Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

BIẾN đổi xã hội và tác ĐỘNG của nó tới NHẬN THỨC của ĐẢNG TA về tôn GIÁO và CÔNG tác tôn GIÁO HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.81 KB, 26 trang )

BIẾN ĐỔI XÃ HỘI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI NHẬN THỨC CỦA
ĐẢNG TA VỀ TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Trước sự tác động của biến đổi xã hội, hơn 25 năm qua nước ta thực
hiện công cuộc đổi mới, bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, phát triển một nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những thành quả rất đáng
khích lệ: tăng trưởng kinh tế luôn được giữ ở mức ổn định khá, đời sống
người dân theo đó cũng ngày càng được nâng cao Tuy nhiên, đi kèm với
những thành quả này là những hệ quả xã hội tích cực có, tiêu cực có, trên bình
diện những hậu quả tiêu cực, đây là những thách thức cho Đảng và nhà nước
ta trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cái kinh tế và cái xã hội để đạt tới
mục tiêu vì một sự phát triển bền vững, trong đó vừa đảm bảo kinh tế phát
triển, vừa đảm bảo giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng và
bình đẳng. Theo chủ trương đó trong những năm vừa qua, đứng trước những
vấn đề xã hội nảy sinh từ những tác động của quá trình phát triển, của cơ chế
kinh tế thị trường như là giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, gia đình, tình
trạng phân tầng xã hội, sự phân hóa giầu nghèo ngày càng rõ rệt Đảng và
nhà nước ta đã thực hiện tương đối tốt mối quan hệ giữa một bên là tăng
trưởng kinh tế và một bên là bảo đảm sự công bằng xã hội. Tuy nhiên cũng
còn tồn tại không ít những hạn chế nhất định. Nhiều vấn đề xã hội mới cần
phải được quan tâm nhận định và giải quyết, một trong những vấn đề hết sức
nhạy cảm, phức tạp đó là giải quyết vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo trước
sự biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay .
Chúng ta biết rằng, Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều tín
ngưỡng, tôn giáo. Từ trước đến nay, Đảng ta luôn xác định công tác tôn giáo
là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, trong suốt tiến trình cách mạng, nhận thức về
vấn đề tôn giáo vẫn có lúc chưa thật đúng, chưa đầy đủ, còn có những định
1
kiến chủ quan. Bước vào thời kỳ mới, Đảng ta có những nhận thức mới về tôn
giáo và công tác tôn giáo, mở ra một bầu không khí mới trong đời sống cộng


đồng các tôn giáo, nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Đặc biệt, Quân đội ta là đội quân công tác, là lực lượng chính trị trung
thành và tin cậy của Đảng, việc quán triệt, vận dụng những quan điểm, nhận
thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo vào giáo dục chủ nghĩa
vô thần khoa học cho quân nhân hiện nay trước sự biến đổi xã hội là vấn đề
thời sự có ý nghĩa thiết thực.
NỘI DUNG
I. BIẾN ĐỔI XÃ HỘI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI NHẬN THỨC
CỦA ĐẢNG TA VỀ TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO HIỆN NAY.
1. Biến đổi xã hội và tác động của biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay.
* Quan niệm về biến đổi xã hội:
Cũng giống như tự nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Sự ổn định
của xã hội chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng thay
đổi bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào, cho
dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi; sự biến
đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn, và điều này cho thấy
rõ hơn là sự biến đổi đó không còn là điều mới mẻ, nó đã trở thành chuyện
thường ngày. Mọi cái đều biến đổi và xã hội cũng giống như các hiện thực
khác, không ngừng vận động và thay đổi. Tất cả các xã hội đều ở trong một
thực trạng đứng yên trong sự vận động liên tục.
* Sự biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay.
Tính đến thời điểm hiện nay (2012), đổi mới ở Việt Nam đã trải qua
hơn 25 năm, hơn 1/4 thế kỷ. Trong khoảng thời gian đó, ở Việt Nam đã diễn
2
ra rất nhiều biến đổi trên các lĩnh vực của đời sống. Trong những biến đổi đó,
có biến đổi xã hội, tức là biến đổi về mặt xã hội, phương diện xã hội của xã
hội tổng thể. Có thể nói, đã đủ thời gian cho việc tổng kết, đánh giá những
biến đổi này. Nó cần thiết chẳng những cho nhận thức mà còn cho việc hoạch
định đường lối của Đảng, xây dựng và điều chỉnh chính sách, luật pháp, cơ

chế quản lý của Nhà nước, hướng tới phát triển và theo đuổi các mục tiêu phát
triển bền vững. Nghiên cứu biến đổi xã hội ở Việt Nam qua hơn 25 năm đổi
mới là nghiên cứu những biến đổi ở thời kỳ đương đại, nó đã và đang diễn ra,
nó sẽ còn tiếp tục diễn ra, cùng với tiến trình đổi mới. Biến đổi xã hội ở Việt
Nam, một mặt là hệ quả trực tiếp của đổi mới xã hội nói chung, trong tổng
thể, chỉnh thể của nó, nhất là từ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, cùng với
những tác động vừa trực tiếp vừa sâu xa của những đổi mới, những biến đổi
về văn hoá, về môi trường và hoàn cảnh xã hội. Và điều này cũng không kém
phần quan trọng, những biến đổi xã hội đã tác động trở lại đối với những biến
đổi kinh tế, chính trị và văn hoá. Tác nhân xã hội là điều không thể không tính
đến trong sự nhận diện, phân tích và đánh giá về đổi mới, phát triển và tiến bộ
xã hội ở Việt Nam nói chung. Mặt khác, đổi mới ởViệt Nam còn gắn liền với
mở cửa và hội nhập quốc tế. Đây chẳng những là sự thay đổi căn bản về tư
duy, nhận thức đối với phát triển mà còn thay đổi cả về cách thức và mô hình
phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới của thế giới toàn cầu.
Thế giới mà tất cả chúng ta đang sống và đang hoạt động ở trong đó là một
thế giới đang diễn ra những biến đổi vô cùng nhanh chóng, phức tạp, với
không ít những đảo lộn, những đột biến thật khó lường. Trong thế giới ấy, sự
tồn tại và phát triển của các nước, các quốc gia - dân tộc ở trong thế phụ thuộc
và tùy thuộc lẫn nhau. Đó thực sự là một thế giới thống nhất trong những
khác biệt, thống nhất bao hàm cả những mâu thuẫn và xung đột. Bởi thế, ổn
định sóng đôi cùng những bất định, hợp tác đi liền với cạnh tranh, đồng thuận
sẽ lớn lên mà đấu tranh cũng gia tăng, thậm chí có những thời điểm trở nên
3
gay gắt và quyết liệt. Đó cũng là một thế giới phát triển trong đa dạng, phát
triển luôn là một quá trình phức tạp, thời cơ lớn để phát triển đan xen cùng
những thách thức nghiệt ngã trên con đường phát triển. Phát triển và hiện đại
hoá thông qua đổi mới, cải cách, mở cửa và hội nhập, đó là một cơ hội, một
khả năng to lớn luôn mở ra những triển vọng tích cực. Nó cũng đồng thời phải
đối mặt với những cạm bẫy và nguy cơ rơi vào những tình huống xấu của

