MỞ ĐẦU
Sự kiện nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào
ngày 11 tháng 07 năm 2006 chứng tỏ sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế đối
với những thay đổi tích cực, to lớn và toàn diện trong 20 năm thực hiện
đường lối đổi mới đúng đắn của Ðảng ta. Sự kiện này có ý nghĩa sâu sắc về
chính trị, kinh tế, xã hội; khẳng định vị thế ngày càng cao của nước ta trên thế
giới; thể hiện rõ ý chí của toàn Ðảng, toàn dân ta quyết tâm xây dựng một
quốc gia độc lập tự chủ, ổn định về chính trị, đồng thuận về xã hội, xứng đáng
là một trong những nền kinh tế phát triển năng động, sẵn sàng thực hiện các
cam kết chung với cộng đồng quốc tế. Riêng đối với lĩnh vực văn hóa, sự kiện
này cũng có những tác động thuận - nghịch to lớn đòi hỏi chúng ta phải có
những giải pháp hành động kịp thời và hiệu quả.
Việt Nam gia nhập WTO thể hiện tiến trình chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua, nước ta cũng tăng cường giao
lưu văn hóa với các nước trên thế giới. Sau WTO, cùng với việc đẩy mạnh hội
nhập kinh tế quốc tế, việc giao lưu văn hóa quốc tế sẽ mạnh mẽ hơn.
Với mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, một vấn đề rất quan trọng đặt ra là giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc trong hội nhập quốc tế. Trên thế giới, bất kỳ quốc gia, dân tộc nào
đều tìm mọi cách giữ gìn, bảo vệ bản sắc văn hóa của riêng mình, vì mất bản
sắc sẽ không còn là một quốc gia, một dân tộc nữa. Bản sắc văn hóa mỗi dân
tộc đã đóng góp chung cho nền văn minh nhân loại, làm cho nó đa dạng,
phong phú, kết tinh những tinh hoa văn hóa của các dân tộc ở khắp các châu
lục. Việc giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới là rất cần thiết, nó là
nguồn bổ sung, làm giàu có thêm cho nền văn hóa mỗi dân tộc. Một nền văn
hóa đóng cửa khép kín sẽ khô héo, thiếu sức sống và kém phát triển. Vấn đề
đặt ra là khi giao lưu, hội nhập quốc tế là không chỉ tiếp thu những tinh hoa
1
văn hóa của nhân loại mà còn phải giữ được nền văn hóa dân tộc, không đánh
mất bản sắc của chính mình.
Thực tế cho thấy, khi mở rộng giao lưu văn hóa, bên cạnh cơ hội để tiếp
thu những tinh hoa văn hóa thế giới thì những sản phẩm "văn hóa" xấu, độc từ
bên ngoài cũng tràn vào nước ta. Nạn sách đen, video đen, băng đĩa kích thích
bạo lực, kích dục len lỏi đến tận ngõ xóm, làng quê…Chúng ta mất bao nhiêu
công sức truy quét mà vẫn chưa xóa bỏ được. Những sản phẩm văn hóa xấu,
độc này rất nguy hại, làm vẩn đục môi trường văn hóa, ảnh hưởng tới lối
sống, đạo đức của mọi người, nhất là lớp trẻ. Càng mở rộng giao lưu văn hóa,
càng phải ngăn chặn quyết liệt những sản phẩm văn hóa xấu, độc. Ngăn chặn
có hiệu quả chính là góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của
dân tộc.
Trong học phần Quan hệ quốc tế, trên cơ sở nghiên cứu một số tổ chức
quốc tế, nhất là tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bản thân tôi nhận thấy
rằng, trong quá trình gia nhập WTO, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trở
thành một vấn đề cấp thiết đối với các quốc gia, dân tộc trên thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng. Vì vậy, tôi đã lựa chọn vấn đề “Giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO”
làm nội dung viết thu hoạch
NỘI DUNG
1. Việt Nam gia nhập WTO – cơ hội và thách thức đối với việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thành lập ngày 01/01/1995 với tư
cách là thể chế pháp lý điều tiết các mối quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế
mang tính toàn cầu. WTO ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả các nguyên tắc, luật
lệ của tổ chức tiền thân là Hiệp định chung về thuế quan, thương mại và mậu
2
dịch (General Agreement on Tariffs and Trade - GATT) được 23 nước sáng
lập ký kết tháng 10/1947, chính thức có hiệu lực tháng 01/1948. Có thể nói
rằng, sự ra đời của WTO đã thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa các
nước trên thế giới, tạo điều kiện để các nước phát triển kinh tế.
Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện rất tích cực, đúng đắn
đường lối chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần: phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, giữ vững độc lập chủ
quyền, an ninh quốc gia, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc. Có thể nói, đến nay chúng ta đã có sự nhất trí cao về
đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Từ thống nhất về
nhận thức tư tưởng ấy đã chuyển biến thành hành động kinh tế đối ngoại tích
cực.
Đến nay, vấn đề có tham gia hội nhập hay không không còn là vấn đề
phải bàn cãi mà vấn đề quan tâm chính là lộ trình, bước đi hội nhập, các giải
pháp hội nhập, hình thức hội nhập sao cho đạt kết quả cao nhất, tìm những
biện pháp khắc phục khó khăn và loại bỏ những nguy cơ, thách thức sinh ra
trong quá trình hội nhập. Để tiến hành hội nhập kinh tế toàn cầu, chúng ta đã
tích cực chuẩn bị mọi điều kiện như thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
Việt Nam, điều chỉnh đường lối chính sách, ban hành các văn bản pháp luật
kinh tế nhằm tạo ra sự gặp gỡ với các nền kinh tế thế giới. Đối với Tổ chức
Thương mại thế giới, chúng ta đã nghiên cứu tìm hiểu hàng loạt các văn bản
pháp luật, chính sách kinh tế của các nước thành viên, có biện pháp và lộ trình
thích hợp để gia nhập tổ chức này.
Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO từ tháng 1 năm 1995 và đã
được tiếp nhận, được công nhận là quan sát viên của tổ chức sau hơn 10 năm,
trải qua hàng trăm cuộc đàm phán song phương và đa phương với sự tham gia
của tất cả các bộ, các ngành kinh tế, các bộ, ngành tổng hợp, Văn phòng Quốc
3
hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an. Việt Nam đã trả lời trên 3000 câu hỏi của
các thành viên ban công tác WTO về chính sách kinh tế, thương mại của Việt
Nam, cung cấp nhiều thông tin khác nhau theo biểu mẫu do WTO qui định về
hỗ trợ, trợ cấp trong công - nông nghiệp, các doanh nghiệp có đặc quyền, các
biện pháp đầu tư không thích hợp với qui định của WTO, thủ tục hải quan, hệ
thống tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ…
Ngày 07/11/2006 tại trụ sở của WTO ở Giơnevơ (Thụy Sĩ) đã diễn ra
phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng WTO, chính thức kết nạp Việt Nam thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Đây là một sự
kiện quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của nước ta trên con đường hội nhập
quốc tế, khẳng định tính tích cực, nhạy bén trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.
