ủy ban giải phóng đã trở thành các Ủy ban nhân dân là
tổ chức chính quyền tiền thân của các Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành
chính sau này do Chính phủ quy định.
Để xây dựng cơ sở pháp lý cho chính quyền địa phương, chỉ vài tháng
sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ
công hòa (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành hai sắc lệnh đầu
tiên về tổ chức chính quyền địa phương. Theo quy định của sắc lệnh số 63/SL
và sắc lệnh số 77/SL năm 1945, chính quyền địa phương ở nước ta được tổ
chức ở 4 cấp, đó là: cấp kỳ, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; ở thành phố tổ
chức hai cấp chính quyền đó là cấp thành phố và cấp khu phố.
Kế thừa các sắc lệnh 63/SL và 77/SL, Hiếp pháp năm 1946 quy định
nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có 3 bộ: Bắc, Trung, Nam.
Mỗi bộ chia thành Tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã.
Ở tỉnh, thành phố thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông
trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã và xã cử ra Ủy ban
hành chính; Ở bộ và huyện chỉ có Ủy ban hành chính, chứ không có Hội đồng
nhân dân.
Đến Hiến pháp năm 1959, đã chính thức bãi bỏ cấp hành chính có tính
chất vùng miền (khu, liên khu), chỉ còn ba cấp: cấp tỉnh, khu tự trị, thành phố
trực thuộc trung ương; cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã; và cấp xã,


10
thị trấn; đồng thời ở mỗi cấp đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban
hành chính; Các đơn vị hành chính không chỉ thuần túy là cơ sở để tổ chức hệ
thống chính quyền địa phương, mà còn là cơ sở để tổ chức các cơ quan tư
pháp.
Hiến pháp 1980 vẫn duy trì 3 cấp hành chính địa phương, các đơn vị
hành chính điều là cấp tổ chức chính quyền hoàn chỉnh, có Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân. Việc tổ chức chính quyền địa phương không còn có sự
phân biệt địa bàn nông thôn và địa bàn đô thị. Khái niệm “đơn vị hành chính
tương đương” chính thức được ghi nhận (Thành phố trực thuộc trung ương,
quận, phường,… điều được xác định tương đương với tỉnh, với huyện, với
xã,…). Điều này thể hiện quan niệm lấy địa bàn nông thôn làm chuẩn. Cả ba
cấp chính quyền địa phương đều là những cấp cơ bản, có tổ chức chính quyền
hoàn chỉnh; Theo luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
1989, Thường trực Hội đồng nhân dân được thành lập từ cấp huyện và tương
đương trở lên; Thường trực Ủy ban nhân dân các cấp bị bãi bỏ. Những công
việc thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân đều phải được thảo luận tập thể
và quyết định theo đa số trong các phiên họp toàn thể Ủy ban nhân dân.
Đến Hiến pháp 1992, việc quy định thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định và không xác định đơn vị
hành chính nào là cơ bản, có tổ chức chính quyền hoàn chỉnh. Theo Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp năm 1994 và năm 2003,
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được thiết lập ở tất cả các cấp hành
chính như hiện nay.
Nhìn chung lại, từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến nay, hệ thống
chính quyền địa phương đã không ngừng được cũng cố, kiện toàn, đáp ứng
kịp thời yêu cầu của các thời kỳ cách mạng, đã có những đóng góp to lớn vào
sự nghiệp cách mạng của cả nước. Có thể nói, nếu so với Quốc hội, Chính
phủ, thì chính quyền địa phương là một bộ phận trong tổ chức Nhà nước ít đổi