phản phát triển, phản văn hoá một cách tồi tệ. Thành hay bại trong việc xử lý
mối quan hệ phức tạp này tùy thuộc vào tầm nhìn và hành động của các nhà
nước, các chính phủ khi giải quyết các vấn đề phát triển ở trong nước, không
tách rời sự chế ước và tính quy định của quốc tế, khu vực và thếgiới toàn cầu.
Với đổi mới, ngay trong những năm đầu tiên khởi động sự nghiệp này, Việt
Nam mong muốn là bạn của tất cả các nước. Việt Nam thực hiện mở rộng hợp
tác song phương và đa phương, cùng tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau,
cùng có lợi, cùng nhau phấn đấu cho hoà bình, hữu nghị, hợp tác, ổn định và
phát triển. Việt Nam chủ động mở rộng các quan hệ bạn bè, đối tác, hội nhập
ngày càng sâu vào đời sống quốc tế, không để những khác biệt về ý thức hệ
và chế độ chính trị cản trở hợp tác và phát triển. Khai thác và phát huy cả nội
lực và ngoại lực vì phát triển, Việt Nam đồng thời nỗ lực thực hiện các nghĩa
vụ và các cam kết quốc tế, với tư cách là một thành viên của cộng đồng thế
giới nhân loại.
Đó là tinh thần cơ bản của thông điệp đổi mới và phát triển mà Việt
Nam gửi tới các bạn bè đối tác, ở đó hàm chứa một nhận thức rằng, trong thế
giới ngày nay, sự phát triển đơn tuyến là không thực tế và thiếu tính triển
vọng. Phát triển trong trạng thái khép kín, tự biến mình thành một ốc đảo, biệt
lập với thế giới bên ngoài là điều không thể. Trong "một thế giới phẳng", đã
hình thành và trong "một xã hội mở" như một đặc tính, một thuộc tính tự
nhiên, tất yếu và phổ biến, phát triển chỉ có thể thực hiện được bằng cách mở
cửa ra bên ngoài, hội nhập với thế giới, thường xuyên đổi mới và không
4
ngừng tìm kiếm bạn bè, mở rộng đoàn kết và hợp tác trong tiếp xúc - giao
lưu - đối thoại văn hoá. Hội nhập để cùng phát triển, tiếp biến để phát triển
trong hội nhập, nhờ đó mà thực hiện tự phát triển với nghĩa là tự khẳng định
mình trong phát triển. Đổi mới còn được nuôi dưỡng từ mọi mạch nguồn sáng
tạo, làm hiển lộ để phát huy và quy tụ mọi khả năng sáng tạo, từ sáng tạo của
nhà lãnh đạo, các chính khách, các trí thức, học giả, chuyên gia đến sáng tạo
và sáng kiến của mọi người dân, ở khắp mọi vùng, miền đất nước, ở trong

nước cũng như ở nước ngoài Đó là nguồn trữ năng của xã hội, nguồn vốn xã
hội giúp ích cho công cuộc chấn hưng dân tộc, phát triển đất nước để phát
triển cá nhân và cộng đồng, vì tự do và hạnh phúc của con người. Biến đổi xã
hội cũng như biến đổi các lĩnh vực khác của đời sống ở Việt Nam được nhìn
nhận từ tầm vóc và ý nghĩa như thế của đổi mới, của phát triển, của mở cửa
và hội nhập quốc tế. Cũng cần phải thấy những nhân tố nào tham dự vào việc
tạo ra tính hai mặt của những biến đổi này, tức là cắt nghĩa những nguyên
nhân của nó. Những biến đổi xã hội sẽ còn diễn ra với những xu hướng và
động thái nào cần được dự báo? Đây là vấn đề đặt ra cần thiết cho quản lý các
vấn đề biến đổi và phát triển xã hội. Cuối cùng, nghiên cứu biến đổi xã hội để
đem lại những cứ liệu xã hội thực tiễn được tổng kết và khái quát thành lý
luận làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp quản lý, đặc biệt là những bổ
sung hoặc điều chỉnh chính sách xã hội, hệ thống chính sách an sinh xã hội
trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy
mạnh hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Do đó, biến đổi xã hội có thể và cần phải được nghiên cứu như một đối
tượng đặc thù, một phân hệ hợp thành hệ thống đối tượng và khách thể của
khoa học quản lý phát triển xã hội. Nghiên cứu biến đổi xã hội với tư cách là
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đổi mới ở Việt Nam hơn 25 năm qua
sẽ góp một tiếng nói, một lời bình, tuy khiêm tốn nhưng cần thiết để hiểu
thêm đất nước, con người, dân tộc và xã hội Việt Nam vừa với tính hiện thực
5
vừa với tính triển vọng của nó trong phát triển. Một trong vấn đề nghiên cứu
hết sức có ý nghĩa là vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo hiện nay.
*Tác động của biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay.
Sau hơn 25 năm thực hiện đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, cùng với những thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội, xã hội Việt Nam
cũng đã diễn ra một quá trình biến đổi toàn diện vô cùng lớn lao cả ở tầm vĩ
mô và vi mô, cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên, cùng với
những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, những biến đổi mạnh mẽ của

