Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

PHÂN TÍCH ưu NHƯỢC điểm của các NGUỒN vốn có THỂ tài TRỢ CHO dự án PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.03 KB, 18 trang )

1
PHÂN TÍCH ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁC NGUỒN VỐN CÓ THỂ TÀI TRỢ CHO DỰ ÁN PHÁT
TRIỂN
(trừ nguồn từ ngân hàng phát triển)
Những vấn đề chung về nguồn tài trợ DAPT
Nguồn tài trợ DAPT và vai trò của nguồn tài trợ DAPT
DAPT là những dự án lớn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia. DAPT nhằm tới
hai mục tiêu là hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội.
Một DAPT phải trải qua chu trình của nó với 3 giai đoạn chính, từ giai đoạn chuẩn bị và phê duyệt dự án;
đến giai đoạn đầu tư và đi vào vận hành quản lý, khai thác. Ngay từ khi dự án còn nằm trên những trang
giấy, những nhà hoạch định dự án không chỉ quan tâm đến đầu ra mà còn đặt nhiều mối quan tâm ngay từ
đầu vào cho dự án. Yếu tố đầu vào quan trọng nhất của DAPT chính là nguồn vốn tài trợ.
Nguồn vốn tài trợ cho dự án hay lượng tư bản đóng góp vào để hình thành nên dự án nó đóng vai trò sống
còn cho 1 DAPT, quyết định sự tồn tại của dự án và ảnh hưởng lớn tới tiến trình hoàn thành dự án.
Vì vậy, việc thiết kế nguồn tài trợ hợp lý sẽ tạo ra được phương án huy động vốn tối ưu cho DAPT cũng như
để thực hiện dự án thành công.
Đặc điểm nguồn tài trợ cho DAPT
Do bản thân DAPT mang những đặc trưng riêng biệt nên nó cũng đòi hỏi nguồn tài trợ có những yêu cầu
phù hợp.
Thứ nhất, DAPT thực hiện chiến lược phát triển tầm cỡ quốc gia, do đó, qui mô của 1 DAPT rất lớn. Vì vậy,
nguồn tài trợ cho DAPT thường gồm nhiều nguồn khác nhau (hay còn được gọi là đồng tài trợ), để đảm bảo
tập trung vốn với khối lượng lớn trong thời gian ngắn.
Thứ hai, thời gian thực hiện DAPT thường kéo dài, dấn đến, vốn tài trợ cho DAPT được coi như là nguồn
vốn trung và dài hạn. Vì thế, nguồn tài trợ cho DAPT cũng phải là nguồn vốn trung và dài hạn, để đảm bảo
thời gian hoàn trả vốn cho nhà đầu tư.
Thứ ba, DAPT thường đặt lợi ích xã hội lên trên lợi ích kinh tế. Trong khi đó nguồn tài trợ cho DAPT không
chỉ có mỗi nguồn từ vốn chủ sở hữu mà còn có nguồn vốn vay. Thậm chí, cơ cấu nguồn vốn vay chiếm phần
nhiều. Việc trả lãi vay được rút ra từ lợi nhuận thu được từ dự án. Vì thế, những DAPT phục vụ lợi ích xã
hội không hướng đến mục tiêu lợi nhuận đòi hỏi nguồn tài trợ với lãi suất thấp, lãi suất ưu đãi.
Thứ tư, với những đặc điểm trên, nên ta thường thấy vốn tài trợ cho DAPT thường đến từ các tổ chức tài
chính có tiềm lực lớn, các tổ chức tài chính nước ngoài hay của chính phủ trong và ngoài nước.


Các cách huy động nguồn tài trợ cho DAPT
Trên giác độ tài chính doanh nghiệp, nguồn tài trợ bao gồm nguồn vốn nợ và nguồn vốn chủ sở hữu. Theo
đó, các cách huy động chủ yếu:
Sử dụng 100% vốn chủ
Sử dụng 100% vốn vay
Sử dụng kết hợp cả vốn chủ và vốn vay
Nhưng với những đặc điểm yêu cầu đối với nguồn tài trợ DAPT đã phân tích ở trên, ta thấy, việc sử dụng
100% vốn chủ thường khó đạt được do hạn chế về năng lực tài chính trước đòi hỏi về qui mô của DA. Do
đó, trên thực tế, các DAPT thường có sự góp mặt của vốn vay.
Nếu trên tiêu thức về đối tượng tài trợ DAPT thì nguồn tài trợ DAPT gồm có:
Nguồn ngân sách nhà nước (NSNN)
Vay Ngân hàng thương mại
Nguồn tài trợ phát triển từ các chính phủ và tổ chức nước ngoài.
Vay từ các nguồn khác
Dưới đây, nhóm sẽ đi sâu vào phân tích đặc điểm của các nguồn tài trợ DAPT theo cách tiếp cận thứ hai này.
NSNN NHTM CPNN & Nguồn khác
TC TCQT
Hình thức tài
trợ
thặng dư
NSNN
Phát hành
TPCP
- Cho vay trung – dài
hạn
- các chương
trình hỗ trợ phát
triển
- Vốn đầu tư trực
tiếp hoặc gián

tiếp
Người hưởng lợi
đóng góp
DA ưu tiên
DA sinh lời
thấp, rủi ro cao
hoặc DA k có
khả năng hoàn
trả
DA có hiệu quả kinh
tế, RR thấp
DAPT CSHT,
môi trường,
CBXH tại các
quốc gia đang
phát triển,
Qui mô vốn
tài trợ
Hạn chế trong
kế hoạch thu –
chi NS của NN
Nhỏ, 1 phần của DA,
tùy thuộc khả năng
chịu rr của NH
Lớn, qui đổi theo
tỷ giá.
Tùy thuộc vào
chính sách tài trợ
của TCQT.
Lãi suất