Việc nước ta gia nhập WTO có thể nói: đã, đang và sẽ đem lại cho
chúng ta những cơ hội phát triển to lớn cũng như những thách thức gay gắt.
Hiện nay, thế giới đang chứng kiến hai yếu tố lớn tác động mạnh mẽ đến bức
tranh kinh tế toàn cầu là: sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự gia tăng
hoạt động của các công ty xuyên quốc gia. Những công ty tư bản xuyên quốc
gia, những thế lực chủ yếu chi phối “luật chơi” của kinh tế thế giới không
phải không mong muốn kiến tạo “một thế giới theo hình ảnh của nó” - như
cách diễn đạt của C.Mác, Ph.Ăngghen cách đây hơn 160 năm - cả về chính trị
và văn hóa. Với góc tiếp cận này, việc Việt Nam trở thành thành viên của
WTO lại là một “thời cơ” lớn đối với các thế lực thù địch thực thi chiến lược
“Diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng Việt Nam. Sự chống phá đó,
trong nhiều trường hợp, được ẩn náu, che dấu kín đáo trong các quan hệ kinh
tế, thương mại, hợp tác, đầu tư làm cho chúng ta khó nhận biết chính xác, rõ
4
ràng, và vì thế, cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” trở nên phức tạp,
khó khăn hơn.
Mặt khác, chúng ta cũng nhận thấy rằng, khái niệm "cơ hội" hay "thách
thức" cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Có cơ hội mà bỏ qua, để tuột khỏi tay thì
cơ hội cũng bằng không. Gặp thách thức mà biết chủ động đón nhận, khôn
khéo để vượt qua sẽ tạo động lực để đất nước phát triển, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân lao động.
Cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO không phải là “nhất thành bất
biến” mà đan xen lẫn nhau, tác động sâu rộng không chỉ đến lĩnh vực kinh tế,
mà đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đến từng tổ chức và con người. Tận
dụng được cơ hội, vượt qua và đẩy lùi thách thức, biến thách thức thành cơ
hội để phát triển, phụ thuộc vào việc chúng ta phát huy nhân tố chủ quan, nội
lực của đất nước, bản sắc văn hóa, tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường
của cả dân tộc như thế nào.
Từ xưa, nền văn hóa lâu đời của dân tộc đã có trong niềm tự hào của
cha ông ta khi khẳng định về độc lập, chủ quyền của đất nước trước kẻ thù
xâm lược. Văn hóa là một di sản cực kỳ quý báu được kế thừa từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Ngày hôm nay, văn hóa xuất hiện trên hầu hết các lĩnh vực
của cuộc sống: văn hóa tình cảm, văn hóa giao tiếp, văn hóa kinh doanh, văn
hóa tranh luận, phê bình văn hóa là hành trang của đất nước trên con đường
hội nhập quốc tế.
Để có một quan niệm đầy đủ, toàn diện về văn hóa quả không phải là
điều đơn giản. Có rất nhiều quan niệm đã được đưa ra vì mỗi cá nhân, mỗi tác
giả lại đứng trên một góc độ khác nhau để nhìn nhận về văn hóa. Có người cho
rằng, văn hóa gồm: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; văn hóa là tổng thể
những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính
chất một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Cũng có người cho
5
rằng, văn hóa theo nghĩa rộng là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, gồm
tám lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống; giáo dục đào tạo; khoa học công
nghệ; văn học nghệ thuật; giao lưu văn hóa; thông tin đại chúng; thể chế văn
hóa; đời sống văn hóa. Nghĩa hẹp gồm nếp sống, lối sống; văn học nghệ thuật;
thông tin đại chúng; xuất bản báo chí; phong tục tập quán; đạo đức xã hội và
chuyên ngành nghiệp vụ văn hóa.
Văn hóa được hiểu theo những góc độ tiếp cận khác nhau. Chủ tịch Hồ
Chí Minh - danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã nói: Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật - những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn ở và phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Như vậy,
lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của văn hóa. Để trở thành văn hóa
đích thực thì những sáng tạo đó phải hướng về các giá trị nhân văn, hoàn
thiện nhận thức, nhân cách con người. Các giá trị quý báu đó góp phần làm
nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, dân tộc.
Trong quan niệm của Đảng ta, văn hóa là một lĩnh vực thực tiễn của
đời sống xã hội, nó cũng có những quy luật vận động phát triển riêng, trong
đó tính dân tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hóa, phản ánh mối quan
hệ giữa dân tộc và văn hóa trong điều kiện dân tộc đã hình thành. Nội lực của
dân tộc, một mặt, chính là nguồn nhân lực to lớn, mặt khác, là truyền thống,
bản sắc văn hóa dân tộc được kết tinh và hiện đại hóa.
Tính dân tộc là nội dung quan trọng, luôn được Đảng ta đặt lên vị trí
hàng đầu, vì đó là tính chất cốt lõi của một nền văn hóa. Nó là cơ sở của nền
văn hóa tiên tiến, kết tinh thành nguồn nội lực để xây dựng một quốc gia giàu
mạnh và phát triển bền vững. Chính do tác động của quy luật tính dân tộc mà
văn hóa mang bản sắc dân tộc. Lịch sử đã chứng kiến biết bao cuộc đấu tranh
6
oanh liệt, bao người sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bản sắc văn hóa của dân tộc
mình trước kẻ thù xâm lược. Những ngày hôm nay biết bao người dân Việt
Nam ở hải ngoại vẫn khát khao muốn hành hương tìm về cội nguồn, tìm về bản
sắc văn hóa dân tộc.
