MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến các phạm
trù kinh tế khác và đóng vai trò như một công cụ có hiệu lực, có hiệu quả trong việc
tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực kỳ
quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc gia. Tỷ giá hối đoái còn là yếu tố mà con
người cần phải tiếp cận hàng ngày, hàng giờ, sử dụng nó trọng mọi quan hệ giao
dịch quốc tế, trong việc xử lý những vấn đề cụ thể liên quan đến các chính sách
kinh tế trong nước và quốc tế. Và do vậy, nhận thức một cách đúng đắn và xử lý
một cách phù hợp tỷ giá hối đoái là vấn đề vô cùng quan trọng đối với mỗi nước,
nhất là trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình quốc tế hóa
đã bao trùm tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và trong cuộc sống.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó của tỷ giá hối đoái, em đã lựa chọn đề
tài: “Tỷ giá hối đoái và chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu
Em muốn khái quát lại những cơ sở lý thuyết về tỷ giá hối đoái, đồng thời
nhìnn nhận lại thực trạng chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam để từ đó đưa ra được những kiến nghị góp phần nâng cao tính hiệu
quả trong việc điều hành chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý thuyết về tỷ giá và chính sách
điều hành tỷ giá, xem xét thực trạng, ưu điểm, nhược điểm của chính sách điều hành
tỷ giá tại Việt Nam, đồng thời, đưa ra kiến nghị khắc phục và góp phần hoàn thiện
chính sách điều hành tỷ giá tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các lý thuyết về tỷ giá và chính sách tỷ giá,
các nhận định về chính sách điều hành tỷ giá tại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận tư duy: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
1
Các phương pháp tổng hợp, phân tích, thực chứng, diễn giải, kết hợp với quy
nạp và diễn dịch.
Phương pháp thu thập thông tin thông qua thông tin thứ cấp từ các cuộc
nghiên cứu trước đây và được công bố rộng rãi trên tạp chí và sách chuyên ngành
về tài chính nổi tiếng trên thế giới và Việt Nam.
Kết cấu của đề án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chuyên đề gồm 3 phần lớn:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái
Phần 2: Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
Phần 3: Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách
tỷ giá tại Việt Nam
2
PHẦN 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Tỷ giá hối đoái và sự hình thành tỷ giá hối đoái
1.1. Tỷ giá hối đoái
Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước với nhau mà trước hết là
quan hệ mua bán, trao đổi, đầu tư dẫn đến việc cần có sự trao đổi đồng tiền của các
nước khác nhau với nhau. Từ đó, tỷ giá được sử dụng làm công cụ để quy đổi các
đồng tiền khác nhau đó.
Có thể hiểu: Tỷ giá hay tỷ giá hối đoái nói chung là số đơn vị đồng tiền định
giá trên một đơn vị đồng tiền yết giá; đối với một quốc gia cụ thể, thì tỷ giá là số
đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ, nghĩa là đồng ngoại tệ đóng vai trò là đồng
tiền yết giá, còn đồng nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá.
1.2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái
Sự hình thành tỷ giá hối đoái là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan
và khách quan. Nhưng nhìn chung, có hai yếu tố chính tác động đến tỷ giá. Đó là
cung và cầu về ngoại tệ.
Cung và cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự
biến động của tỷ giá hối đoái. Cầu về tiền của một nước nào đó xuất hiện trên thị
trường ngoại hối khi dân cư của các nước khác mua hàng hóa và dịch vụ được sản
xuất tại nước đó hoặc khi đồng tiền đó là một ngoại tệ mạnh và có giá trị ổn định
trên thị trường. Để người dân của một nước mua được các sản phẩm sản xuất ra ở
nước khác, họ phải mua một lượng tiền đủ lớn của nước đó hoặc ngoại tệ mạnh,
bằng việc dùng tiền nước mình để trả. Lượng tiền này khi ấy bước vào thị trường
quốc tế và hình thành cung về tiền của nước đó. Có thể thấy rằng, nếu tỷ giá hối
đoái càng cao thì hàng hóa của nước ấy càng trở nên đắt hơn tương đối đối với
những người nước ngoài và ít hàng hóa xuất khẩu hơn, đồng thời, hàng hóa nước
ngoài càng rẻ hơn tương đối, hàng hóa ngoại được nhập khẩu ngày càng nhiều.
Cũng biến động tương tự, khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định, nhu cầu về
hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán
hàng nhập khẩu tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì
các hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn
3
cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh
trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao.
Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong đó
có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn
đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tiền bản tệ trở nên có giá trị hơn,
nghĩa là tỷ giá hối đoái giảm. Và ngược lại, sự cân bằng của cán cân thanh toán
quốc tế lại phụ thuộc vào các nguốn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên cán cân
thanh toán quốc tế.
1.3. Phân loại tỷ giá hối đoái
Dựa vào những căn cứ khác nhau, người ta chia ra nhiều loại tỷ giá khác
nhau:
∗ Căn cứ vào giá trị:
• Tỷ giá danh nghĩa: là mức tỷ giá mà các ngân hàng công bố cho
các giao dịch tiền tệ trên thị trường
• Tỷ giá thực: là tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh bởi tương quan
lạm phát giữa trong nước và ngoại nước
∗ Căn cứ vào cơ chế điều hành tỷ giá:
• Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do Ngân hàng trung ương công bố. Tỷ
giá chính thức được áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu và hoạt
động khác liên quan đến tỷ giá chính thức.