xã hội thời gian qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức gay gắt. Đó là,
sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ
cấu ngành nghề, cơ cấu dân tộc, tôn giáo…; sự phân hoá giữa thành thị và
nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển;
sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội…; đặc biệt là sự
biến đổi cơ cấu xã hội - tôn giáo trong giai đoạn hiện nay. Những thành tựu
của công cuộc đổi mới cũng như những vấn đề bức xúc đang đặt ra hiện nay
thực chất vừa là kết quả của sự biến đổi cơ cấu xã hội - tôn giáo; đồng thời,
vừa là tác nhân thúc đẩy sự biến đổi mạnh mẽ hơn nữa cơ cấu xã hội. Cơ cấu
xã hội - tôn giáo là một nhân tố luôn luôn biến đổi. Đó là do, trong quá trình
vận động và phát triển của xã hội, những biến đổi ở mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội đều tác động mạnh mẽ, thúc đẩy sự biến đổi của cơ cấu xã hội
- tôn giáo và đến lượt nó, sự biến đổi cơ cấu xã hội - tôn giáo lại tác động đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hiện nay, Cơ cấu xã hội - tôn giáo ở nước ta đang có sự biến đổi mạnh
mẽ: Ngoài các tôn giáo chính là Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Hồi
giáo, Cao Đài và Hoà Hảo, trong giai đoạn đổi mới còn xuất hiện thêm nhiều
tôn giáo mới, trong đó có tôn giáo tách ra từ Phật giáo, có tôn giáo là được
phục sinh từ các lễ hội dân gian và cũng có tôn giáo mới được du nhập từ bên
ngoài vào. Đó là chưa kể trong nội bộ các tôn giáo cũng có sự thay đổi không
6
chỉ ở số lượng các tín đồ, mà còn ở phương diện tổ chức và nhiều phương
diện khác nữa.
Những biến đổi cơ cấu xã hội - tôn giáo đã tác động cả tích cực và tiêu
cực đến quá trình phát triển đất nước, cụ thể trên các mặt: kinh tế, văn hoá,
chính trị và xã hội. Ở chiều tích cực: Về mặt kinh tế: sự biến đổi cơ cấu xã hội
- tôn giáo đó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, qua đó
góp phần nâng cao đời sống mọi mặt của đại đa số đồng bào tôn giáo. Về mặt
chính trị, sự biến đổi cơ cấu xã hội – tôn giáo (như tự do tín ngưỡng tôn giáo
và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của nhiều tầng lớp nhân dân mới xuất

hiện ) đã góp phần nâng cao địa vị cũng như ý thức dân chủ của người dân.
Như vậy, mô hình cơ cấu xã hội – tôn giáo ở giai đoạn mới này, về cơ bản, là
có lợi cho sự ổn định xã hội và phát triển đất nước về lâu, về dài. Về mặt văn
hoá: Việc giao lưu ngày càng gia tăng giữa các tộc người trong nước, cũng
như giữa trong nước và nước ngoài, sự phục sinh của nhiều tín ngưỡng dân
gian, sự du nhập và nảy sinh nhiều tôn giáo mới đang làm cho văn hoá Việt
Nam ngày thêm đa dạng và phong phú - mà đa dạng và phong phú chính là
một nguyên nhân không thể thiếu để phát triển. Ở chiều tác động tiêu cực: Sự
tác động tiêu cực của biến đổi cơ cấu xã hội – tôn giáo ở giai đoạn này có
nhiều, song có thể quy lại mấy biểu hiện cơ bản sau: Biến đổi cơ cấu xã hội -
tôn giáo đang làm gia tăng sự phân biệt giữa đồng bào theo tôn giáo và
không theo tôn giáo đã và đang làm gia tăng mâu thuẫn và xung đột (như kẻ
thù lợi dụng vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối đại doàn kết toàn dân tộc ) - dù
mới ở mức độ cục bộ - song cũng đã tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn đối với sự
ổn định và phát triển của xã hội: đó là mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giữa thế hệ
già và thế hệ trẻ, giữa chủ đầu tư và những người nông dân mất đất, là xung
đột giữa một số tổ chức tôn giáo và chính quyền địa phương, giữa các bộ
phận tộc người di dân tự do và cư dân địa phương.
7
Như vậy, cả hai mặt tích cực và tiêu cực đã, đang và sẽ còn tồn tại trong
quá trình biến đổi cơ cấu xã hội - tôn giáo ở mô hình đổi mới. Đây không chỉ
là vấn đề thực tiễn, mà còn là vấn đề lý luận, đòi hỏi phải giải quyết. Mà một
nội dung đáng quan tâm giải quyết là sự nhận thức mới của Đảng ta về vấn
đề tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình hình hiện nay.
2. Nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo vào giáo
dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân Quân đội nhân dân Việt
Nam trước sự tác động của biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay.
* Quan niệm về nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn
giáo trước sự tác động của biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay.
Nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo là quá trình

phản ánh một cách khách quan, toàn diện, ngày càng sâu sắc và đúng đắn hơn
đối với tôn giáo và công tác tôn giáo, được thể hiện ở hệ thống các quan điểm, lý
luận trong cương lĩnh, đường lối của Đảng, nhằm giải quyết kịp thời, hiệu quả
hơn những vấn đề nảy sinh trong bản thân tổ chức, hoạt động của tín ngưỡng,
tôn giáo và trong mối quan hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo với các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội, góp phần ngày càng to lớn hơn vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo là quá
trình đổi mới nhận thức cho phù hợp với sự vận động, phát triển của điều kiện
thực tiễn tác động ảnh hưởng của sự biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay, do
đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy ngày càng sâu sắc
của Đảng ta về lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và về tôn giáo và công tác tôn giáo nói riêng, đây không phải là những
phát hiện mới mà lý luận trước đó chưa có, mà là quá trình nhận thức lại lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công
tác tôn giáo, trên cơ sở đó bổ sung và làm phong phú thêm lý luận này cho
phù hợp với thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay. Đồng thời là kết quả của
8
việc khắc phục, loại bỏ những thiếu sót, nhận thức sai lầm trước đây trong
nhận thức và tổ chức thực hiện xung quanh vấn đề tôn giáo và công tác tôn
giáo, hoàn thiện những nhận thức đúng, bổ sung những luận điểm mới trước
đây chưa nhận thức đầy đủ về tôn giáo và công tác tôn giáo. Nhận thức mới
đó cũng là kết quả của quá trình nhận thức, vận dụng sâu sắc, đầy đủ hơn
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo; là kết quả của những tổng kết lý luận và những bài học kinh
nghiệm rút ra từ thực tiễn chỉ đạo, lãnh đạo công tác tôn giáo của Đảng ta
trong sự nghiệp đổi mới.
Sự tác động của biến đổi xã hội ở nước ta làm cho các tôn giáo đã và
đang tồn tại là một thực tế khách quan. Đảng ta đã xác định: Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng

dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các
tôn giáo là bộ phận cấu thành của khối đại đoàn kết dân tộc. Đây là nhu cầu
tinh thần phức tạp, tồn tại hiên thực và chính đáng trong một bộ phận quần
chúng nhân dân. Dù chúng ta muốn hay không muốn, có nhận thức được hay
chưa nhận thức được thì tín ngưỡng, tôn giáo vẫn đã, đang tồn tại như một
thực thể sinh động, và có khả năng tồn tại lâu dài cùng dân tộc trong suốt quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tôn trọng và đáp ứng nhu cầu này
là tôn trọng quyền con người, là tạo nên động lực của một bộ phận nhân dân
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Như vậy,
Đảng ta đã nhìn nhận tôn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của
một bộ phận quần chúng, nó hoàn toàn có thể đồng hành với chủ nghĩa xã hội.
Thoát khỏi cách nhìn siêu hình, định kiến trước đây về tôn giáo, coi tôn giáo
chỉ như một thứ độc dược tinh thần đối với con người; một di chứng còn rơi
rớt lại của xã hội cũ; một kết quả sai lầm của nhận thức con người; cái bị xem
như là mặt đối lập với chủ nghĩa xã hội, với khoa học, kỹ thuật hiện đại và
cần phải xoá bỏ; hoặc coi tôn giáo như là kẻ địch luôn chui vào đề chống phá
9
cách mạng. Chính những nhận thức định kiến này trong một thời gian dài đã
là bức trường thành ngăn cách mọi sự cảm thông giữa các lực lượng cách
mạng và các tôn giáo. Từ đó dẫn đến duy tâm chủ quan, duy ý chí, nóng vội,
giản đơn trong công tác tôn giáo. Những điều đó đã góp phần đẩy tôn giáo về
phía đối lập với ta trên nhiều phương diện, tạo cơ hội cho kẻ thù lôi kéo, lợi
dụng tôn giáo chống phá ta.
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, trước sự tác động của biến
đổi xã hội hiện nay, tôn giáo chứa đựng những nội dung đạo đức có tính nhân
văn. Đảng ta cũng chỉ rõ, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công
cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong các giáo lý tôn giáo
cũng đề cập trực tiếp đến nhiều vấn đề đạo đức cụ thể của cuộc sống thế tục
và ít nhiều mang giá trị có tính nhân văn có ích cho việc xây dựng nền đạo
đức mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Nếu lọc bỏ những nội

dung có sắc màu tôn giáo, nhiều chuẩn mực đạo đức tôn giáo sẽ là những quy
tắc ứng xử phù hợp giữa người với người. Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn
giáo là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng
con người đến chân – thiện – mỹ. Vì thế, Đảng ta luôn tôn trọng và phát huy
những mặt tích cực trong văn hoá, đạo đức tôn giáo, coi đó như một bộ phận
đóng góp vào nền văn hoá chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nghị
quyết số 24/NQ - TW của Bộ Chính trị khoá VI (1990), đã nhận định: “Đạo
đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”
1
.
Tiếp đến Chỉ thị 37- CT/TW của Bộ Chính trị (1998) bổ sung: “Những giá trị
văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát
huy”. Nghị quyết Trung ương lần thứ năm (khoá VIII, 1998) nói rõ hơn về
xây dựng “Chính sách văn hoá đối với tôn giáo. Khuyến khích ý tưởng công
bằng, bác ái, hướng thiện trong các tôn giáo”. Đến Đại hội X, Đảng ta khẳng
1
. Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Tài liệu nghiên cứu, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 46
10
nh rừ: Phỏt huy nhng giỏ tr vn hoỏ, o c tt p ca cỏc tụn giỏo
2
.
n i hi XI, ng ta khng nh nht quỏn: Tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngỡng, tôn giáo và không tín ngỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy
định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm
tự do tín ngỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân.
2
Ngh quyt Hi ngh ln th by Ban Chp hnh Trung ng khoỏ IX
ch rừ: Gi gỡn v phỏt huy truyn thng th cỳng t tiờn, tụn vinh v nh n

nhng ngi cú cụng vi T quc, dõn tc v nhõn dõn, tụn trng tớn ngng,
truyn thng ca ng bo cỏc dõn tc v ng bo cú o l c s vn hoỏ
tõm linh nhm tng cng s ng thun gia ngi cú o v ngi khụng
cú o, gia nhng ngi cú cỏc tớn ngng, tụn giỏo khỏc nhau
3
.
Vi vic b sung thờm yu t vn hoỏ tõm linh, phn ỏnh nhu cu tớn
ngng tn ti khỏ ph bin trong cỏc tng lp nhõn dõn, gn kt to s
ng thun trong xó hi, gim thiu nhng s khỏc bit gia ng bo cú o
v ng bo khụng cú o v gia ng bo cỏc tụn giỏo khỏc nhau, ng
thi to c s u tranh chng mờ tớn d oan, li dng tụn giỏo chia r
khi i on kt ton dõn tc lm tn hi n li ớch chung ca dõn tc, ó
chng t s nhn thc mi, ỳng n, sõu sc hn ca ng ta v vai trũ ca
tớn ngng i vi con ngi v xó hi Vit Nam. õy l mt phỏt hin mi,
ỏnh du bc trng thnh to ln ca ng ta trong quỏ trỡnh lónh o cụng
tỏc tụn giỏo; ng thi cú giỏ tr nh hng cho cỏc tụn giỏo ngoi nhp ng
hnh gn bú vi truyn thng vn hoỏ dõn tc.
1
. ng Cng sn Vit Nam, Vn kin i hi Đại biểu ton quc ln th IX, Nxb Chớnh tr Quc gia, H.
2001, tr.122
2
. ng Cng sn Vit Nam, Vn kin i hi Đại biểu ton quc ln th XI, Nxb Chớnh tr Quc gia, H.
2001, tr81
3
2 Cỏc Ngh quyt Hi ngh ln th By Ban chp hnh Trung ng ng khoỏ IX, Ti liu nghiờn cu, Nxb.
Chớnh tr quc gia, H Ni, 2003, tr. 52
11
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Đây là điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về công tác tôn giáo,
chính là việc khẳng định vai trò“cốt lõi” của công tác vận động quần chúng

trong công tác tôn giáo. Lần đầu tiên trong một nghị quyết của Đảng, công tác
tôn giáo - trước đây đã có lúc được coi chủ yếu là công tác đánh địch lợi dụng,
- nay được coi chủ yếu là công tác vận động quần chúng. Công tác tôn giáo bao
gồm nhiều hoạt động, thuộc nhiều lĩnh vực, song nổi lên 3 mặt hoạt động chính
là: quản lý nhà nước về tôn giáo, đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo và
công tác vận động quần chúng. Ba mặt hoạt động này có quan hệ ảnh hưởng,
bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Trong đó công tác vận động quần chúng phải là nội
dung cốt lõi, xuyên suốt, nền tảng chi phối các mặt công tác khác. Các mặt
công tác khác chỉ thành công khi biết dựa vào và làm tốt công tác vận động
quần chúng, cả quần chúng có đạo và quần chúng không có đạo. Khẳng định
nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, không
có nghĩa là đồng nhất công tác tôn giáo với công tác vận động quần chúng.
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh
đạo. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội, do đó, công tác tôn giáo không chỉ là trách nhiệm của
chính quyền, các cơ quan chức năng mà còn là trách nhiệm của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân, của toàn bộ hệ thống chính trị. Thực hiện có
hiệu quả chủ trương, chính sách và chương trình phát triển kinh tế - xã hội,
động viên mọi nguồn lực xã hội để phấn đấu nâng cao đời sống vật chất, văn
hoá của đồng bào các tôn giáo, là mục tiêu kinh tế - xã hội quan trọng của
Đảng ta, để giúp đồng bào các tôn giáo, bên cạnh niềm tin tôn giáo là niềm tin
có cơ sở thực tế vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
* Nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo vào
giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân Quân đội nhân dân Việt
Nam trước sự tác động của biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay.
12
Đây là quá trình các chủ thể tích cực chủ động trong việc nắm vững
và quán triệt nội dung, cải tiến phương pháp dưới sự chỉ đạo thống nhất
của Bộ Quốc phòng nhằm đưa những quan điểm mới của Đảng ta về tôn
giáo và công tác tôn giáo cho quân nhân trong quân đội. Nét đặc thù của