Cốt lõi của văn hóa là bản sắc văn hóa dân tộc. Từ xưa đến nay bản sắc
văn hóa dân tộc làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng người Việt Nam
vượt qua biết bao sóng gió, thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua để
không ngừng phát triển và lớn mạnh. Đó là điểm tựa vững chắc để chúng ta
đến với thế giới. Tính dân tộc là yếu tố cấu thành bản chất nhất của văn hóa,
bản sắc dân tộc của văn hóa là những cái tiêu biểu nhất của văn hóa, những
giá trị bền vững của dân tộc. Đó là cái chủ yếu nhất, nổi bật nhất, những tinh
hoa của cộng đồng văn hóa Việt Nam; và đó cũng là cái riêng, độc đáo nhất,
bản chất nhất. Ta có thể nhận ra cái riêng ấy trong nếp sống, cách ăn mặc,
phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, kho tàng văn hóa dân gian.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên trong lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, hình thành qua nhiều thế
hệ, tầng nấc thang biến đổi, phát triển. Vì thế, nó kết tinh những gì đặc sắc
nhất, đẹp đẽ nhất, độc đáo nhất của các cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nó có
giá trị bền vững, trường tồn cùng thời gian, như chất keo kết nối cộng đồng
người gắn bó với nhau, để cùng tồn tại và phát triển. Biểu hiện cụ thể là: Lòng
yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế
trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống
Người Việt Nam yêu nước, căm thù giặc mà đoàn kết đấu tranh, bảo vệ
chủ quyền và độc lập của đất nước. Đó là biểu hiện của tinh thần dân tộc, ý
7
thức giữ gìn những gì thuộc về Việt Nam. Nhân dân ta đấu tranh với kẻ thù
không chỉ bằng vũ khí, súng đạn mà bằng cả văn hóa. Trong các thời kỳ cách
mạng, văn hóa được coi là một mặt trận. Văn hóa trở thành một vũ khí sắc
bén để đấu tranh với kẻ thù. Nó có thể phát huy được hiệu quả đấu tranh khi
mang trong mình bản sắc, truyền thống dân tộc.
Văn hóa - dân tộc là hai phạm trù khác nhau nhưng liên quan chặt chẽ
với nhau vì sự khác nhau giữa các dân tộc là sự khác nhau về văn hóa. Bản
sắc mỗi dân tộc được thể hiện tập trung ở bản sắc văn hóa của chính dân tộc
đó. Mặt khác, chính đời sống văn hóa và giá trị tinh thần của một dân tộc là
dấu hiệu để đánh giá nền văn hóa đó ở trình độ nào, thuộc các cộng đồng nào
trên thế giới. Như vậy, đánh mất bản sắc riêng là đánh mất dân tộc.
Con người không thể sống tách khỏi cộng đồng cũng như mỗi dân tộc
không thể sống biệt lập với thế giới. Trong lịch sử, các quốc gia luôn có sự
tiếp xúc, giao lưu với nhau qua các cuộc di cư lớn nhỏ, chiến tranh xâm lược,
trao đổi kinh tế, vật phẩm, quan hệ hôn nhân, ngoại giao Và như thế, bản
sắc văn hóa dân tộc không chỉ được hình thành nên bằng những yếu tố bản
thân vốn có mà còn có sự tiếp nhận, biến đổi văn hóa nước ngoài sao cho phù
hợp, để nâng lên thành cái riêng đặc sắc của từng dân tộc. Với những ý nghĩa
và giá trị của mình, bản sắc văn hóa của dân tộc có sức sống trường tồn.
Qua giao lưu hội nhập, nền văn hóa nước ngoài song song tồn tại cùng
văn hóa các dân tộc Việt Nam. Dân tộc không đồng nghĩa với quá khứ, nó
vẫn không ngừng tiếp thu những cái mới để làm phong phú cho mình. Tuy
nhiên, cái bản chất, tinh hoa thì không bao giờ được thay đổi, mà phải được
gìn giữ, vun đắp. Đó là khí phách, tâm hồn, bản lĩnh dân tộc, là cơ sở để dân
tộc ta hòa nhập với tiến trình giao lưu quốc tế mà không tự đánh mất mình.
Gia nhập WTO, Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức dối với
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
8
Về cơ hội đối với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Cơ hội lớn nhất khi gia nhập WTO đem lại cho chúng ta là từ nay nước
ta đã có thể tham gia các thị trường thế giới (về vốn, hàng hóa, dịch vụ ) với
tư cách một thành viên bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. Khi các rào cản bị
xóa bỏ, xuất khẩu nước ta sẽ có điều kiện tăng nhanh, dòng vốn đầu tư nước
ngoài đổ vào nước ta dự báo sẽ có chiều hướng tăng đột biến; từ đó kinh tế sẽ
tăng trưởng mạnh mẽ, có thêm việc làm, thu nhập của nhân dân sẽ tăng, làm
cho mức sống vật chất và nhu cầu hưởng thụ văn hóa được nâng cao. Ðây
chính là một trong những tiền đề cần thiết khích lệ văn hóa phát triển, thúc đẩy
việc sáng tạo các sản phẩm văn hóa nghe nhìn, nghệ thuật biểu diễn, sách
báo đến các nhu cầu giải trí khác như du lịch văn hóa, tham quan thắng cảnh,
di tích lịch sử, bảo tàng
Nhờ sự giao lưu văn hóa quốc tế được tăng cường mà nhân dân ta có
thêm điều kiện thuận lợi để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại - từ lối sống,
nếp sống năng động, sáng tạo, tự lập, ý thức tôn trọng pháp luật, đề cao tinh
thần dân chủ, công bằng đến những giá trị văn học nghệ thuật mang đậm tính
nhân văn, tính dân tộc và hiện đại.
Chúng ta cũng có cơ hội nhiều hơn để giới thiệu với bạn bè khắp năm
châu những vẻ đẹp độc đáo của nền văn hóa dân tộc, góp phần làm phong phú
nền văn hóa chung của nhân loại. Hội nhập mạnh mẽ với thế giới, chúng ta có
dịp soát xét lại cơ chế, chính sách trên lĩnh vực văn hóa xem có gì lỗi thời cần
sửa đổi cho phù hợp thông lệ, chuẩn mực thế giới mà vẫn tuân thủ những
nguyên tắc của chúng ta.
Có thể nói, việc nước ta tham gia ngày càng đầy đủ và tích cực, chủ
động vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế thì cơ hội thuận
lợi vẫn là cơ bản. Những thách thức đặt ra cũng không thể xem nhẹ.
Về thách thức đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
9
Ở tầm vĩ mô, có thể nói thách thức lớn nhất đối với văn hóa chủ yếu
diễn ra trên lĩnh vực giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Cho nên, cần xem xét
kỹ hơn vấn đề có ý nghĩa chiến lược này.
Chúng ta đều biết mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hóa riêng. Bản sắc
văn hóa được hình thành trong cả quá trình phát triển không chỉ trên cơ sở các
điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị nhất định của mỗi dân tộc mà còn chịu tác
động khách quan của sự giao lưu kinh tế - văn hóa với nhiều dân tộc khác.