• Tỷ giá phi chính thức: là tỷ giá hình thành bên ngoài hệ thống
ngân hàng, do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định
∗ Căn cứ vào kỹ thuật giao dịch:
• Tỷ giá mua bán giao ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc
giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong hai ngày
làm việc
• Tỷ giá mua bán kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao
nhận ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong
hợp đồng (có thể là 1, 2, 3 tháng sau…)
∗ Căn cứ vào thời điểm:
• Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán
ngoại hối của giao dịch đầu tiên trong ngày
• Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua
bán ngoại hối của giao dịch cuối cùng trong ngày
∗ Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế:
4
• Tỷ giá séc: là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ
• Tỷ giá hối phiếu là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu bằng ngoại tệ
• Tỷ giá chuyển khoản: là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc
giao dịch ngoại hối không phải bằng tiền mặt mà bằng cách
chuyển khoản qua ngân hàng
• Tỷ giá tiền mặt: là tỷ giá mua bán ngoại hối được giao dịch bằng
tiền mặt
∗ Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối:
• Tỷ giá điện hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Ngày nay,
do ngoại hối được chuyển chủ yếu bằng điện nên tỷ giá niêm yết
tại ngân hàng là tỷ giá điện hối
• Tỷ giá thư hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư
2. Tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế
2.1. Tác động của tỷ giá tới ngân sách
Nếu Nhà nước công bố mức tỷ giá thấp hơn so với mức tỷ giá trên thị trường
thì Nhà nước sẽ phải đứng ra bù lỗ, có thể dẫn tới thâm hụt ngân sách. Cụ thể, với
hoạt động xuất khẩu, khi các ngành, các địa phương càng được giao nhiều hàng
xuất khẩu thì ngân sách càng phải bù lỗ nhiều do tỷ giá giao dịch trên thị trường cao
hơn so với tỷ giá mà Nhà nước niêm yết. Nếu nhà nước không bù lỗ đủ hoặc chậm
trễ trong việc thanht oán thì công nợ giữa các doanh nghiệp và các ngành càng tăng
và càng thiếu vốn để tiếp tục kinh doanh. Đối với nhập khẩu, khi vật tư, nguyên
liệu, thiết bị được nhập về nước, Nhà nước nếu đứng ra phân phối cho các ngành
trong nền kinh tế với mức giá thấp thì các ngành, các địa phương được phân phối
các loại vật tư, nguyên liệu đó được hưởng phần giá thấp còn ngân sách Nhà nước
lại không thu được chênh lệch giá.
Như vậy, nếu thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho nước
bạn để có thể đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, thì mức
lỗ của ngân sách cho hàng xuất khẩu lớn, gây trở ngại cho việc điều hành ngân
sách. Nếu trì hoãn cho việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu nhưng trong khi
đó vẫn yêu cầu nước bạn giao hàng nhập cho ta theo tiến độ thì việc bù lỗ hàng xuất
khẩu được giảm ở mức độ nhất định, nhưng nghĩa vụ nợ của ta với nước bạn lại
tăng lên đáng kể.
Tỷ giá quy định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ không
5
bán ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất lãi. Do đó, tỷ giá này đã trở
thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trường trong nước.
Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước, vừa làm phát sinh thêm
những tiêu cực trong đời sống xã hội.
Tỷ giá bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngân sách Nhà nước
không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các khoản cấp phát của ngân sách
Nhà nước cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt động khác có sử dụng ngoại tệ.
Vì vậy, khi Nhà nước có một chính sách tỷ giá hối đoái sát với thị trường thì
việc tính toán thu – chi ngân sách Nhà nước phản ánh trung thực và chính xác hơn,
không bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần làm cho công tác kế hoạch hóa vay nợ và trả
nợ nước ngoài từ ngân sách Nhà nước được thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc
hơn.
2.2. Tác động của tỷ giá tới nợ nước ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản lý nợ. Tác
động này được xem xét qua ví dụ cụ thể sau:
Trước năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20 tỷ Yên Nhật, tương đương 92
triệu USD (tỷ giá 216 Yên = 1 USD). Ngoài ra, vào thời điểm 1987 trở về trước,
còn tồn tại các khoản vay các công ty Nhật 20 tỷ Yên, tương đương 125 triệu USD
(tỷ giá 160 Yên = 1 USD). Đầu năm 1995, đồng Yên lên giá, 1 USD chỉ còn 90
Yên. Xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua, sự tăng giá của đồng Yên Nhật đã
làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc quy ra USD, làm thiệt thòi cho người đi vay.
Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp ở
nước ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó, tỷ giá có tác động mạnh đến khả năng
thanh toán của của các doanh nghiệp. Trong các năm 1989 – 1990, có 81 doanh
nghiệp vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả với doanh số vay là 5.722
triệu Yên, tức 10,9 triệu USD. Tỷ giá lúc này là 130 Yên = 1 USD. Do đó, tổng vay
nợ bằng đồng Yên quy ra USD là 44 triệu USD. Đến năm 1995, do chưa trả được
nợ mà đồng Yên lại tăng giá, nên nợ gốc vay tăng từ 44 triệu USD lên 58 triệu USD
(chưa tính đến yếu tố lãi suất tiền vay và tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD). Do
tổng hợp nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố về tỷ giá nên đại bộ phận trong số 81
doanh nghiệp vay vốn theo phương thức này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá.
Sự biến động của tỷ giá cùng với các yếu tố ngoại hối có ý nghĩa đặc biệt
6
riêng đối với việc huy động vốn, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu – chi
ngân sách Nhà nước, ổn định kinh tế và xã hội. Ngược lại, với nợ nước ngoài, nếu
không quản lý tốt và không sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành gánh nặng đối với nền
kinht ế hiện tại và tương lại.