môi trường quân đội chính là sự gắn bó chặt chẽ giữa quân đội với Đảng
theo nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, thống nhất về mọi
mặt đối vối quân đội”, và “quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng”.
Đảng ta chủ trương xây dựng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành hệ tư tưởng thống trị trong quân đội. Vì thế mọi quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng phải được tuyên truyền, quán triệt
sâu sắc đến mọi cán bộ chiến sĩ trong quân đội.
Nó bắt nguồn từ từ yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho quân đội phải có sức mạnh
chiến đấu cao. Sức mạnh chiến đấu của quân đội là kết quả tổng hợp của
nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh
thần cảnh giác cách mạng, trung thành tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt khác, còn xuất phát từ tình hình ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng,
tôn giáo trong đời sống tinh thần quân nhân hiện nay. Vấn đề tôn giáo là
vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm. Điều kiện làm cho tín ngưỡng, tôn giáo
tác động vào đời sống vẫn còn. Kẻ thù đang lợi dụng tôn giáo để lôi kéo
những người nhẹ dạ, cả tin theo đạo bằng mọi hình thức. Nhà nước đã có
nghị quyết về công tác tôn giáo, tạo điều kiện cho tôn giáo, các giáo dân
thực hiện sống tốt đời, đẹp đạo, nhưng trên thực tế, một số chức sắc tôn
giáo vì lợi ích và tham vọng chính trị cá nhân đã đi ngược lại lợi ích của
giáo dân và dân tộc, tuyên truyền nhưng luận điệu xấu kích động quần
chúng cản trở sự nghiệp cách mạng. Mặt khác, do xu hướng tôn giáo hiện
nay, cộng với sự hoạt động của các tà giáo làm cho tình hình phức tạp hơn.
trong khi đó, một số cấp uỷ địa phương chưa quan tâm đúng mức tới vấn
13
đề tôn giáo, hoặc giải quyết vấn đề tôn giáo còn hạn chế đã làm cho xu
hướng tác động tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo vào đời sống tinh thần xã
hội tăng thêm.
Quân nhân hoạt động trong quan hệ xã hội không tránh khỏi sự tác
động của tín ngưỡng tôn giáo. Tuy sự tác động tiêu cực trong quân nhân là

không lớn, những ít nhiều đã làm hạn chế đời sống tinh thần quân nhân, làm
giảm hiệu quả công tác, học tập, rèn luyện. Những ảnh hưởng tiêu cực được
biểu hiện như mất đoàn kết, thiếu nhất trí về tư tưởng, hành động giữa người
theo tôn giáo với người không theo tôn giáo nào, giữa người có tín ngưỡng
với người không có tín ngưỡng; giữa quân nhân với nhân dân vùng có đạo.
Nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo vào giáo
dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân trong Quân đội nhân Việt
Nam trước sự tác động của biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay đang là nhu cầu
cấp thiết. Do thực hiện chức năng công tác, các cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn
phải trực tiếp làm công tác vận động quần chúng, cả quần chúng có đạo và
quần chúng không có đạo trên mọi địa bàn của đất nước. Do đó việc trang bị
hệ thống tri thức về tôn giáo, đặc biệt là cập nhật những quan điểm nhận thức
mới của Đảng ta về vấn đề này là rất cần thiết cho đội ngũ cán bộ các cấp của
quân đội. Nó giúp cho đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ ở các đơn vị cơ sở đứng
chân trên những địa bàn “nhạy cảm” và phức tạp về vấn đề tôn giáo, có được
những hiểu biết cần thiết, kịp thời về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước để áp dụng vào thực tế công tác.
II. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG TA VỀ
TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO VÀO GIÁO DỤC CHỦ NGHĨA
VÔ THẦN KHOA HỌC CHO QUÂN NHÂN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY.
14
1. Nội dung vận dụng nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và
công tác tôn giáo vào giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân
trong Quân đội nhân Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở những nội dung nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và
công tác tôn giáo, lãnh đạo chỉ huy các đơn vị cơ sở quân đội phải căn cứ
vào tình hình cụ thể của đơn vị mình mà cụ thể hoá các nội dung cần vận
dụng vào giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho cán bộ, chiến sĩ một
cách phù hợp. Cần tiếp cận đúng và làm rõ dưới góc độ của môn học những

nội dung nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo để
giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân có hiệu quả nhất.
Nội dung vận dụng nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo cần được
chọn lọc kỹ và đưa vào giáo dục trong các chủ đề có liên quan đến quan
điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Trong quá trình giáo
dục cần phải làm nổi bật cơ sở khoa học của nhận thức mới, có sự so sánh
đối chiếu với các quan điểm, nhận thức trước đây để thấy được bước tiến
trong nhận thức của Đảng ta, đồng thời phải làm rõ những khái quát, phát
hiện mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo trong tiến trình nhận thức cách
mạng Việt Nam.
Trong quá trình giáo dục cần làm rõ tính khách quan của nhu cầu về
tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận nhân dân. Từ đó trang bị cho quân
nhân những hiểu biết cần thiết và thái độ ứng xử phù hợp trước nhu cầu
chính đáng của một bộ phận quần chúng nhân dân, không mắc vào những
thành kiến hẹp hòi. Mặc dù có những khác biệt nhất định giữa đồng bào
các tôn giáo và đồng bào không có đạo song phải thấy rằng đồng bào các
tôn giáo cũng là “máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam”, đều là
“con rồng cháu tiên” của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Trong quá trình
vận dụng vào giáo dục các nội dung liên quan đến văn hoá, đạo đức của
các tôn giáo cần chỉ rõ và khai thác những giá trị trong văn hoá, đạo đức
15
các tôn giáo, nhất là các tôn giáo bản địa, phục vụ cho công cuộc xây
dựng xã hội mới ở nước ta.
Nội dung vận dụng nhận thức mới của Đảng ta về công tác tôn giáo
cần lý giải rõ để mọi quân nhân có thể thấu triệt các quan điểm mới của
Đảng ta. Làm cho họ thấy rằng đây không đơn thuần chỉ là những nhận
thức mới của Đảng về công tác tôn giáo, mà chính là và chủ yếu là các quan
điểm chỉ đạo mới của Đảng ta về vấn đề này. Những quan điểm chỉ đạo này
một mặt dựa vào lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mặt khác dựa
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà trực tiếp là thực tiễn lãnh đạo công tác