Tuy nhiên, để một quốc gia dân tộc tồn tại, ngoài những yêu cầu về lãnh thổ,
địa bàn cư trú, thể chế chính trị, tiềm năng kinh tế , để có một nền văn hóa
với bản sắc riêng là hết sức quan trọng. Nguyên Thủ tướng Chính phủ Võ
Văn Kiệt trong thư gửi Hội nghị xuất bản toàn quốc (1993) đã khẳng định:
"Mất bản sắc văn hóa dân tộc là mất hết!".
Bản sắc văn hóa dân tộc ta là tổng thể những giá trị bền vững, những
tinh hoa văn hóa vật chất và tinh thần làm nên sắc thái riêng trường tồn cùng
dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành T.Ư Ðảng (khóa VIII) đã
chỉ rõ: "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Ðó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí
tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý,
đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị
trong lối sống Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức
biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo".
Không thể phủ nhận những tác động tích cực mà nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng cũng như quá trình hội nhập
quốc tế đem lại cho nền văn hóa dân tộc ta: chúng ta trở nên năng động, sáng
10
tạo, tự tin hơn; ý thức pháp luật được nâng cao hơn; tinh thần dân chủ công
bằng xã hội được củng cố; cách nhìn nhận mang tính thực tiễn được đề cao,
giảm bớt dần ảo tưởng về tính ưu việt đặc thù của dân tộc mình so với thế
giới
Tuy nhiên, khi mở cửa, thách thức từ những yếu tố tiêu cực của quá
trình hội nhập đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là rất lớn. Kinh tế
thị trường với chủ nghĩa thực dụng sẽ khiến lý tưởng cao đẹp chúng ta theo
đuổi bấy lâu dễ bị phai nhạt ngay trong cả một số đảng viên. Lối sống, nếp
sống nặng về vật chất, đồng tiền, tâm lý hưởng thụ tiêu dùng có cơ hội tán
phát lan truyền như nấm sau mưa.
Tình nghĩa trong gia đình, làng xóm, tập thể cơ quan có phần bị nhạt
nhòa. Ngày càng bén rễ là tâm lý "khôn sống, mống chết", "mạnh được, yếu
thua", "cá lớn nuốt cá bé". Ở một bộ phận không nhỏ dân cư, nhất là trong lớp
trẻ, là xu hướng muốn hưởng thụ ăn chơi vượt quá sự đóng góp lao động của
bản thân mình. Đã trở thành hiện tượng phổ biến là tâm lý phá phách, chơi
bời trác táng ở con em các gia đình giàu sổi bất chính (do buôn gian bán lận,
do bố mẹ có chức có quyền tham nhũng ): nạn đua xe trái phép, lắc thâu đêm
ở các vũ trường, tệ nghiện ngập ma túy, cờ bạc, trai gái không còn là chuyện
cá biệt. Tâm lý sùng ngoại, coi rẻ các giá trị truyền thống có xu hướng lây
lan
Mặt trái của nền kinh tế thị trường cộng với những yếu tố tiêu cực của
quá trình hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra những thách thức to lớn đối với
việc giữ gìn và phát huy phần tốt đẹp trong bản sắc văn hóa dân tộc ta, đối với
sự nghiệp xây dựng con người, xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống cao đẹp.
Ở cấp độ vi mô, chúng ta có thể khảo sát kỹ hơn thách thức của quá
trình hội nhập quốc tế này đối với một lĩnh vực hoạt động văn hóa cụ thể đáng
chú ý là lĩnh vực dịch vụ nghe nhìn.
11
Dịch vụ nghe nhìn bao gồm: Sản xuất các chương trình nghe nhìn mang
tính giải trí thương mại trên sóng truyền hình và phát thanh; sản xuất phim;
sản xuất băng đĩa ca nhạc, băng đĩa hình (đĩa CD, VCD, DVD). Ðây có thể
coi là một ngành công nghiệp văn hóa quan trọng, không chỉ có ý nghĩa sâu
rộng về mặt tuyên truyền, giáo dục theo các định hướng tư tưởng, đạo đức,
thẩm mỹ của Ðảng và Nhà nước ta, mà còn có tính thương mại ở các cấp độ
khác nhau.
Dưới góc độ là sản phẩm mang tính thương mại, dịch vụ nghe nhìn ở nước
ta còn đang ở giai đoạn bắt đầu phát triển: cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu, thiếu
đồng bộ; nguồn nhân lực mỏng, không thường xuyên được tái đào tạo, nâng cao;
nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, còn tâm lý ỷ lại trông chờ vào ngân sách Nhà
nước; chất lượng các sản phẩm nghe nhìn nhìn chung chưa có sức thu hút khán,
thính giả
Thực trạng còn non yếu của dịch vụ nghe nhìn khiến thách thức cạnh
tranh của sản phẩm nghe nhìn từ bên ngoài càng lộ rõ. Không khó khăn gì để
nhận thấy rằng các chương trình truyền hình nước ngoài (đặc biệt là phim
truyện) đang giành ưu thế áp đảo, xuất hiện trên hầu hết "giờ vàng" truyền
hình là phim nước ngoài (Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ ); các game show có
sức thu hút lượng khán giả đông là mua bản quyền nước ngoài ("Chiếc nón kỳ
diệu", "Ai là triệu phú", "Hãy chọn giá đúng", "Phụ nữ thế kỷ 21" ). Băng
đĩa nhạc, băng đĩa hình nước ngoài chiếm thị phần rất lớn (dù không ít trường
hợp là băng đĩa lậu vi phạm bản quyền). Số lượng những sản phẩm nghe nhìn
của chúng ta xuất ra nước ngoài rất ít ỏi. Có thể nói chúng ta đang nhập siêu
rất lớn trên lĩnh vực này.
Hiện nay các hãng phim, các hệ thống phát hành phim (nhập phim và
các rạp chiếu bóng hiện đại) do nước ngoài đầu tư và vận hành đang dần dần
chiếm được ưu thế kinh doanh trên lĩnh vực nghe nhìn, trong khi các hãng
12
phim nhà nước, các rạp chiếu bóng quốc doanh đang vật lộn với không ít khó
khăn.
Rõ ràng là trên lĩnh vực nghe nhìn chúng ta đang phải đối diện với
những thách thức to lớn nảy sinh từ quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa
quốc tế. Nếu không vượt qua được những thách thức này, thì không những
chúng ta sẽ phải chịu thua thiệt về kinh tế, mà còn phải đối diện với những hệ
lụy khôn lường về văn hóa dưới góc độ xây dựng con người, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp.