Vì vậy, về vay nợ, Chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định về trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế trước các khoản vay và
khoản trả nợ. Hiện nay, chúng ta đã có một số quy định về vấn đề này.
2.3. Tác động của tỷ giá tới lãi suất và trái phiếu Chính phủ
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng điều chỉnh
lãi suất. Trong nền kinh tế thị trường, khi đồng nội tệ mất giá, khối lượng nội tệ
cung ứng ngoài thị trường lớn, đòi hỏi phải điều chỉnh tăng lãi suất, trong trường
hợp này làm tăng chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ. Khi đồng nội
tệ lên giá, Nhà nước phải điều chỉnh giảm mức lãi suất, điều này sẽ giảm chi ngân
sách về thanh toán lãi suất huy động nội tệ, nếu không điều chỉnh mức lãi suất thì
những nhà sản xuất kinh doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng, lấy nội tệ gửi vào
ngân hàng hoặc mua trái phiếu Chính phủ để hưởng lãi suất cao. Điều này sẽ tác
động xấu đến sản xuất kinh doanh. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy, việc xử
lý hài hòa, phối hợp điều hành lãi suất và tỷ giá ngoại hối đã làm cho tỷ giá giữ
được biên độ ổn định và tiền tệ không có biến động mạnh.
Tóm lại, những vấn đề phân tích trên đây cho thấy, tình hình tài chính quốc
gia (đặc biệt là ngân sách Nhà nước) và chế độ ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ biện
chứng qua lại hết sức chặt chẽ. Một mặt, tình hình tài chính (mà biểu hiện tập trung
là ngân sách Nhà nước) là một nhân tố hàng đầu quyết định đến sự lựa chọn tỷ giá,
phương án điều chỉnh tỷ giá. Mặt khác, chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá cũng có ảnh
hưởng hết sức mạnh mẽ, toàn diện đến quản lý nền tài chính quốc tia thông qua
nhiều kênh, dưới nhiều hình thức và góc độ khác nhau. Chính vì vậy, khi đặt vấn đề
lựa chọn chính sách, phương án điều chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu
không đề cập, phân tích thực trạng tài chính hiện hành của quốc gia.
2.4. Tác động của tỷ giá tới hoạt động kinh tế đối ngoại
Khi tỷ giá tăng tức tỷ giá biến động theo hướng làm đồng nội tệ giảm giá làm
cho hàng hóa trong nước rẻ hơn tương đối đối với hàng hóa nước ngoài; vì vậy,
xuất khẩu được thúc đẩy và nhập khẩu bị hạn chế. Ngược lại, khi tỷ giá giảm tức
7
biến động theo hướng làm cho đồng nội tệ tăng giá làm cho hàng hóa trong nước
đắt hơn tương đối đối với hàng hóa nước ngoài; vì vậy, xuất khẩu bị hạn chế và
nhập khẩu được thúc đẩy, khuyến khích. Như thế, tỷ giá có tác động không nhỏ tới
hoạt động xuất nhập khẩu, tức hoạt động ngoại thương, một trong những hình thức
của kinh tế đối ngoại. Các nước thường lựa chọn chính sách tỷ giá và cố gắng điều
chỉnh để phù hợp với tình hình và mục tiêu phát triển kinh tế của nước mình. Ví dụ
như các nước đang phát triển thường xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái nhằm duy
trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán cân thanh toán quốc tế lâu
bền. Bằng cách tăng giá các hàng hóa thương mại hóa hiệu quả so với các hàng hóa
không thương mại hóa hiệu quả, sự phá giá đồng thời chuyển dịch cầu tổng thể có
lợi cho các hàng hóa không thương mại hóa hiệu quả và do đó, giảm bội dư cầu đối
với hàng hóa thương mại hóa hiệu quả.
8
3. Các chế độ tỷ giá hối đoái
3.1. Tỷ giá hối đoái cố định bản vị vàng
Trong chế độ bản vị vàng, các quốc gia sẽ ấn định giá trị đồng tiền của mình
so với vàng. Bản vị vàng giữa hai đồng tiền sẽ hình thành nên tỷ giá của hai đồng
tiền đó. Bản chất của chế độ này là chế độ tỷ giá cố định. Do sự tồn tại của chế độ
này mà mối quan hệ thương mại giữa các quốc gia được thúc đẩy, hơn thế nữa, việc
xuất nhập khẩu vàng diễn ra tự do giữa các quốc gia và giá vàng giữa các quốc gia
là ngang nhau (quy luật một giá).
Trong chế độ bản vị vàng, tiền được đảm bảo 100% bằng vàng. Điều kiện để
duy trì nguyên tắc này là lượng tiền dự trữ bằng lượng vàng. Nếu không xảy ra điều
này thì quốc gia đó sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý chính sách tiền tệ, đặc biệt là
các quốc gia có lượng dự trữ vàng thấp. Ưu điểm của chế độ này là thúc đẩy ngoại
thương và quan hệ thương mại giữa các quốc gia, nhưng chế độ này lại có nhược
điểm là gây khó khăn trong việc điều hành chính sách tiền tệ cho các quốc gia khi
lượng vàng dự trữ thấp.