tôn giáo của Đảng ta, nên đã góp phần quyết định đường hướng giải quyết các
vấn đề tôn giáo đang đặt ra và nảy sinh trong quá trình tiến hành cách mạng ở
nước ta. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì thế công tác vận động
quần chúng là một công việc lớn. Mọi thành công hay thất bại của công tác vận
động quần chúng có liên quan trực tiếp đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng,
của công cuộc đổi mới đất nước. Hiện nay khi chúng ta nêu cao sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân tộc thì công tác vận động quần chúng càng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết.
Trong vận dụng giáo dục quan điểm mới của Đảng cần làm cho mọi
quân nhân thấy được trách nhiệm của quân đội và của mỗi quân nhân đối với
công tác tôn giáo. Với chức năng là đội quân sản xuất, đội quân công tác, quân
đội cần tích cực trong tham gia thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính
sách và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước ta nhằm
nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào các tôn giáo. Quan tâm hợp
lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng phải bằng cách làm thoả mãn một cách
thiết thực những khát vọng trần thế, trước hết là nhu cầu về đời sống sinh hoạt
vật chất và tinh thần của con người.
Từ những vấn đề trên có thể hiểu thực chất sự vận dụng nhận thức mới
của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo cho quân nhân trong Quân đội
16
nhân Việt Nam hiện nay là tổng hợp những cách thức, biện pháp được các chủ
thể các đơn vị trong quân đội áp dụng theo một cách sáng tạo nhằm hiện thực
hoá một cách có hiệu quả những nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và
công tác tôn giáo thành các yếu tố tham gia và quy định thực tiễn hoạt động
giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân trong quân đội hiện nay.
2. Một số biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả vận dụng nhận thức
mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo vào giáo dục chủ nghĩa vô
thần khoa học cho quân nhân Quân đội nhân Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của
các lực lượng đối với vận dụng nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và

công tác tôn giáo vào giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Nhận thức và đánh giá về tín ngưỡng và tôn giáo một cách đúng đắn
nhất, điều đó chỉ có thể dựa trên cơ sở nhận thức, quán triệt sâu sắc quan điểm
của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo. Vì đó là những quan điểm được
xây dựng trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh kết hợp với tình hình thực tiễn tôn giáo ở nước ta. Đó cũng là
những định hướng tư tưởng cho công tác giáo dục các nội dung liên quan đến
tôn giáo và công tác tôn giáo cho cán bộ chiến sĩ trong quân đội hiện nay.
Nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, phát huy vai trò trách nhiệm
của các lực lượng chỉ đạo, thực hiện vận dụng nhận thức mới của Đảng ta có ý
nghĩa quyết định hàng đầu chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục các nội dung
liên quan đến tôn giáo, công tác tôn giáo ở các đơn vị quân đội hiện nay. Vì vậy,
trong giáo dục cần phải có sự thông hiểu, phải trình bày cặn kẽ để tránh sự hiểu
lầm hoặc hiểu không chính xác của cấn bộ, chiến sĩ, để khi vận dụng quan điểm
của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo bảo đảm được sự thống nhất giữa
tính đảng và tính khoa học, có sức thuyết phục cao. Mặt khác, trong giáo dục
tính mục đích, tính tư tưởng phải được khẳng định như một nguyên tắc, phải
17
được quán triệt trong tất cả các nội dung, chương trình giáo dục. Bởi tư tưởng vô
thần khoa học là bộ phận cấu thành thế giới quan Mác - Lênin, cho nên thông
qua giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học phải nhằm đạt tới mục đích bồi dưỡng
thế giới quan duy vật biện chứng đặc biệt là quan điểm của Đảng, chính sách của
Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo tạo điều kiện cho mọi cán bộ chiến sĩ
có nhận thức đúng đắn đối với công tác vận động đồng bào có đạo trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục về chủ
nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân trong các đơn vị quân đội
Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục về chủ nghĩa
vô thần khoa học cho quân nhân cần bám sát thực tiễn sự vận động, phát

triển của tôn giáo và công tác tôn giáo. Hiện nay có nhiều vấn đề mới về
tôn giáo và công tác tôn giáo trên thế giới cũng như ở nước ta đòi hỏi
chúng ta phải đổi mới nhận thức cho phù hợp với thực tế đã biến đổi. Một
số nhận thức, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo đã
không còn phù hợp trước sự tự đổi mới và thích ứng của các tôn giáo và
yêu cầu của công tác tôn giáo trong điều kiện mở cửa hội nhập phát triển
kinh tế, văn hoá và khoa học hiện nay. Trong quá trình đổi mới cần bổ sung
hợp lý những vấn đề mới nảy sinh về tôn giáo và công tác tôn giáo vào nội
dung giáo dục. Đặc biệt phải làm rõ cơ sở khoa học của những nội dung
nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo trong giáo dục
chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân trong các đơn vị quân đội.
Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục chủ nghĩa vô
thần khoa học cho quân nhân trong các đơn vị quân đội trong thời kỳ mới
cần phát huy hơn nữa tích cực, chủ động của các chủ thể mà trước hết và
trực tiếp là cấp uỷ, chỉ huy các đơn vị; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp
thời, thống nhất trong toàn quân về vấn đề này; khắc phục những biểu hiện
sự thụ động, thiếu cập nhật thông tin mới phục vụ trong công tác giáo dục
18
của đội ngũ cán bộ giáo viên, khắc sự thiếu thốn, lạc hậu về nội dung của
hệ thống tài liệu, và phải tính đến sự hỗ trợ của trang thiết bị, công cụ và
phương tiện giáo dục.
Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục về chủ nghĩa vô
thần khoa học cho quân nhân phải bảo đảm đúng quan điểm của Đảng ta về
tôn giáo và công tác tôn giáo. Quan điểm của Đảng ta về tôn giáo và công tác
tôn giáo đã được kiểm chứng là đúng đắn trong thực tiễn giải quyết các quan
hệ đối nội và đối ngoại về tôn giáo qua các giai đoạn phát triển của cách mạng
nước ta. Quan điểm của Đảng ta về tôn giáo vừa biểu hiện sự đúng đắn trong
nhận thức khoa học bản chất của các vấn đề tôn giáo vừa bảo đảm thực tiễn
trong đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết các lực lượng tôn giáo trong một mặt
trận thống nhất của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nhận thức đúng đắn nguồn gốc, bản chất của tôn giáo, phân biệt sự
khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo, Đảng ta có chính sách thoả đáng bảo
đảm tự do tôn giáo đồng thời cũng nghiêm trị lợi dụng tôn giáo nhằm chống
lại Đảng, Nhà nước, chống lại sự nghiệp cách mạng của Đảng, phá vỡ cuộc
sống yên bình của nhân dân. Có quan điểm đúng về tôn giáo và giải quyết
thoả đáng các vấn đề tôn giáo phát sinh trong đời sống là cơ sở bảo đảm thắng
lợi trong đấu tranh chống lại các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề tôn giáo
và dân tộc hòng gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm suy giảm
niềm tin của nhân dân vào Đảng. Cần tiếp tục khẳng định tính đúng đắn khoa
học của các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta về tôn giáo và công
tác tôn giáo. Đồng thời cũng phải thẳng thắn thấy rõ những nhận thức chưa
đúng, chưa đầy đủ về một số vấn đề tôn giáo và việc giải quyết một số công
việc cụ thể về tôn giáo chưa thật khoa học và thuyết phục.
Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục về chủ nghĩa vô
thần khoa học cho quân nhân theo hướng cập nhật các quan điểm mới của
Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo. Trong đổi mới phải cập nhật chính
19
xác những nội dung bổ sung, phát triển mới của Đảng ta về tôn giáo, vận
dụng vào tình hình cụ thể của các đơn vị quân đội, để tránh phạm phải sai lầm
cũ, rơi vào bệnh kinh nghiệm, và máy móc, cứng nhắc.
Bổ sung những nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn
giáo là cơ sở thống nhất nhận thức, làm cho quan điểm đường lối của Đảng ta
đi vào cuốc sống. Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục về
chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân là phải vừa khắc phục những sai
lầm thiếu sót trong nhận thức các vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo vừa
phải nêu đầy đủ những luận điểm mới, những quan điểm mới của Đảng ta về
vấn đề này. Đặc biệt nôi dung đổi mới phải tích hợp đủ và luận giải cơ sở
khoa học và thực tiễn của các quan điểm mới của Đảng ta về tôn giáo và công
tác tôn giáo.
Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục về chủ nghĩa vô