Ngoài ra, còn những thách thức trên các lĩnh vực cụ thể khác, như vấn
đề nâng cao năng lực của hệ thống thông tin đại chúng, xuất bản - báo chí
trước tình hình mới; vấn đề sở hữu trí tuệ, chống xâm phạm bản quyền (một
thực tế nan giải rất phổ biến đối với các nước đang phát triển); vấn đề dân chủ
nhân quyền bị xuyên tạc, bóp méo có thể làm xói mòn các giá trị văn hóa
truyền thống; vấn đề tự do tôn giáo, tín ngưỡng bị lợi dụng làm phương hại
đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc , những vấn đề mà khuôn khổ bài viết
không có điều kiện bàn sâu.
Tóm lại: gia nhập WTO, nước ta có rất nhiều cơ hội để phát triển trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực văn hóa. Đó là sự giao
thoa, tiếp biến văn hóa, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc – động lực to lớn trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng phải nhìn thẳng vào sự thật, đó là mặt trái của việc gia
nhập WTO đối với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Chỉ có trên cơ sở nhìn
nhận một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, Đảng và Nhà nước ta
mới có đường lối, chính sách đúng đắn để bảo vệ những giá trị văn hóa tốt
đẹp của dân tộc, không để tình trạng lai căng về văn hóa diễn ra, đập tan được
13
âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch lợi dụng vấn đề văn hóa để chống phá cách
mạng Việt Nam.
2. Những giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO
2.1 Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là giữ gìn cốt cách dân tộc trong quá
trình phát triển của dân tộc.
Theo nghĩa Hán - Việt cốt là xương, cách là tiêu chuẩn, phạm vi, quy
định. Nói tới cốt cách của con người là nói đến nét đặc sắc, đặc trưng về tính
cách của một con người hoặc của một tầng lớp xã hội. Chẳng hạn, người ta
nói tới cốt cách nhà Nho, cốt cách nhà tri thức, cốt cách nhà văn Nói tới cốt
cách của một dân tộc thì không chỉ nói tới những nét đặc sắc, đậm đà được
biểu hiện qua tính cách mà còn thông qua toàn bộ đời sống vật chất và tinh
thần của dân tộc. Cốt cách dân tộc là cái tương đối ổn định, bền vững bởi nó
được hình thành, tạo dựng và khẳng định trong lịch sử tồn tại và phát triển
của dân tộc. Lĩnh vực thể hiện rõ nhất cốt cách dân tộc, tinh thần dân tộc là
văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là biểu hiện sống động của cốt cách dân tộc
qua bao thăng trầm của lịch sử. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng chính là
giữ gìn cốt cách dân tộc. Cốt cách dân tộc được coi là "chất", là "bộ gien" của
mỗi dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là bảo vệ, giữ gìn bộ
gien quý đó. Một nền văn hóa giữ được cốt cách dân tộc sẽ là một nền văn
hóa có đủ "sức khỏe" để đề kháng, chống lại sự "ô nhiễm văn hóa" hay "xâm
lăng văn hóa" một cách vô thức hay có chủ định. Đây là một điều kiện cơ bản
để "tiếp biến" văn hóa trước sự tác động nhiều chiều, phức tạp của khách
quan được thực hiện một cách chủ động, tích cực. Chỉ như vậy, nền văn hóa
dân tộc mới không bị "hòa tan" hay "lai căng" một cách thô thiển, mất bản
14
sắc. Giữ được cốt cách dân tộc sẽ giúp dân tộc thích ứng được với những cái
mới và "dân tộc hóa" cái mới để biến nó thành tài sản của dân tộc, mang hồn
của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh sự tiếp biến kỳ diệu của nền văn hóa Việt
Nam trong điều kiện bị nước ngoài xâm lược. Đó là sự tiếp biến giữ được cốt
cách dân tộc, đồng thời phát triển được bản sắc dân tộc trước những thách
thức của lịch sử. Đây là một truyền thống, một "cốt cách dân tộc" cần được
phát huy trong điều kiện phát triển kinh tế của nước ta hiện nay.
Cốt cách dân tộc như mạch nước nguồn xuyên suốt quá trình phát triển
của dân tộc. Nếu một dân tộc đạt đỉnh cao về kinh tế nhưng không giữ được
cốt cách dân tộc thì sự phát triển ấy là không trọn vẹn. Trong quá trình phát
triển, nhiều khi vì lợi ích kinh tế trước mắt, người ta có thể chưa ý thức nhiều
tới việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn cốt cách dân tộc. Thực tế, sự
thiếu thốn, nghèo nàn về bản sắc văn hóa, sự mất mát về cốt cách dân tộc
nhiều khi còn đáng sợ hơn sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật chất. Sự mất mát
về bản sắc văn hóa dân tộc làm mất đi cốt cách dân tộc, có thể làm mất đi ý
nghĩa tồn tại của một dân tộc. Như vậy, sự phát triển kinh tế có thể mang lại
sự đầy đủ về vật chất và tiện nghi sinh hoạt nhưng không đồng nhất với sự
phồn vinh, thịnh vượng nếu ở đó thiếu vắng những giá trị văn hóa dân tộc. Sự
phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, đặc biệt là giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc gắn với giữ gìn cốt cách dân tộc là một nguyên tắc luôn cần được tôn
trọng trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở củng cố ý thức tự tôn dân tộc
và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững.
Tự là tự mình, tôn là đề cao. Tự tôn là tự mình coi trọng mình. Giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là nói đến lòng tự hào, ý thức tự tôn dân tộc.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ nhấn mạnh những nét đặc sắc của
dân tộc mà còn là giữ gìn những giá trị thuộc về dân tộc đó. Đồng thời việc giữ
15
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở ý
thức tự giác của cả cộng đồng dân tộc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói, văn hóa phải "đi sâu vào tâm lý quốc dân" để từ đó "văn hóa soi đường cho
quốc dân đi".
Ý thức tự tôn dân tộc được củng cố thông qua việc giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong việc phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc mà cả đối với quá trình phát triển nói chung,
phát triển kinh tế nói riêng. ý thức đó có thể trở thành sức mạnh giúp dân tộc
vượt qua những khó khăn, thử thách trong quá trình phát triển. Hành động tự
nguyện quyên góp tiền vàng cho Chính phủ thời kỳ khủng hoảng kinh tế hay
tự hào sử dụng những sản phẩm sản xuất trong nước để phát triển kinh tế đất
nước chính là minh chứng khẳng định giá trị của ý thức tự tôn dân tộc cho sự
phát triển kinh tế bền vững của dân tộc.