Từ năm 1914 -1919, chiến tranh thế giới lần thứ nhất diễn ra, các quốc gia
phải in thêm tiền để phục vụ cho chiến tranh; vì vậy mà yêu cầu lượng tiền bằng
lượng vàng không được đảm bảo. Do đó, chế độ bản vị vàng sụp đổ, hệ thống tiền
tệ rơi vào tình trạng hỗn loạn. Sau đó, chế độ này có được khôi phục, song không
còn được như thời kỳ đầu. Đến năm 1929, khi khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra,
chế độ này sụp đổ hoàn toàn.
3.2. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp
Loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại các nước xã hội chủ nghĩa thời kỳ
kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp thường chênh lệch
nhiều lần so với tỷ giá hối đoái thị trường, không có vai trò là công cụ điều tiết vĩ
mô đối với xuất nhập khẩu. Loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại Việt Nam
trước năm 1989.
3.3. Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do
Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái được quyết định hoàn
toàn bởi các lực lượng cung - cầu về ngoại tệ. Trong chế độ này, Chính phủ giữ thái
độ thụ động, để cho thị trường ngoại tệ đánh giá giá trị của ngoại tệ. Loại tỷ giá hối
đoái này ít được áp dụng vì các thị trường tiền tệ thường không hoàn hảo và do vậy,
9
luôn cần có vai trò can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều cho
rằng, trong phần lớn trường hợp, chế độ tỷ giá thả nổi tốt hơn chế độ tỷ giá cố định
bởi vì tỷ giá thả nổi nhạy với thị trường ngoại hối. Điều này cho phép làm dịu tác
động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh nước ngoài. Thêm vào đó, nó không bóp
méo các hoạt động kinh tế.
3.4. Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai
chế độ thả nổi và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tốt
hơn, nhưng trong thực tế không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó
quá bất ổn định. Chính vì thế, chế độ tỷ giá hối đoái này ra đời. Theo chế độ này,
Chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ cố định với ngoại tệ, mà thả nổi đồng
tiền của mình và có biện pháp can thiệp mỗi khi thị trường trở nên mất trật tự, hoặc
khi tỷ giá hối đoái đi chệch xa mức thích hợp. Loại chế độ tỷ giá hối đoái này hiện
đang được áp dụng tại rất nhiều nước, đặc biệt là các nước tư bản chủ nghĩa, nơi mà
lạm phát đạt thấp, các thị trường phát triển ở trình độ cao.
3.5. Tỷ giá hối đoái cố định có điều tiết
Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do, mà can thiệp
vào thị trường ngoại hối bằng cách mua bán ngoại tệ, nhằm ổn định tỷ giá quy định.
Sau mỗi thời gian nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp và
duy trì ổn định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định, song việc thực
hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái cố định tương đối khó
khăn và tốn kém nên phần lớn các quốc gia lựa chọn sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi
có điều tiết.
Tóm lại, thế giới đã và đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá hối đoái biến
tướng từ hai hình thức cơ bản là cố định và thả nổi. Trong thế giới mà sự phụ thuộc
lẫn nhau càng tăng, việc lựa chọn một chế độ ngoại hối phù hợp với bối cảnh quốc
tế, điều kiện cụ thể từng nước và đáp ứng được sự điều tiết kinh tế vĩ mô, nhất là
với các nước đang thực hiện chuyển đổi cơ chế thực sự là vấn đề nan giải.
4. Những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái
4.1. Cán cân thương mại
Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cấn cân thương mại của
một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Một
10
nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục
công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hoá
dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường, cung ngoại tệ sẽ tăng,
làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập
khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành
động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng
trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng
sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó
chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ
lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt
thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá.
4.2. Tỷ lệ lạm phát
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái
không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong
khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nước. Theo quy luật
cung - cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ
hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá,
cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút,
cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh
hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp
làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng
tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn,
cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có
lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các
quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất
giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
4.3. Sự vận động của vốn
cư dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực
tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doang nghiệp ) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ
phiếu, trái phiếu ). Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt động kinh doanh
trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy
11
ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư từ nước
ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá
hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và
luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn
chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài,tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ
giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm.
Theo quy luật tối ưu hoá, luồng vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất
sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều
hơn khi nó có môi trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có
với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất
cao và sự thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ.
4.4. Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ
Tất cả đều có thể làm dịch chuyển đường cung và cầu tiền tệ và ảnh hưởng
này thực sự lớn khi xuất hiện tâm lý số đông. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân
hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị
trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị
trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các
kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh
các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối
đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay
trong hiện tại. Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhạy cảm với thông tin cũng như các chính
sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế
nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ
giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng.
Trong thực tế, tỷ giá hối đoái bị chi phối đồng thời bởi tất cả các yếu tố trên
với mức độ mạnh yếu khác nhau của từng nhân tố, tuỳ vào thời gian và hoàn cảnh
nhất định. Việc tách rời và lượng hoá ảnh hưởng của từng nhân tố là việc làm không
thể. Các nhân tố trên không tách rời mà tác động tổng hợp, có thể tăng cường hay át
chế lẫn nhau, đến tỷ giá hối đoái làm cho tỷ giá hối đoái luôn biến động không
ngừng. Điều này càng thể hiện tầm quan trọng của chính sách điều tiết tỷ giá để ổn
định nền kinh tế của mỗi quốc gia.