thần khoa học cho quân nhân phải cập nhật những biến đổi mới của tôn giáo,
và kinh nghiệm trong giải quyết các vấn đề tôn giáo ở nước ta và trên thế
giới. Phải bảo đảm thông tin chuẩn xác nhận thức khoa học về nguồn gốc bản
chất của các tôn giáo; khẳng định thế giới quan vô thần khoa học trên nền
tảng các thành tựu khoa học hiện đại; đồng thời, có thái độ khoa học trước
những biểu hiện mới, những phát sinh của các tôn giáo trên thế giới, cũng như
có phương hướng phù hợp khắc phục sự ảnh hưởng của các hệ phái tôn giáo
mới ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, tích cực hoá vai trò đội ngũ cán bộ, giáo viên trong giáo dục
chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân.
Chất lượng vận dụng nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công
tác tôn giáo vào giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân trong
quân đội phụ thuộc vào những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Do
đó, cùng với hai giải pháp trên, việc tích cực hoá vai trò đội ngũ cán bộ giáo
viên trong giáo dục các nội dung về tôn giáo và công tác là một giải pháp đặc
20
biệt quan trọng. Bởi lẽ, đây là lực lượng chủ yếu hiện thực hoá nhận thức mới
của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo trong thực tiễn.
Để quá trình bồi dưỡng có hiệu quả, việc nâng cao tinh thần trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ giáo viên, thì sự quan tâm của các cấp uỷ đảng,
người chỉ huy các cấp là nội dung có ý nghĩa quyết định hàng đầu. Cấp uỷ,
người chỉ huy các cấp cần phải xác định vận dụng nhận thức mới của Đảng ta
về tôn giáo và công tác tôn giáo vào giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho
quân nhân, phải trở thành vấn đề có vị trí xứng đáng trong các nghị quyết lãnh
đạo của đơn vị. Nội dung này phải được quán triệt thường xuyên, liên tục. Bởi
vì, nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo thường xuyên
được bổ sung, hoàn thiện cùng với sự phát triển tiến trình nhận thức của tình
hình thực tiễn.
Hơn nữa, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, để
quân nhân có nhiều cơ hội nắm bắt thông tin, nếu không quán triệt thường

xuyên, liên tục thì nội dung giáo dục sẽ trở nên lạc hậu, thiếu sức thuyết phục.
Do đó, chỉ có thông qua quán triệt thường xuyên, liên tục mới có khả năng
kích thích tính tích cực của đội ngũ cán bộ giáo viên trong nghiên cứu, phát
hiện nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo đáp ứng kịp
thời trong giáo dục. Để hiện thực hoá vấn đề này đòi hỏi: lãnh đạo, chỉ huy
các cấp cần phân công cụ thể cán bộ chịu trách nhiệm chỉ đạo nội dung này.
Sự tham gia của cán bộ có tính chuyên trách là điều kiện cơ bản tạo ra sự
thống nhất từ trên xuống dưới. Đây là yêu cầu hết sức quan trọng, một mặt,
khắc phục được “tình trạng một số cấp uỷ, cơ quan, một số cán bộ, đảng viên
chưa thống nhất về quan điểm, chủ trương, còn lúng túng trong giải quyết
nhiều vấn đề liên quan đến tôn giáo, vì vậy khi tổ chức thực hiện còn lúng
túng chưa thống nhất, chưa sát hợp”
1
.
1
. Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Tài liệu nghiên cứu, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 58
21
Tính chủ động, sáng tạo trong nghiên cứu và giảng dạy của đội ngũ cán
bộ, giáo viên là khả năng phản ánh, tiếp thu, lĩnh hội một cách nhanh, nhạy,
đầy đủ, đúng đắn nội dung nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác
tôn giáo. Chất lượng, hiệu quả của quá trình đó được biểu hiện ở từng nấc
thang về trình độ, khả năng quán triệt các nội dung nhận thức mới của Đảng
ta về tôn giáo và công tác tôn giáo, chuyển hoá thành hệ thống kiến thức nền
tảng, những yếu tố bền vững của đội ngũ cán bộ, giáo viên, làm công cụ,
phương tiện để họ phát triển năng lực tư duy độc lập, sáng tạo trong thực
hành tuyên truyền, giáo dục.
Trên cơ sở kiến thức và năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, đội ngũ cán
bộ, giáo viên có khả năng tiếp thu những nhận thức mới của Đảng ta về tôn
giáo và công tác tôn giáo từ nhiều nguồn thông tin khác nhau. Bằng các thao