Hội nhập quốc tế là một quá trình chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có
mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Nó tạo ra
một môi trường thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất một cách mạnh mẽ trên
phạm vi toàn cầu, đồng thời cũng phân chia thế giới thành hai cực giàu nghèo
một cách khốc liệt tạo nên sự phụ thuộc khó tránh khỏi của các quốc gia kém
phát triển vào các nước phát triển. Đó là nguyên nhân của sự bất bình đẳng
giữa các quốc gia dân tộc có trình độ phát triển khác nhau. Sự bất bình đẳng
này không chỉ biểu hiện trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa,
đe dọa bị đồng hóa, đánh mất bản sắc văn hóa của các dân tộc có trình độ phát
triển thấp hơn. Ngoài ra, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường cũng làm
phát sinh một số hiện tượng tiêu cực, như hình thành lối sống hưởng thụ, suy
tôn vật chất, chú trọng vật dụng hiện đại mà coi nhẹ những giá trị tinh thần
thuộc về dân tộc; đề cao cái cá nhân mà suy giảm tính cộng đồng, mờ nhạt về
ý thức tự tôn dân tộc tất cả những điều đó đều làm suy yếu đi sức mạnh của
16
dân tộc. Củng cố ý thức tự tôn dân tộc sẽ góp phần điều tiết, định hướng giá
trị để hạn chế những mặt tiêu cực đó. Như vậy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc gia sẽ góp phần
phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong
hoàn cảnh hội nhập quốc tế, bảo đảm cho sự phát triển của dân tộc giữ vững
được độc lập, tự chủ trên mọi phương diện. Đảng ta khẳng định: trong điều
kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm
giữ gìn và nâng cao văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo
đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc.
Ý thức tự tôn dân tộc không chỉ để khẳng định mình với dân tộc khác
mà còn giúp dân tộc đó có thái độ đúng mực với cái mới, cái hiện đại. Đó là
sự không quá tự ti hay quá tự cao tự đại để khép kín, bảo thủ hay phủ định
sạch trơn những giá trị truyền thống trước cái mới lạ, hấp dẫn xâm nhập từ
bên ngoài cùng với quá trình hội nhập quốc tế. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc là để khẳng định sự độc lập tự chủ của dân tộc về mọi mặt, đồng
thời cũng tạo niềm tin và là cơ sở vững chắc cho các quan hệ hợp tác quốc tế.
Đó là nền tảng tinh thần cho dân tộc Việt Nam vững bước đi lên. Có học giả
nước ngoài đã cho rằng: "có thể thăng, có thể trầm, nhưng với lòng tự tôn
mạnh, Việt Nam sẽ không chịu thấp kém" so với các dân tộc khác.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là tiếp tục phát huy tính sáng tạo của
dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hướng tới một nền văn hóa dân tộc
đa dạng, phong phú về sắc thái chứ không phải là một nền văn hóa nghèo nàn,
giống nhau, cùng khuôn mẫu. Đa dạng, phong phú hoàn toàn đối lập với sự
nghèo nàn, đơn điệu. Đa dạng, phong phú về bản sắc là một thuộc tính của
văn hóa thể hiện khả năng sáng tạo của các dân tộc trong những điều kiện lịch
sử cụ thể. Ngày nay, hội nhập quốc tế, một mặt, tạo điều kiện để các nền văn
17
hóa dân tộc được giao lưu, hợp tác và phát triển; mặt khác, cũng tạo ra xu
hướng toàn cầu hóa về ngôn ngữ, về văn hóa, về lối sống và quan niệm giá trị.
Quá trình đó đặt các dân tộc trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc,
đồng thời còn ẩn chứa nguy cơ làm suy giảm tính sáng tạo của các dân tộc
trong quá trình phát triển. Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO Fedrico Mayor
trong Diễn văn tại lễ phát động Thập niên thế giới phát triển văn hóa
UNESCO, Pa-ri, 1998 đã từng cảnh báo: sự "đồng hóa các hệ thống giá trị và
tiêu chuẩn, đe dọa làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa, nhân
tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại"
Sáng tạo trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một yếu
tố quan trọng. Sáng tạo sẽ "cởi trói" tư duy con người thoát khỏi sự khuôn
buộc của thói quen, phong tục hay tiêu chuẩn đã không còn phù hợp với điều
kiện mới. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một mặt, phải gắn liền
với chống lạc hậu, lỗi thời "trong phong tục, tập quán, lề thói cũ"; mặt khác,
giữ gìn phải biết lọc bỏ - bổ sung - phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với
đời sống hiện đại. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là không
ngừng xác lập một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở
phát huy tính sáng tạo của dân tộc. Đó chính là sức sống nội lực của một dân
tộc trong quá trình phát triển bền vững. Ngoài ra, khơi dậy và khuyến khích
sáng tạo không chỉ có ý nghĩa trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc mà cả trong phát triển kinh tế. Mọi sự thụ động, bảo thủ, trì trệ đều kìm
hãm phát triển. Đa dạng, phong phú không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực
thúc đẩy quá trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế thời
kỳ hội nhập quốc tế. Với tư duy sáng tạo, con người mới làm chủ được quá
trình giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn, kế thừa và phát triển, mối quan hệ
giữa cái cũ và cái mới, cái truyền thống và cái hiện đại, cái tiêntiến.
18
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là kế thừa và phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
Trải dài theo năm tháng của lịch sử, mỗi dân tộc hun đúc cho mình rất
nhiều giá trị văn hóa trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những truyền
thống đó được lưu giữ, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện mới và đáp
ứng những yêu cầu phát triển của lịch sử. Trong thực tế, lòng yêu nước, yêu
lao động, yêu chuộng hòa bình và nhiều giá trị nhân văn khác đã trở thành sức
mạnh tinh thần giúp mỗi dân tộc vượt qua những gian nan thử thách để phát
triển ngày càng vững mạnh. Những tinh thần đó tiếp tục được bổ sung những
nhân tố mới, cách thức biểu hiện mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
thời kỳ hội nhập quốc tế. Ngày nay yêu nước không chỉ để chiến thắng kẻ thù
xâm lược mà còn là để xây dựng một dân tộc phát triển về mọi mặt để có thể
"sánh vai" cùng các dân tộc khác trên trường quốc tế. Yêu nước, yêu lao động
không chỉ là trân trọng đất nước và quý trọng lao động mà còn là động lực để
dân tộc đó không ngừng vươn lên những tầm cao của tri thức, nâng cao năng
lực sản xuất, hiệu quả lao động, tạo ra những hàng hóa có sức cạnh tranh
mạnh mẽ với hàng hóa các nước khác trên thị trường quốc tế. Yêu chuộng
hòa bình là để bảo vệ sự ổn định, phồn vinh không chỉ cho mỗi dân tộc mà
còn cho một thế giới tốt đẹp Đó là những giá trị phù hợp với thời đại ngày
nay.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với bảo vệ mối quan hệ hòa hợp
giữa con người với tự nhiên và xã hội.