12
13
PHẦN 2:
CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước vào tỷ giá hối đoái
Sự thay đổi cung - cầu ngoại tệ chính là nguyên nhân dẫn đến những biến
động không ngừng và khó lường trước của tỷ giá hối đoái. Phân tích ở trên cho
thấy, tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động
mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Do đó, tỷ
giá có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và nền
kinh tế cả nước nói chung. Để hạn chế những biến động của tỷ giá gây ra những tác
động xấu đến nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước cần can thiệp nhằm điều tiết cung –
cầu ngoại tệ trên thị trường nhằm duy trì ổn định tỷ giá, mà rộng hơn là hoạt động
ngoại thương và cả nền kinh tế của quốc gia mình. Sự can thiệp này có thể bằng
nhiều phương pháp, nhưng trực tiếp nhất và cần thiết nhất là thông qua chính sách
tỷ giá quốc gia. Bằng hình thức này, Ngân hàng Nhà nước đã tác động một cách
nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền
tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Vì vậy,
chính sách tỷ giá được coi là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Trong chính sách tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước có thể sử dụng nhiều biện pháp
để điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm tạo điều kiện phát triển cho tất cả mọi hoạt động
trong nền kinh tế, mà cơ bản nhất là bằng chính sách chiết khấu, chính sách hối đoái,
phá giá tiền tệ, nâng giá tiền tệ… Mỗi biện pháp lại có những ưu điểm và hạn chế
riêng; vì vậy, tùy từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, tùy từng hoàn cảnh kinh tế
mỗi nước mà Nhà nước sẽ sử dụng những biện pháp thích hợp để điều chỉnh tỷ giá
nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế chung của quốc gia mình.
2. Nhìn lại cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái tại Việt Nam
Trong quan hệ với các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa trước đây, tỷ giá
của Việt Nam được tính theo đồng Rúp Clearing (sau này đổi là Rúp chuyển khoản
– transferable Ruble), đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước
thuộc khối xã hội chủ nghĩa tự quy định với nhau để làm sao cho tài khoản các bên,
sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được quy định trong hiệp định ký
14
kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số dư. Đặc trưng của chế độ tỷ giá Việt Nam
trong thời kỳ này là cố định, đã bộc lộ nhiều mặt bất hợp lý, nó không những không
thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá hối đoái trong việc cân bằng cán cân thanh toán, điều
tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta, là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong một thời gian dài.
Từ năm 1989 cho đến nay, Nhà nước ta đã có những chủ trương và giải pháp
đổi mới trong quan hệ đối ngoại và chính sách tỷ giá đã từng bước xóa bỏ cơ chế
độc quyền ngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập khẩu
trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh doanh xuất nhập
khẩu không ngừng tăng lên, cùng với việc mở rộng ngoại thương, chế độ tỷ giá
cũng có những thay đổi căn bản, chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới. Vì thế,
bản thân cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái đã được nhanh chóng thay đổi phù hợp
với bối cảnh thực tế. Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan bao cấp, xa
rời với thị trường, tỷ giá hối đoái đã đc điều chỉnh theoc ác quan hệ và điều kiện của
các quy luật kinh tế thị trường. Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của Nhà
nước đã phát huy được vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận động theo quy luật
cung cầu của nền kinh tế, vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà
nước. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước
nhưng việc điều hành của Nhà nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể chia ra
3 giai đoạn:
∗ Giai đoạn thả nổi tỷ giá (giai đoạn 1989 -1993)
Trong giai đoạn này, tỷ giá hối đoái USD/VND thể hiện qua bảng 1 dưới
đây:
15
Bảng 1: Tỷ giá USD/VND qua các năm (từ 1989-1993)
Năm
Tỷ giá USD/VND
Giá chính thức
của Nhà nước
Giá trên thị
trường tự do
Tăng giảm (%)
1989 4.200 4.570 +8,80
1990 6.650 7.550 +13,50
1991 12.720 12.550 -0,02
1992 10.720 10.550 -0,02
1993 10.835 10.736 -0,01
Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá USD/VND qua các năm có biến
động lên xuống. Tuy nhiên, tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá
USD/VND có khuynh hướng tăng và được Nhà nước điều chỉnh sát với giá thị
trường tự do. Điều này chứng tỏ Nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu
ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn. Tuy nhiên, sự thả nổi tỳ giá đã:
• Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch
giá.
• Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên
những cơn sốc USD làm mất ổn định nền kinh tế.
• Hoạt động quản lý ngoại tệ của Chính phủ vì thế mà không đạt được
kết quả như mong muốn
• Nhà nước không kiểm soát được lượng lưu thông ngoại tệ.
Tình trạng leo thang của giá đồng USD đã kích thích tâm lý dự trữ đôla.
Ngoại tệ đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn
bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ
của Chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết định của Chính phủ về
quản lý ngoại tệ đã mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Giai đoạn này, ngân
hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Trước tình hình đó, từ năm 1992, Chính phủ đã chọn con đường thay đổi
cách quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái. Nội dung chính
16
của những thay đổi về chính sách và cơ chế nêu trên là:
• Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc
doanh có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng
biện pháp kinh tế: mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh
nghiệp và ngân hàng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo giá thỏa
thuận.
• Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại
thương giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập
khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch
ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá chính thức.
• Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như vậy cộng
với sự can thiệp điều tiết của Ngân hàng Nhà nước đối với lượng
ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã giải tỏa được tâm lý đầu
cơ ngoại tệ, ngăn được xu hướng tăng quá mức giá đôla Mỹ trên thị
trường.