0% Tinh theo thị trường Không tính ls
hoặc lãi suất ưu
đãi
Thời gian
hoàn vốn
Dài Không dài Dài, được ân hạn
Chủ dự án đứng trước những sự lựa chọn này, cần phải đưa ra những quyết định:
DAPT cần bao nhiêu vốn?
Vốn được huy động từ những nguồn nào?
Sử dụng nguồn vốn đó ntn để hiệu quả?
Mức độ ưu tiên sử dụng vốn theo đó thường được các chủ dự án cân nhắc giữa lợi ích và chi phí theo tiêu
chí tối đa lợi ích và giảm thiểu chi phí.
Các nguồn tài trợ cho DAPT
Nguồn Ngân sách nhà nước (NSNN)
NSNN là một nguồn quan trọng đối với DAPT, nhất là đối với những DAPT tầm cỡ quốc gia
và liên quan đến lợi ích xã hội.
Theo Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua 16/12/2002 định nghĩa: NSNN là
toàn bộ các khoản thu chi của NN trong dự toán đã được cơ quan NN có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ của NN.
2.1.1. Vai trò
- Vai trò huy động các nguồn Tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước .
- Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát.
- Ngân sách Nhà nước là công cụ định huớng phát triển sản xuất.
- Ngân sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư .
Các vai trò trên của Ngân sách nhà nước cho thấy tính chất quan trọng của Ngân sách nhà nước, với các
công cụ của nó có thể quản lý toàn diện và có hiệu quả đối với toàn bộ nền kinh tế.
2.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
2
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của nhà nước, và
việc thực hiện các chức năng của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định;

Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại các nguồn tài chính, nó thể hiện ở hai lãnh vực thu
và chi của nhà nước;
Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công
cộng;
Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét khác biệt của ngân sách nhà
nước với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng
riêng, sau đó mới được chi dùng cho những mục đích đã định;
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ
yếu.
2.1.3. Vốn NSNN tài trợ cho DAPT
Việc tài trợ cho DAPT là 1 khoản chi của NSNN. Việc cấp vốn cho DAPT, Nhà nước đã thể hiện vai trờ của
mình là người thiết kế và tạo động lực cho quá trình phát triển kinh tế.
Vốn Ngân sách cho đầu tư sẽ được ưu tiên cho những dự án không có khả năng hoàn trả (giao thông miền
núi, thủy lợi, trồng rừng phòng hộ…) hoặc có khả năng hoàn trả song mức sinh lời thấp, rủi ro cao, thời gian
hoàn vốn dài.
Nguồn ngân sách cho Dự án phát triển gồm:
Thặng dư NS (Thu Ngân sách > chi)
Trái phiếu chính phủ: sử dụng trong trường hợp khả năng tài trợ của NSNN bị hạn chế.
Thặng dư NS (Thu NS > Chi):
Thu ngân sách nhà nước: Thu Ngân sách nhà nước phản ảnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình
nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để phân phối các nguồn tài chính của xã hội dưới hình thức giá trị
nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Như vậy, thu ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các
khoản tiền được tập trung vào tay nhà nước để hình thành quỹ ngân sách nhà nước đáp ứng cho các nhu cầu
chi tiêu của nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước bao gồm:
Thu trong cân đối ngân sách : bao gồm các khoản thu mang tính chất Thuế (Thuế, Phí, Lệ phí)và thu từ hoạt
động kinh tế của nhà nước
Thu bù đắp thiếu hụt của ngân sách: Trong quá trình điều hành ngân sách, các chính phủ thường có nhu cầu
chi nhiều hơn số tiền thu được và việc cắt giảm các khoản chi rất là khó khăn vì liên quan đến các hoạt động
y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội Do đó, bắt buộc chính phủ phải tính tới các giải pháp để bù đắp sự thâm