Con người là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của thế giới tự
nhiên và là một bộ phận không thể tách rời thế giới đó. Trong quá trình tồn tại
và phát triển, con người ngày càng ý thức rõ rệt về mối quan hệ hòa hợp giữa
con người với thiên nhiên, con người với con người. "Thiên thời, địa lợi, nhân
hòa" đã trở thành triết lý sống của con người trong mọi thời đại. Ngày nay,
19
trước sự tác động của biến đổi khí hậu và sự bất ổn tàn khốc của chiến tranh,
khủng bố đang hằng ngày hằng giờ cảnh báo cho loài người phải biết quan
tâm đến việc sống hòa hợp với tự nhiên và xã hội như một nhân tố không thể
thiếu để phát triển, trong đó có phát triển kinh tế.
Hiểu theo nghĩa rộng nhất, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do chính con người sáng tạo ra trong hoạt động sản xuất và đời sống
xã hội. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội không chỉ là môi trường
sống mà còn là môi trường văn hóa, nơi những giá trị văn hóa hay bản sắc văn
hóa dân tộc hình thành, tồn tại và phát triển. Để giữ gìn văn hóa nói chung,
bản sắc văn hóa nói riêng, tất yếu phải bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội.
Điều này không chỉ có ý nghĩa với văn hóa mà còn có ý nghĩa với quá trình
phát triển kinh tế khi mà hệ lụy của quá trình phát triển công nghiệp như vấn
đề ô nhiễm và cạn kiệt tài nguyên đang là mối đe dọa đầy bất trắc cho sự tồn
tại và phát triển của loài người. Hơn lúc nào hết, việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc gắn với phát huy cách ứng xử văn hóa với tự nhiên và xã hội được coi
như một bảo đảm cho sự ổn định và phát triển.
2.2 Những giải pháp cơ bản để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc khi
Việt Nam trở thành thành viên của WTO
Khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là tham gia vào tổ chức
WTO, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức đầy đủ những gì được và mất khi
vào sân chơi này. Trên lĩnh vực văn hóa, Đảng ta luôn xác định, phải xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII) ban hành tháng 7-1998, có thể coi là một cương lĩnh chiến
lược có tính định hướng lâu dài cho sự nghiệp văn hóa nước ta. Nghị quyết đã
khẳng định, văn hóa là "nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển",
rằng "văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội".
20
Dưới góc nhìn này, chủ trương lớn nhất, bao quát nhất để đối phó với
những thách thức của hội nhập trên lĩnh vực này chính là tập trung mọi nguồn
lực dưới sự lãnh đạo của Ðảng để "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn
bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể,
từng cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ
con người. Chỉ trên cơ sở có một nền văn hóa như vậy, xã hội ta mới có thể
có nguồn lực nội sinh to lớn, để từ đó có sức đề kháng, khả năng "miễn dịch"
mạnh mẽ trước những yếu tố văn hóa tiêu cực du nhập từ bên ngoài và nảy
sinh ngay từ bên trong, từ mặt trái của nền kinh tế thị trường.
Ngành văn hóa - thông tin đã có chiến lược phát triển từ nay đến năm
2010 và dài hạn hơn là đến 2020. Với những chương trình hành động toàn cục
và trong từng lĩnh vực cụ thể.
Trước hết, toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta cần tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp xây dựng con người, xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống
lành mạnh. Ðây có thể coi là nhiệm vụ văn hóa trung tâm cần được thể hiện
mạnh mẽ trong cuộc vận động lớn "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở" gắn liền chặt chẽ với sự nghiệp "Xây dựng, chỉnh đốn Ðảng".
Cuộc chiến cam go phòng, chống tham nhũng, lãng phí, dân chủ hóa đời sống
xã hội, xác lập vai trò gương mẫu thật sự của đội ngũ cán bộ, đảng viên có
giành được thắng lợi quyết định thì sự nghiệp xây dựng con người, xây dựng
lối sống, nếp sống thấm nhuần lý tưởng, đạo đức cao đẹp mới được coi là
thành công.
Các nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác như: Xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc;
phát triển văn học nghệ thuật, sáng tạo các giá trị mới; phát triển thông tin, đại
chúng, báo chí xuất bản; phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, xây dựng nền
21
văn hóa Việt Nam thống nhất trong sự đa dạng; phát huy mặt tích cực của các
tôn giáo, tín ngưỡng trong xây dựng đời sống tinh thần tốt đẹp, hướng thiện;
chủ động đẩy mạnh giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa cũng cần được
quan tâm thực hiện.
Ðể thực hiện được các nhiệm vụ vừa có tính cấp bách trước mắt vừa
mang tính lâu dài, chúng ta cần có hệ thống các giải pháp hữu hiệu. Đó là:
Thứ nhất: Nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng trong lĩnh
vực văn hóa
Đây là giải pháp có ý nghĩa bao trùm, quan trọng nhất xuất phát từ vai
trò của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Có thể nói rằng, nhìn lại
chặng đường lịch sử của dân tộc, Đảng ta đã thể hiện rõ vai trò là người lãnh
đạo duy nhất đưa lại thắng lợi cho sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền.
Đến khi đất nước độc lập, thống nhất, để tiếp tục tạo cơ sở vật chất kỹ thuật
cho xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng đã đề xướng ra đường lối đổi mới tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (năm 1986). Những thành tựu to lớn trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội sau hơn 20 năm đổi mới, nhất là trên lĩnh
vực văn hóa đã chứng tỏ đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Hiện nay, khi chúng ta mở cửa hội nhập để tranh thủ thời cơ, vượt qua
thách thức đưa đất nước tiếp tục vững bước trên con đường đã chọn, sự lãnh
đạo của Đảng càng có nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Trên lĩnh vực văn
hóa, Đảng cần vạch ra đường lối, chủ trương, giám sát các cơ quan quản lý
Nhà nước trong việc thực hiện các chủ trương và có những điều chỉnh cần
thiết về cơ chế, tổ chức và nhân sự. Ðể Ðảng không sa vào sự vụ, không bao
biện làm thay và kết quả sẽ tốt hơn, bền vững hơn.
Thứ hai: hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước về văn hóa
Hoàn thiện bộ máy nhà nước quản lý văn hóa theo hướng tinh, gọn,
giảm bớt tính hành chính, hướng về cơ sở, cần chú ý xây dựng đồng bộ hệ
22
thống thể chế, chính sách, hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa; chú ý
tới tính hiệu quả của các văn bản pháp quy.
Chúng ta đã có các Luật Di sản văn hóa, Luật Xuất bản, Luật Báo chí,
Luật Ðiện ảnh, Luật Bản quyền, Luật Sở hữu trí tuệ nhưng việc thực hiện
nghiêm túc các luật đó còn chưa được như mong muốn.