∗ Giai đoạn cố định tỷ giá (từ năm 1993 – 1996)
Bảng 2: Tỷ giá USD/VND qua các năm 1993 - 1996
Năm Tỷ giá USD/VND
Tăng giảm so với năm trước
(%)
1993 10.835 100
1994 11.050 +1,98
1995 11.040 -0,09
1996 11.060 +0,18
Do tỷ giá chính thức của Nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian
này không chênh lệch nhiều nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của Nhà nước làm
cơ sở tính toán. Việc duy trì tỷ giá ổn định trong thời gian dài này đã không khuyến
khích được xuất khẩu, làm hoạt động ngoại thương kém phát triển. Tình trạng nhập
siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu, khuyến khích nhập
khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hoặc phải tiêu giảm dự trữ
ngoại hối quốc gia, hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy
cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc, thiết bị công nghệ ngày càng
tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho
17
nền tài chính quốc gia. Thực tế, giá bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng
nhập ngoại, hàng nhập ngoại đã trở nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta
với số lượng lớn cạnh tranh với hàng nội địa.
Đứng trước tình hình đó, ngay từ năm 1997, Nhà nước đã có những chỉ đạo:
• Xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở L/C
thanh toán tràn lan và cuối năm 1996, thông qua khống chế mức mở
L/C at Sight là chủ yếu, hạn chế mở L/C trả chậm, xem xét cho nhập
khẩu những mặt hàng cần thiết, chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu
sản xuất, chủ yếu dựa vào huy động vốn trung và dài hạn, đồng thời
huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua mức ký quỹ bắt buộc.
• Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường
Tháng 10/1994, khi thị trường ngoại tệ đã phát triển đến một giai đoạn nhất
định, xét trên khía cạnh phạm vị cũng như cơ cấu tổ chức, hai trung tâm giao dịch
ngoại tệ không còn phù hợp. Số lượng ngân hàng tham gia vào giao dịch tăng
nhanh. Phạm vi và cường độ giao dịch cũng ngày càng phát triển và mở rộng. Trước
tình hình mới, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng
ra đời, thay thế hoạt động của hai trung tâm giao dịch. Bởi thị trường liên ngân hàng
có quy mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt hơn nên tỷ giá hối
đoái và cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát với thực tế hơn.
Đồng thời, qua thị trường, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể nắm bắt được nhu cầu
tổng thể của nền kinh tế về ngoại tệ trong từng thời kỳ, điều tiết kịp thời tỷ giá hối
đoái. Ngân hàng Nhà nước đã thông qua thị trường liên Ngân hàng để nắm bắt tín
hiệu của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá chính thức công bố hàng ngày và biên độ
quy định tỷ giá giao dịch cho các ngân hàng thương mại làm công cụ hỗ trợ, can
thiệp và điều hòa hướng tỷ giá thị trường theo mục tiêu của chính sách tỷ giá và
chính sách tiền tệ. Thực lực của Ngân hàng Nhà nước về ngoại tệ cũng đã tăng lên,
tỷ giá đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng tiền Việt Nam và quan
hệ cung – cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đủ điều kiện cho phép Ngân hàng Nhà nước
dần dần nới hơn đối với cơ chế điều hành tỷ giá. Thực tế, tỷ giá chính thức đã được
điều chỉnh ngày một linh hoạt, theo sát với thực tê và biên độ giao dịch cho các
ngân hàng thương mại đã được mở rộng liên tục.
18
∗ Giai đoạn điều hành tỷ giá cố định với biên độ giao động (từ năm 1997 -
1999)
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như thị trường ngoại
tệ nói chung bắt đầu bị giảm sút. Thực tế, sáu tháng cuối năm 1997, nhu cầu mua
ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ. Nhiều doanh nghiệp không mua được
ngoại tệ đã phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến. Ngoại tệ
tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn VND do lãi suất thấp hơn và không
chịu rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân đối cung – cầu VND trên thị trường.
Nhà nước đã mở rộng biên độ giao dịch của các ngân hàng thương mại từ 1%
đến 5% rồi đến 10%. Những giải pháp này cũng đã kịp thời góp phần giảm sức ép
đối với tỷ giá hối đoái VND.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực châu Á đã gây sức ép đối với
đồng Việt Nam, do yếu tố đầu cơ của thị trường, đẩy tỷ giá ở thị trường tự do tăng
mạnh, có lúc lên đến 14.600 VND đổi 1USD.
Năm 1997 có thể nói là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình
đổi mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, một năm với những khó
khăn và thử thách trên hầu hết các lĩnh vực. Mặc dù có những tổn thất, mất mát,
nhưng hoạt động ngân hàng vẫn tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng, tạo
đà thúc đẩy sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong những năm tiếp
theo. Những kết quả nổi bật có thể kể đến như sau:
Góp phần kiềm chế lạm phát ở mức thấp, nhưng vẫn đảm bảo duy trì tăng
trưởng kinh tế ở mức nhất định
Ngân hàng Nhà nước đã chủ động tham mưu cho Chính phủ trong việc điều
hành lượng tiền cung ứng trong thời kỳ thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu
của nền kinh tế.
Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều
kiện cho giá trị VND phản ánh tương đối xác thực cung – cầu ngoại tệ, góp phần
kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao su
giảm 42%, dầu thô giảm 30%, giầy da và may mặc cũng đang giảm mạnh…
Nguyên nhân nhập siêu là do Ngân hàng điều chỉnh tỷ giá bị đông cứng, làm
cho xuất khẩu hàng hóa với giá rẻ, nhập khẩu hàng hóa cũng với giá rẻ, như vậy
càng khuyến khích nhập khẩu và càng hạn chế xuất khẩu. Ngoài ra còn có những
19
nguyên nhân khác là định hướng xuất khẩu yếu, tình trạng nhập lậu tràn lan, trốn
thuế chưa được quản lý chặt chẽ.