tác tư duy lôgíc như: phân tích - tổng hợp; diễn dịch - quy nạp; phán đoán - suy
luận, khái quát hoá, trừu tượng hoá, đội ngũ cán bộ, giáo viên có khả năng chỉ
ra được thực chất của nhận thức mới, làm cho họ thấm nhuần ngày càng sâu
sắc các quan điểm, chính sách của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo.
Tính tích cực, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, giáo viên còn được biểu hiện
ở tự chủ động bồi dưỡng, nâng cao phương pháp tư duy khoa học. Nhận thức
mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo là một vấn đề mới, một đối
tượng nhận thức đặc biệt hệ thống quan điểm lý luận khoa học, gắn với thực
tiễn sinh động. Vì thế, nhận thức những quan điểm mới của Đảng ta về tôn giáo
và công tác tôn giáo cần thiết phải có phương pháp nhận thức khoa học. Một
mặt, đội ngũ cán bộ, giáo viên đội ngũ cán bộ, giáo viên phải chủ động nghiên
cứu các nghị quyết của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo để tìm ra quan
điểm mới, từ đó mới có cơ sở để vận dụng vào quá trình giáo dục. Mặt khác,
phải tích cực bồi dưỡng phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo trong vận dụng
thực tiễn. Bởi lẽ, giữa năng lực nhận thức và năng lực vận dụng của đội ngũ
cán bộ, giáo viên còn có khoảng cách nhất định. Để rút ngắn khoảng cách đó,
22
đồng thời với việc nâng cao năng lực quán triệt những quan điểm nhận thức
mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo cần chú trọng bồi dưỡng,
nâng cao năng lực vận dụng những nhận thức mới đó vào thực tiễn giáo dục.
Đây là khâu quan trọng, quyết định trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả quá trình
hiện thực hoá nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo trong
giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân.
Tự giáo dục, tự học tập, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, giáo viên là quá
trình chủ động, tự giác hướng vào bản thân mình, thông qua tự nghiên cứu
tìm tòi, phân tích, so sánh phát hiện nội dung nhận thức mới của Đảng ta về
tôn giáo và công tác tôn giáo. Đó là quá trình người cán bộ, giáo viên lấy
chính mình làm đối tượng giáo dục, là quá trình hướng nội nhằm làm biến đổi
nhận thức, tâm lý, tình cảm, ý chí của bản thân. Trong quá trình ấy, người cán
bộ, giáo viên vừa là chủ thể giáo dục, vừa là đối tượng giáo dục. Họ là người

tích cực, chủ động đề ra kế hoạch, nội dung, chương trình, mục tiêu, phương
hướng, biện pháp tự giáo dục, đồng thời là người thực hiện kế hoạch, nội
dung, chương trình đó.
Yêu cầu của tự giáo dục, tự học tập, tự rèn luyện của người cán bộ, giáo viên
là phải làm chuyển hoá nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo
thành hệ thống nhu cầu, động cơ, mục đích hoàn thiện tri thức cho chính bản thân
họ, phục vụ quá trình giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân. Việc tự
giáo dục, tự học tập, tự rèn luyện của họ vẫn chưa thể chấm dứt. Với ý nghĩa đó, để
hiểu sâu sắc, thấm nhuần bản chất khoa học, cách mạng nhận thức mới của Đảng ta
về tôn giáo và công tác tôn giáo, đội ngũ cán bộ, giáo viên phải tiếp tục học tập suốt
đời, liên hệ, vận dụng trong thực tiễn giáo dục. Bởi lẽ, thực tiễn tôn giáo và công tác
tôn giáo luôn vận động, phát triển và đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi Đảng ta th-
ường xuyên đổi mới nhận thức và có biện pháp lãnh đạo cho phù hợp.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên không biết tiếp tục tự làm giàu trí tuệ của
mình thông qua tự học tập, tự giáo dục, tự rèn luyện nâng cao trình độ tiếp thu
23
nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo thì không thể vận
dụng đúng đắn, sáng tạo được. Vì vậy, để không ngừng nâng cao trình độ và
hiệu quả vận dụng nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn
giáo, đội ngũ cán bộ, giáo viên cần tích cực chủ động trong tự giáo dục, tự
học tập, tự rèn luyện biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục.
Đầu tư kinh phí, tài liệu, phương tiện cho vận dụng nhận thức mới của
Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo vào giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa
học cho quân nhân. Tài liệu, phương tiện phục vụ cho hoạt động giáo dục của
đội ngũ cán bộ, giáo viên có vai trò vô cùng quan trọng, góp phần làm tăng
hiệu suất, hiệu quả giáo dục. Nhờ tài liệu, phương tiện mà lực lượng nghiên
cứu, giáo dục chuyên trách có điều kiện nâng cao chất lượng, hiệu quả quá
trình giáo dục bảo đảm sinh động, hấp dẫn hơn. Mặt khác, có đầy đủ tài liệu,
đặc biệt là phương tiện kỹ thuật hiện đại sẽ góp phần phát triển, hoàn thiện
phong cách tư duy, phương pháp làm việc của đội ngũ cán bộ, giáo viên. Có

chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên. Để thực hiện
tốt nội dung này, lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cần có kế hoạch bố trí, sử dụng
đội ngũ cán bộ, giáo viên một cách hợp lý.
Ngoài ra, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần quan tâm thông tin kịp thời về
tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo cho đội ngũ cán bộ, giáo viên. Thông
tin về tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo rất đa dạng, ở các cấp độ khác
nhau. Những thông tin tôn giáo và công tác tôn giáo được cung cấp từ trên
xuống dưới những hình thức khác nhau, có ý nghĩa rất lớn đối với nghiên cứu,
giáo dục. Cán bộ, giáo viên đặc biệt bộ phận chuyên trách, chuyên gia cần
nắm vững và xử lý nghiêm túc thông tin nhận thức mới của Đảng ta về tôn
giáo và công tác tôn giáo.
Tóm lại, những giải pháp trên vừa thể hiện tính toàn diện, vừa có tính
chuyên sâu trong tính đồng bộ thống nhất không tách rời, phản ánh tính khả
thi trong vận dụng nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn
24
giáo vào giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cho quân nhân Quân đội nhân
dân Việt Nam trước sự biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
Nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo trước sự
biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay là rất sâu sắc và phong phú, thể hiện sự
đổi mới tư duy của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Về thực chất, đây là quá trình Đảng ta nhận
thức lại lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
và công tác tôn giáo, trên cơ sở đó bổ sung và làm phong phú thêm lý luận
này cho phù hợp với thực tiễn đổi mới ở nước ta trước sự tác động ảnh hưởng
của sự biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay . Những nhận thức mới này vừa góp
phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, vừa góp phần bổ sung, phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo hiện nay. Với
Quân đội ta là đội quân công tác, là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy

của Đảng, việc quán triệt, vận dụng những quan điểm, nhận thức mới của
Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo vào giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa
học cho quân nhân trước sự biến đổi xã hội ở nước ta hiện nay càng có ý
nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cho quân đội ta thực hiện tốt chức năng của mình
là đội quân công tác trên mặt trận tư tưởng lý luận, hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước giao cho.
25

×