Cần tiếp tục duy trì chính sách bảo hộ đối với các sản phẩm văn hóa
trong nước phù hợp lộ trình cam kết quốc tế. Trong lĩnh vực điện ảnh cần xác
định tỷ lệ cần thiết truyền hình phát sóng phim trong nước, nhất là vào các
"giờ vàng" và nâng dần tỷ lệ này trong các năm sau.
Sự nghiệp xây dựng văn hóa là sự nghiệp của toàn dân; nguồn lực đa
dạng trong nhân dân là hết sức to lớn. Chính vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa xã
hội hóa các hoạt động văn hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực xây dựng kinh tế
trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, dịch vụ văn hóa làm cho văn hóa không
chỉ là một lĩnh vực tinh thần đơn thuần, mà còn đem lại nguồn lợi kinh tế to
lớn.
Nhà nước cần tăng cường đầu tư từ ngân sách cho lĩnh vực văn hóa,
phấn đấu nâng dần mức chi tiêu cho lĩnh vực này lên tới 2% tổng chi ngân
sách (hiện nay chỉ mới dừng lại ở con số gần 1,3% đến 1,5%), đồng thời với
việc huy động vốn đầu tư cả nội lực và ngoại lực. Trong những năm tới, cần
hoàn thành các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các công trình văn hóa trọng điểm, coi
đó là những dự án mang tính đột phá để thúc đẩy sự nghiệp văn hóa nước nhà
phát triển. Ðó là các công trình mang tầm quốc gia: Làng văn hóa du lịch các
dân tộc Việt Nam ở Ðồng Mô, Trường quay và cơ sở kỹ thuật điện ảnh ở Cổ
Loa, Bảo tàng lịch sử quốc gia ở Tây Hồ Tây, Bảo tàng Hà Nội, Trung tâm
Hội chợ triển lãm Việt Nam. Cần tiếp tục tôn tạo các di tích lịch sử ở Huế và
các công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, các di tích gắn với
cách mạng. Sau khi đạt được sự công nhận quốc tế đối với các kiệt tác văn
23
hóa phi vật thể "Nhã nhạc cung đình Huế", "Không gian văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên", cần gấp rút hoàn thành hồ sơ về Ca trù, Quan họ Bắc Ninh và
Hoàng Thành Thăng Long để sớm trình UNESCO xem xét công nhận.
Thứ ba: Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, chuyên
môn nghiệp vụ cho ngành văn hóa, nhất là đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ
văn hóa là người dân tộc thiểu số
Đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở cần phải được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng
mạnh hơn nữa mới đủ khả năng đáp ứng yêu cầu giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới
toàn diện của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ những người làm văn hóa
đang thiếu và yếu cả về số lượng cũng như chất lượng. Chúng ta cần chú trọng
đầu tư nhiều hơn nữa cho lĩnh vực tối quan trọng là đào tạo và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho văn hóa, từ cán bộ quản lý, giáo viên bậc cao, đến
các cán bộ kỹ thuật, nghệ sĩ sáng tạo. Cần chú ý đưa cán bộ đi đào tạo nâng cao
ở các nước tiên tiến, trở thành nòng cốt cho đội ngũ cán bộ văn hóa các ngành,
các cấp.
Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước về văn hóa đang giữ vai trò quan
trọng, tuy nhiên chưa phát huy hiệu quả và tương xứng với nguồn vốn Nhà
nước đã đầu tư. Sắp tới cần đẩy mạnh việc tổ chức lại các doanh nghiệp theo
hướng đẩy nhanh cổ phần hóa, tăng cường hiệu quả, giảm bớt trung gian, loại
bỏ tâm lý trông chờ, ỷ lại đối với Nhà nước.
Thứ tư: Chú trọng bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, bản sắc và
truyền thống dân tộc
Bảo tồn các di sản văn hóa là một việc làm được Đảng và Nhà nước ta
hết sức quan tâm, vì di sản là vốn quý của dân tộc để lại cho muôn đời sau.
Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến,
tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân văn hóa, đền ơn
24
đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ những người hoạn nạn trở thành
phong trào rộng khắp trong quần chúng. Nó góp phần gìn giữ những di sản
văn hóa tinh thần quý báu: lòng yêu nước, nhân ái, khoan dung , nuôi dưỡng
tinh thần, sức sống dẻo dai của người Việt Nam trong lịch sử để vươn lên.
Các di tích văn hóa lịch sử đang được bảo tồn, tôn tạo để các thế hệ sau
có thể sử dụng cảm thụ, thưởng thức nhằm nâng cao hiểu biết về lịch sử dân
tộc. Nước ta tự hào được UNESCO công nhận bảy di sản văn hóa thế giới: Di
sản văn hóa vật thể: Vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng, Phố cổ Hội An,
Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn. Di sản văn hóa phi vật thể: Nhã nhạc Cung
đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên. Tháng 11-2006, tuần Hội nghị Cấp cao
APEC diễn ra tại Việt Nam. Tuy đây là hội nghị có ý nghĩa kinh tế - chính trị
lớn nhưng sự thành công rực rỡ của nó có đóng góp một phần không nhỏ từ
bản sắc văn hóa dân tộc. Trong tuần lễ đó, hàng loạt các hoạt động văn hóa
lớn được tổ chức: đại tiệc "Di sản văn hóa Việt Nam" chào mừng APEC; khái
quát lịch sử dân tộc hình thành qua hiện vật; văn hóa phi vật thể như các
chương trình: "Dấu ấn văn hóa Huế", "Tinh hoa Hà Nội"; nhiều hoạt động
nghệ thuật phong phú đa dạng: ca trù, hát xẩm, chầu văn, đờn ca tài tử Nam
Bộ, ẩm thực các vùng miền.
Bên cạnh đó, cần coi trọng sưu tầm, khai thác các giá trị văn hóa vật thể và
phi vật thể. Tiếp tục tổ chức ngày hội văn hóa của một số dân tộc thiểu số có bản
sắc văn hóa tiêu biểu nhằm nâng cao ý thức giữ gìn và tôn vinh giá trị văn hóa
truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Gìn giữ các
tác phẩm nghệ thuật, bảo vật, cổ vật và di vật có giá trị đặc sắc. Nâng cao chất
lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình văn hóa, có kế hoạch đầu tư
cho khâu sáng tác kịch bản, dàn dựng chương trình, vở diễn, đào tạo tài năng nghệ
thuật; tổ chức các cuộc thi sáng tác các tác phẩm văn học nghệ thuật để có những
tác phẩm đỉnh cao, các chương trình nghệ thuật hấp dẫn, có tính giáo dục tư tưởng
25