Bước qua năm 1998, những tháng trước và sau tết, tình hình tỷ giá hối đoái
trong nước ngày càng trở nên phức tạp. Giá USD mỗi ngày một tăng, thậm chí có
ngày thổi đổi giá vài lần, điều này đã ảnh hưởng tiêuc ực đến đời sống kinh tế xã
hội. Nhiều doanh nghiệp cố gắng giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm
chênh lệch. Một số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua thiết bị
hoặc L/C đến hạn thanh toán nhưng lại không giảm vay vì sợ tỷ giá ngoại tệ tăng
đột biến sẽ không trả được nợ. Đồng ngoại tệ đóng băng, ngân hàng không mua bán
và cho vay bằng ngoại tệ được.
∗ Giai đoạn tỷ giá linh hoạt (từ năm 2000 đến nay)
Từ năm 2000, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của Việt nam điều chỉnh từ
chỗ công bố tỷ giá chính thức theo tín hiệu thị trường với những khoảng thời gian có
hiệu lực tương đối dài, sang cơ chế công bố tỷ giá theo động thái hàng ngày của thị
trường ngoại tệ. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện tốt chính sách điều hành tỷ giá theo
định hướng của Chính phủ: vừa theo thị trường, vừa có can thiệp khi cần thiết. Việc
điều chỉnh này đã tác động rất tích cực đối với thị trường tiền tệ. Tỷ giá giữa các ngoại
tệ với đồng Việt Nam đã được duy trì tương đối ổn định trong nhiều năm.
Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và các ngoại tệ ở Việt Nam đã có tình thị trường,
nhưng còn hạn chế. Từ năm 1996 đến 2006, đồng Việt Nam đã được điều chỉnh
theo hướng hạ giá đồng tiền Việt Nam liên tục. Tuy nhiên, đồng Việt Nam vẫn có
những biểu hiện được đánh giá cao hơn thực tế. Đầu năm 2007 cho đến nay, đồng
Việt Nam có xu hướng lên giá liên tục do hai nguyên nhân chính: nguồn cung ngoại
tệ từ nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh và ứ đọng tại các ngân hàng thương mại;
trên thế giới, đồng USD liên tục xuống giá kéo dài. Đến hết quý I năm 2008, tỷ giá
USD/VND tiếp tục có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, mức giảm của tỷ giá hay sự
lên giá của tiền đồng Việt nam vẫn chưa đủ lớn để giúp nền kinh tế kiềm chế lạm
phát. Hiện nay, Việt Nam theo đuổi chính sách tỷ giá linh hoạt, với biên độ dao
động chưa đáng kể, chưa đủ thích ứng với môi trường bên ngoài.
Bảng 3: Biên độ dao động của tỷ giá trong thời gian qua
Năm Mở rộng biên độ Biên độ mới
20
2002 0,15% ±0,25%
2006 0,25% ±0,50%
2007 0,25% ±0,75%
2008 0,25% ±1,00%
Tỷ giá hiện nay trên thị trường Việt Nam đang có xu hướng tăng lên. Từ tuần
thứ ba của tháng 6/2010, tỷ giá bắt đầu nhích lên trên 19.000 VND/USD và mức
dao động 100 – 200 đồng/USD. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng tình hình này
chưa đáng lo ngại. Điều đáng lo ngại ở đây là so với những tháng đầu năm, những
tháng cuối năm có nguồn cung USD bắt đầu giảm. Lý do là vì những tháng đầu
năm, nhiều ngân hàng thương mại bán vàng ra (do phải đóng tài khoản kinh doanh
vàng ở nước ngoài, đóng cửa sàn vàng trong nước), gom USD vào… nên lượng
USD trong hệ thống ngân hàng tăng. Nhưng giờ, trong khi doanh nghiệp có USD
không muốn bán, mà doanh nghiệp cần USD để trả nợ lại tranh thủ mua vào…Giao
dịch ngoại tệ bắt đầu tăng, khiến tỷ giá tăng.
3. Ưu điểm và hạn chế trong cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái tại Việt Nam
3.1. Ưu điểm
Trong sự biến động phức tạp của tỷ giá hối đoái giữa VND và các ngoại tệ
khác, mà đặc biệt là tỷ giá USD/VND, chúng ta vẫn có thể thấy được những ưu
điểm trong chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Các ưu điểm đó cụ thể như sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước đã chọn được một cơ chế điều hành tỷ giá
hợp lý, phù hợp với sự phát triển của thị trường. Việc điều hành tỷ giá hối đoái của
Ngân hàng Nhà nước từ năm 1993 đến năm 1999 là áp dụng chính sách tỷ giá cố
định có điều tiết nhẹ của Nhà nước. Thực tế đã chứng minh chính sách này chỉ phù
hợp với giai đoạn tiền tệ còn chưa ổn định, xuất khẩu còn yếu, nhập khẩu khá ồ ạt,
dự trữ ngoại tệ quốc gia mỏng. Xu hướng tỷ giá trong thời gian này là tăng quá
chậm so với tốc độ tăng trưởng lạm phát, VND được đánh giá quá cao so với giá trị
thực của nó. Đứng trước yêu cầu chuyển sang giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
hướng mạnh vào xuất khẩu trong điều kiện tiền tệ khá ổn định, buộc chính sách tỷ
giá hối đoái phải được điều chỉnh lại, Ngân hàng Nhà nước đã chọn chế độ tỷ giá
thả nổi có điều tiết – chế độ tỷ giá phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị
21
trường, phản ánh đúng cung – cầu ngoại tệ trên thị trường, không gây ra độ lệch quá
lớn giữa tỷ giá tự do và tỷ giá chính thức. Cùng với đó, việc mở rộng biên độ cũng
góp phần làm tỷ giá phản ánh trung thực hơn mối quan hệ cung – cầu, để từ đó tạo
thuận lợi và độ chính xác trong các hoạt động có liên quan tới tỷ giá như tính thuế
trong các hoạt động xuất nhập khẩu…
Thứ hai, do cơ chế quản lý ngoại hối dần được thông thoáng, các giao dịch
vãng lai dần dần được tự do hóa hơn, cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt, kết hợp điều
hành với chính sách lãi suất, đồng thơi, Ngân hàng Nhà nước thực hiện tăng cường
dự trữ ngoại tệ quốc gia, thực hiện tốt vai trò là người mua bán cuối cùng trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu ngoại tệ trong nền
kinh tế nên tình trạng đầu cơ ngoại tệ đã được hạn chế một phần, hạn chế tình trạng
đôla hóa đang diễn ra hiện nay.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước ngày càng có hành lang pháp lý thông thoáng
hơn nên đã tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại có thể mở rộng và phát
triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ, chuyển kiều hối và thu đổi ngoại tệ, góp phần
thúc đẩy phát triển hoạt động xuất nhập khẩu, tạo thuận lợi cho hoạt động vay nợ
nước ngoài.