11
mới nhất cả ở phương diện tư duy nhận thức, phương diện chủ trương, nhất là
trong thực tiễn đời sống xã hội. Quá trình cải cách tổ chức chính quyền địa
phương chưa có nhiều biện pháp có tính thực chất căn bản và có tính quyết
định. Chính vì thế, có nhiều nơi, nhiều lúc, tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính quyền địa phương thể hiện sự trì trệ, nhiều hạn chế, khuyết điểm.
1.2.2. Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã hiện nay
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Ủy ban nhân
dân cấp xã cần phải có một cơ cấu, tổ chức khoa học và hợp lý, phát huy vai
trò là nền móng của Bộ máy hành chính nhà nước. Căn cứ Luật tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì Ủy ban
nhân dân cấp xã có cơ cấu tổ chức và hoạt động với những nét cơ bản sau:
1.2.2.1. Cơ cấu của Ủy ban nhân dân cấp xã
Điều 122 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
quy định: Ủy ban nhân dân cấp xã do Hội đồng nhân dân xã bầu ra, có từ 03
đến 05 thành viên, gồm có Chủ tịch, Phó chủ tịch và Uỷ viên.
Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban nhân dân
do Hội đồng nhân dân cấp xã trực tiếp bầu ra. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
xã nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, còn các thành viên
khác của Ủy ban nhân dân cấp xã thì không nhất thiết phải là đại biểu Hội
đồng nhân dân. Kết quả bầu các thành viên của Ủy ban nhân dân cấp xã phải
được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê chuẩn.
Trong nhiệm kỳ, nếu khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thì Chủ
tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch Ủy ban
nhân dân để Hội đồng nhân dân bầu. người được bầu giữ chức chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã trong nhiệm kỳ không nhất thiết là đại biểu Hội đồng
nhân dân. quy định này nhằm tạo ra cơ chế linh hoạt và đảm bảo tính hiệu quả
trong việc thực hiện chức năng quản lý và điều hành của hệ thống hành chính

12

nhà nước, khắc phục tình trang cục bộ địa phương. Điều này có mục đích tốt,
tuy nhiên có thể sẽ gặp phải khó khăn về mặt tâm lý, người dân địa phương có
thể cho rằng người địa phương khác đến không thể hiểu được tình hình của
đời sống dân cư tại địa phương mình. Đây chính là một trong những vấn đề
của cải cách bộ máy nhà nước.
Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu ra theo sự giới thiệu của chủ tịch Ủy ban nhân dân bằng hình thức bỏ
phiếu kín.
Các thành viên của Ủy ban nhân dân cấp xã cũng do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín, theo sự giới thiệu của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân.
Tuỳ theo quy mô số dân ở các xã, phường, thị trấn mà có cơ cấu tổ chức
khác nhau. Cụ thể:
* Ở các xã miền núi, hải đảo, có dân số từ 5000 người trở lên; xã đồng
bằng, trung du có dân số từ 8000 người trở lên và xã biên giới:
Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân gồm 05 thành viên và được phân
công như sau:
Một chủ tịch phụ trách chung, khối nội chính, quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội ở xã.
Hai phó chủ tịch: Một phó chủ tịch phụ trách khố kinh tế, tài chính, xây
dựng, giao thông, nhà đất và tài nguyên môi trường. Một phó chủ tịch phụ
trách khối văn hoá - xã hội và các lĩnh vực xã hội khác
Các uỷ viên Ủy ban nhân dân: Một uỷ viên phụ trách công an. Một uỷ
viên phụ trách quân sự.
* Ở các xã không thuộc diện nêu trên:

13
Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân gồm 03 thành viên: một chủ tịch,
một phó chủ tịch và một uỷ viên. căn cứ vào lĩnh vực công việc được phân
công theo quy định của pháp luật mà chủ tịch Ủy ban nhân dân xã phân công

các thành viên phụ trách cho phù hợp với từng địa phương. trong nhiệm kỳ,
Hội đồng nhân dân xã có thể ấn định thêm số lượng thành viên Ủy ban nhân
dân cấp mình nhưng tổng số không vượt quá 05 thành viên và phải được chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê chuẩn.
* Đối với Ủy ban nhân dân phường, thị trấn:
Cơ cấu tổ chức gồm 05 thành viên: Một chủ tịch, hai phó chủ tịch, hai uỷ
viên và được phân công phụ trách công việc như sau:
Một chủ tịch phụ trách chung, khối nội chính, quản lý công tác quy
hoạch đô thị.
Hai phó chủ tịch: Một phó chủ tịch phụ trách khối kinh tế - tài chính xây
dựng cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, nhà đất và tài nguyên môi trường.
Một phó chủ tịch phụ trách khối văn hoá xã hội và các lĩnh vực xã hội khác.
Hai uỷ viên: Một uỷ viên phụ trách công an. Một uỷ viên phụ trách quân
sự.
1.2.2.2. Chức danh và số lượng đội ngũ cán bộ, công chức của Ủy ban
nhân dân cấp xã
Căn cứ Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính Phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Trong đó quy định của
thể như sau:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau đây
gọi chung là cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm có các chức vụ sau đây:

14
+ Bí thư, Phó Bí thư đảng ủy, Thường trực đảng ủy (nơi không có Phó
Bí thư chuyên trách công tác đảng), Bí thư, Phó Bí thư chi bộ (nơi chưa thành
lập đảng ủy cấp xã);
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
+ Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ

tịch Hội Cựu chiến binh.
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã),
gồm có các chức danh sau đây:
+ Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - Thống kê;
+ Địa chính - Xây dựng;
+ Tài chính - Kế toán;
+ Tư pháp - Hộ tịch;
+ Văn hoá - Xã hội.
* Sau khi có luật Cán bộ, công chức được Quốc hội thông qua ngày 13
tháng 11 năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 92/2009/ND-CP
ngày 22 tháng 10 năm 2009 quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ
chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, cụ thể các chức danh của cán bộ,
công chức cấp xã như sau:


15
- Cán bộ cấp xã có các chức vụ:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
+ Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn
có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt
Nam);

+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
+ Trưởng Công an;
+ Chỉ huy trưởng Quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hoá - xã hội.
- Về Số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo loại đơn vị
hành chính cấp xã; cụ thể như sau:
+ Cấp xã loại 1: không quá 25 người;
+ Cấp xã loại 2: không quá 23 người;

16
+ Cấp xã loại 3: không quá 21 người;
Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp xã thực hiện theo quy định tại Nghị
định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về việc
phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Tiêu chí phân loại dựa vào
dân số, diện tích và các yếu tố đặc thù của các xã, phường, thị trấn.
Ngoài các chức danh, chức vụ nêu trên, lực lượng cán bộ, công chức xã
còn có các đối tượng là cán bộ không chuyên trách hay bán chuyên trách do
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tùy thuộc vào tình hình thực tế của từng
địa phương, tương ứng với cấp xã loại 1 được bố trí tối đa không quá 22
người, cấp xã loại 2 được bố trí tối đa 20 người và cấp xã loại 3 được bố trí
tối đa không quá 19 người. Đồng thời, những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp. Mức phụ cấp cụ thể của từng chức
danh do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định với mức không vượt quá hệ số
1,0 mức lương tối thiểu chung.

1.3. Những đặc điểm, nguyên tắc làm việc, trách nhiệm và các mối
quan hệ công tác của Ủy ban nhân dân cấp xã trong hệ thống chính
quyền địa phương
1.3.1. Những đặc điểm của Ủy ban nhân dân cấp xã
1.3.1.1. Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân
cùng cấp
Ngay từ khi thành lập nước, chính quyền cấp xã đã được công nhận là
một cấp chính quyền cơ sở và được thể hiện trong các bản Hiến pháp của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và sau này là nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Điều 118, Hiến pháp 1992 quy định: Các đơn vị hành chính
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tỉnh chia thành
huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; Thành phố trực thuộc Trung ương chia

17
thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc
tỉnh, thi xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Việc thành lập
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở các đơn vị do luật định.
Trong hệ thống đơn vị hành chính lãnh thổ thì xã, phường, thị trấn là đơn
vị hành chính nhỏ nhất, vì vậy chính quyền cấp xã còn được gọi là chính
quyền cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền 4 cấp hoàn chỉnh: trung ương,
tỉnh, huyện, xã. Chính quyền cơ sở (xã, phường thị trấn – gọi chung là cấp xã)
là cấp hành chính trực tiếp quan hệ với dân trong hệ thống tổ chức của bộ
máy hành chính Nhà nước, là cấp trực tiếp thực hiện quản lý nhà nước ở địa
phương có chức năng quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội
theo Hiếp pháp và pháp luật, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân.
Chính quyền cấp xã là cấp thấp nhất trong hệ thống hành chính nhà
nước. Theo qui định của Hiến pháp và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân thì không có cấp chính quyền nào thấp hơn cấp xã, phường, thị

trấn. Cấp xã thỏa mãn các yếu tố cấu thành của một cấp chính quyền, đó là
được Nhà nước trao chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý công việc ở địa
phương.
Xét về mặt cơ cấu tổ chức, thì chính quyền cấp xã bao gồm Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quản lý địa phương theo
Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn
ngừa và chống biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền,
tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong cơ quan, cán bộ,
viên chức nhà nước và trong bộ máy hành chính địa phương. Hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng, quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách

18
nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân thực
hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định của Hiến pháp và pháp luật,
đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy quyền
chủ động, sáng tạo của địa phương.
Uỷ ban nhân dân cấp xã do Hội đồng nhân dân bầu và là cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ủy ban nhân dân
cấp xã mang tính tự quản nhất định với đầy đủ tư cách pháp nhân, có ngân
sách, tài sản riêng, năng lực pháp lý tham gia tố tụng. Đồng thời Ủy ban nhân
dân cấp xã cũng chịu sự kiểm soát của Ủy ban nhân dân cấp trên; phân cấp
không có nghĩa là trao độc lập cho chính quyền địa phương mà là hình thức
chính quyền Trung ương uỷ quyền cho chính quyền địa phương các cấp thực
hiện những công việc nhất định. Trong phạm vi thực hiện nhiêm vụ được
giao, Ủy ban nhân dân cấp xã được trao thẩm quyền, những nguồn lực nhất

định và chịu sự kiểm soát của chính quyền Trung ương và chính quyền cấp
trên trong việc thực hiện thẩm quyền của mình.
Đơn vị hành chính xã, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, các xã thuộc
vùng núi, hải đảo, thường có tính tự quản, tính độc lập cao hơn so với các
đơn vị hành chính cấp cơ sở khác như phường, thị trấn và các cấp lớn hơn
như cấp huyện, quận. Trong phạm vi mỗi xã, các mối quan hệ trong cộng
đồng dân cư thường được điều chỉnh bằng nhiều quy định và thiết chế khác
nhau, chính thức hoặc phi chính thức, trong đó có cả những quy định và thiết
chế do chính những thành viên trong cộng đồng lập ra vô cùng phong phú, đa
dạng.
Do các mối quan hệ cộng đồng gắn bó chằng chịt, cuộc sống “tối lửa, tắt
đèn” có nhau nên những người làm việc trong Ủy ban nhân dân cấp xã được

19
xem là ít quan liêu nhất trong đội ngũ cán bộ, công chức của bộ máy nhà nước
ta, song lại dễ bị tác động bởi những yếu tố phi chính thức nhất.
Các cơ quan, bộ phận trong Ủy ban nhân dân cấp xã là cầu nối giữa Nhà
nước, các tổ chức và cá nhân trong xã, đại diện cho Nhà nước, nhân danh Nhà
nước để thực thi quyền lực nhà nước, triển khai, tổ chức thực hiện những chủ
trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước ở xã nên vừa phải đủ
mạnh, phải thể hiện uy quyền của mình mới có thể thực hiện được chức năng,
nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó; đồng thời, cũng vừa phải mềm dẻo, linh
hoạt khi tiếp xúc, làm việc với dân (những người cùng sinh sống, với những
mối quan hệ cộng đồng gắn bó khăng khít, bền chặt chi phối), phải đáp ứng
những nhu cầu, đòi hỏi đa dạng của mỗi người dân sao cho vừa đúng pháp
luật, vừa phù hợp với truyền thống và điều kiện của mỗi người dân, mỗi địa
phương. Do vậy, việc tổ chức và hoạt động của cơ quan chính quyền cấp xã ở
nước ta rất phức tạp, dễ dẫn đến tình trạng hình thức, kém hiệu lực, hiệu quả
hoặc lạm quyền, tùy tiện, cát cứ.
Là người sâu sát với dân, cùng chung sống hàng ngày với dân, hiểu dân,

am hiểu những phong tục, tập quán, truyền thống của địa phương hơn cả, nên
những người đại diện Nhà nước ở cấp xã phải giải quyết các công việc đa
dạng, phức tạp của dân, sao cho không trái pháp luật, nhưng có hiệu quả cao
nhất. Cán bộ xã trong công việc, đòi hỏi phải thực sự vì dân, thương dân, lấy
dân làm gốc, không thể vì cái toàn cục mà quên đi hoàn cảnh điều kiện của
mỗi người dân, nhưng cũng không vì mỗi người dân cụ thể mà làm trái pháp
luật, trái đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ủy ban nhân dân cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện các quy định,
quyết định của Nhà nước, giải quyết những yêu cầu, thắc mắc, bức xúc của
dân. Đồng thời cũng là những người trực tiếp thu nhận, lắng nghe, tiếp thu
các ý kiến, những đề xuất, kiến nghị của nhân dân. Do vậy, họ cũng là cấp
phải phản ánh một cách trung thực những nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu

20
của người dân lên các cơ quan cấp trên và đề xuất những giải pháp trong việc
giải quyết những vướng mắc, thoả mãn những nhu cầu, mong muốn của nhân
dân nói chung và của mỗi người dân nói riêng.
Nếu Ủy ban nhân dân cấp xã làm việc có hiệu quả thì đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước sẽ dễ dàng đi vào cuộc sống, trở thành hoạt động
thực tế của nhân dân, tạo ra sự phấn khởi, sự tin tưởng của nhân dân vào
Đảng và Nhà nước; đồng thời tạo ra sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Ngược lại, nếu chính quyền cấp xã không giải
quyết một cách thấu đáo những thắc mắc, vướng mắc của nhân dân, các cán
bộ, công chức xã làm việc không tốt có thể sẽ làm bùng phát nhiều phản ứng
tiêu cực của nhân dân đối với chính quyền nhà nước, với chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, thậm chí có thể gây mất đoàn kết giữa các dòng
họ, thôn, bản trong xã.
Như vậy, chính quyền cấp xã theo nghĩa rộng với tư cách là thiết chế
quyền lực chính trị, thì chính quyền cấp xã bao gồm tất cả các cơ quan nhà
nước có phạm vi hoạt động tại địa phương. Còn theo nghĩa hẹp, chính quyền

cấp xã bao gồm Hội đồng nhân dân cấp xã và Uỷ ban nhân dân cấp xã. Trong
đó, Hội đồng nhân dân là cơ quan nhà nước do nhân dân địa phương trực tiếp
bầu ra, thay mặt nhân dân, trên cơ sở yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và
pháp luật quyết định những vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân ở
đơn vị hành chính cấp xã. Còn Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành, sử
dụng công cụ như pháp luật, thẩm quyền ra quyết định, bộ máy giúp việc
nhằm bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân tại địa bàn.
1.3.1.2. Đây là cấp cơ sở, cấp gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với nhân
dân, ở ngay trong dân. Chính quyền Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện giải
quyết công việc tiếp xúc với dân ít hơn so với chính quyền cơ sở. Những vấn
đề thuộc phạm vi, thẩm quyền, chức năng của mình, Ủy ban nhân dân cấp xã
phải giải quyết trực tiếp liên quan đến sinh hoạt hàng ngày của người dân.

21
Công việc hàng ngày của chính quyền là công việc của dân và công việc của
dân cũng chính là công việc của chính quyền. Cán bộ hàng ngày trực tiếp gắn
bó, làm việc với dân, có điều kiện bám sát dân, thấu hiểu dân. Mặt khác, do
cán bộ chính quyền cấp xã hầu hết là người địa phương, hàng ngày sinh hoạt
cùng nhân dân trong mối quan hệ không chỉ với tư cách đại diện cho chính
quyền mà còn trong mối quan hệ với gia tộc, làng xóm với những ràng buộc
về truyền thống, phong tục, tập quán. Sự hiểu biết quá rõ này gây bất lợi nhất
định khi thực thi công vụ, khiến cho quan hệ công tư dễ lẫn lộn.
1.3. 1.3. Cấp xã là nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống gắn liền mật
thiết với những lợi ích, nhu cầu thường nhật của quần chúng. Hoạt động quản
lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp xã động chạm đến mọi mặt thiết yếu
nhất, bức xức nhất của đời thường. Nó động chạm đến những nhu cầu, đòi hỏi
rất tối thiểu trong cuộc sống như vệ sinh cống rãnh, vệ sinh chăn nuôi, trật tự
nơi công cộng, tranh chấp tường rào hàng xóm láng giềng, tiếng ồn gây tranh
chấp, Đây không phải là những công việc lớn nhưng động chạm đến nhiều
người, dễ gây bức xúc, tạo ra mâu thuẫn đáng tiếc không ngờ, gây mất đoàn

kết trong dân cư.
1.3. 1.4. Đây là cấp mà theo nghĩa nào đó là hình ảnh thu nhỏ của cả xã
hội. Cuộc sống của cộng đồng dân cư ở cấp xã với hàng trăm hộ gia đình,
hàng nghìn, hàng mấy nghìn con người là cả một tập hợp lớn đa dạng, phức
tạp với bao nhiêu chuyện về việc làm, mưu sinh, về tồn tại và phát triển từ
kinh tế, sản xuất đến an ninh trật tự, tâm lý, đạo đức, văn hoá,… và nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết. Do đó, đây cũng là nơi phát sinh từ thực tế
biết những kinh nghiệm có thể tổng kết để khái quát thành lý luận, để điều
chỉnh, bổ sung và đổi mới đường lối, chính sách do thường xuyên phải giải
quyết những tình huống xảy ra. Vì thế, đổi mới manh nha, nảy mầm từ những
nhu cầu bức xúc ở ngay cơ sở.

×