3.2. Hạn chế
Mặc dù đã có những bước tiến nhất định, nhưng Ngân hàng Nhà nước cũng
gặp phải một số khó khăn và có những hạn chế trong hoạt động điều hành chính
sách tỷ giá hối đoái:
Thứ nhất, có thể thấy rằng, chính sách điều hành tỷ giá cứ phải chạy theo thị
trường, cùng với những thủ tục hành chính rườm rà, chính sách điều hành tỷ giá đã
tỏ ra phản ứng chậm với biến động liên tục của thị trường, tạo ra độ trễ của chính
sách tỷ giá, gây khó khăn trong việc hạn chế các tác động tiêu cực của tỷ giá hối
đoái tới các hoạt động kinh tế nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, khiến cho
hiệu quả của các biện pháp điều hành của Ngân hàng Nhà nước trở nên kém hiệu
quả hơn.
Thứ hai, nước ta đã hướng đến sử dụng một rổ tiền tệ để tính toán tỷ giá hối
đoái, song hiện giờ vẫn chưa làm được, mà tỷ giá của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa
vào USD, trong khi vai trò của đồng USD trên thị trường tài chính thế giới không
còn ở đỉnh vinh quang như trước.
22
Thứ ba, do thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phát triển hoàn hảo, chưa
phản ánh được toàn bộ cung - cầu ngoại tệ của đất nước nên bản thân lượng dự trữ
bỏ ra để can thiệp hết sức hạn hẹp của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiểm soát dao
động lớn của tỷ giá cũng chỉ có tác dụng trong phạm vi hẹp tương ứng. Theo đó, xét
về mức độ lẫn quy mô vận hành thì cơ chế điều hành mới vẫn có độ cứng nhắc khá
cao.
Thứ tư, việc mở rộng biên độ tỷ giá khiến Ngân hàng Nhà nước kém chủ
động kiểm soát tỷ giá thực tế, gây ra những biến động phức tạp trên thị trường
ngoại hối, tạo áp lực lớn cho Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát một cách
hiệu quả hoạt động của thị trường hối đoái.
Thứ năm, hoạt động buôn bán, trao đổi ngoại tệ trên thị trường chợ đen vẫn
diễn ra hết sức sôi động và Ngân hàng Nhà nước khó có thể kiểm soát được hết
những hoạt động và ảnh hưởng của nó tới thị trường ngoại tệ chung của cả nước.
Thứ sáu, Ngân hàng Nhà nước chưa có những biện pháp thống nhất và hiệu
quả trong việc ổn định tỷ giá, bằng chứng là thời gian gần đây, tỷ giá USD/VND do
Ngân hàng Nhà nước công bố đã có những biến động đáng kể. Tháng 11 năm 2009,
Chính phủ Việt Nam quyết định phá giá 5% đồng tiền Việt Nam. Việc này được
xem như là hành động làm căng thẳng thị trường tài chính Châu Á, vì các nền kinh
tế trong vùng đang tranh nhau tạo ưu thế với thị trường Âu Mỹ. Ngày 11 tháng 2
năm 2010, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam định lại mức tỷ giá bình quân liên ngân
hàng giữa tiền đồng Việt Nam và đôla Mỹ, theo đó, một đôla Mỹ ăn 18.544 đồng.
Ngày 18/08/2010, Ngân hàng Nhà nước nâng tỷ giá từ mức 18.544 đồng/USD lên
mức 18.932 đồng/USD (tương đương tăng 388 đồng) trong khi đó, mức tỷ giá ở thị
trường chợ đen ngày 28 tháng 2 năm 2010 đã là 19.500 đồng. Như vậy, có thể thấy
rằng, tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do đang có độ chênh lệch cao và
có thể kéo dài, đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng chưa có định hướng rõ ràng và
giải pháp thống nhất cho tình trạng này và trong việc ổn định tỷ giá hối đoái, nhằm
ổn định các hoạt động kinh tế cả nước mà đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu.
Cuối cùng, có thể thấy chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam hiện đang
phải đạt được cùng lúc ba mục tiêu: ổn định tỷ giá, chính sách tiền tệ độc lập, tự do
hóa dòng vốn, mà điều này theo các chuyên gia là bất khả thi.
23