hụt của ngân sách nhà nước. Giải pháp thường được chính phủ sử dụng là vay thêm tiền để đáp ứng nhu cầu
chi tiêu, bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài:
Chi ngân sách nhà nước: Chi ngân sách là một công cụ của chính sách tài chính quốc gia có tác động rất lớn
đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đó là việc phân phối, sử dụng nguồn Thu ngân sách vào các khoản chi
tiêu khác nhau nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu của Nhà nước.
- Chi đầu tư phát triển: là những khoản chi mang tính chất tích lũy phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở
rộng gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu
tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế. (như chi mua sắm
máy móc, thiết bị và dụng cụ, chi cho xây dựng mới và tu bổ đường, trường, công sở, kiến thiết đô thị, chi
cho thành lập các DNNN )
- Chi thường xuyên: Bao gồm các khoản chi cho tiêu dùng xã hội gắn liền với chức năng quản lý xã hội của
nhà nước, khoản chi này được phân thành hai bộ phận: một bộ phận vốn được sử dụng để đáp ứng nhu cầu
của dân cư về phát triển văn hóa xã hội, nó có mối quan hệ trực tiếp đến thu nhập và nâng cao mức sống của
dân cư và một bộ phận phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của nhà nước.
Chi tiêu dùng thường xuyên bao gồm các khoản chi sau đây:
Chi quản lý hành chính
3
Chi văn hóa, giáo dục, y tế
Chi quốc phòng
Chi trợ cấp
Nhu cầu chi thường xuyên thường rất cấp bách tại các nước nghèo.Do vậy Khoản thặng dư (được hiểu là
chi cho đầu tư phát triển) sẽ được ưu tiên dành cho các dự án không có khả năng hoàn trả
Chi khác: là những khoản chi như chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do chính phủ vay, chi viện trợ của
ngân sách trung ương cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài, chi cho vay của Ngân sách trung ương,…
Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu: Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải
trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng
thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu do bộ tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho NSNN hoặc huy
động vốn cho chương trình, dự án đầu tư cụ thể thuộc phạm vi đầu tư của nhà nước. Chính phủ phải trả gôc

và lãi trong thời gian xác định.
Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh
khoản cao. (Do có nguồn ngân sách Nhà nước đảm bảo). Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ
được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
Để mở rộng chi đầu tư phát triển, các loại trái phiếu được phát hành chủ yếu là trung và dài hạn, gồm có:
+ Trái phiếu kho bạc: Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ một (01) năm trở lên và
đồng tiền phát hành là đồng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi.
+ Công trái xây dựng tổ quốc: Công trái xây dựng Tổ quốc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ một
(01) năm trở lên, đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam và được phát hành nhằm huy động nguồn vốn để
đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời
sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước.
2.1.4. Ưu – Nhược điểm nguồn NSNN
Đối với nguồn thặng dư ngân sách
A.Ưu điểm:
Đối với nguồn vốn do ngân sách cấp, ưu điểm của nó là vốn ngân sách được sử dụng lâu dài, không phải trả
lãi hoặc có nhưng rất thấp (Các DN sẽ không phải chịu áp lưc trả lãi)
Việc sử dụng nguồn từ NSNN tránh được các điều kiện ràng buộc đối với Nhà nước so với trường hợp sử
dụng nguồn vốn vay.
Vốn ngân sách được ưu tiên cho đầu tư vào những dự án không có khả năng hoàn trả hoặc có khả năng hoàn
trả nhưng mức sinh lời thấp, rủi ro cao, thời gian hoàn vốn dài hay các dự án chú trọng vào việc mang lại các
ích lợi cho xã hội hơn là lợi nhuận của nhà đầu tư. Với đặc điểm như vậy của dự án, sẽ rất khó để chủ dự án
có thể huy động được các nguồn vốn khác từ bên ngoài, do nhà đầu tư thường quan tâm tới lợi ích cá nhân
thu được từ dự án hơn là các lợi ích mang lại cho toàn xã hội.
B.Nhược điểm:
1, Nguồn tài trợ ngân sách có hạn
Đối với các nước đang phát triển, thu ngân sách nhỏ mà nhu cầu chi tiêu lớn, do đó tình trạng phổ biến
thường là bội chi ngân sách .
Bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả đối
với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát
triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao thông,

điện, nước Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội
chi ngân sách.
Ví dụ: Theo thống kê bộ tài chính tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 520.100 tỷ đồng, tăng 12,7% so với
dự toán (chủ yếu do tăng thu nội địa và tăng thu từ xuất nhập khẩu). Tổng chi cân đối ngân sách Nhà nước
năm 2010 ước đạt khoảng 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển
khoảng 145.000 tỷ đồng (không bao gồm phần thực hiện từ chuyển nguồn năm trước sang và ứng trước ngân
4
sách Nhà nước các năm sau), tăng 15,5% so với kế hoạch năm. Bội chi ngân sách Nhà nước: dự kiến sử
dụng một phần tăng thu ngân sách Trung ương để giảm bội chi ngân sách Nhà nước năm 2010, mức bội chi
ước đạt khoảng 5,95% GDP, giảm 0,25% GDP so với kế hoạch đã đề ra. Dư nợ Chính phủ đến ngày
31/12/2010 bằng 44,5% GDP, dư nợ công bằng 56,7% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 42,2%
GDP, nằm trong giới hạn an toàn cho phép.
2, Hiệu quả sử dụng vốn thấp
-Chất lượng nhiều công trình từ nguồn ngân sách Nhà nước không đảm bảo chất lượng, nhanh chóng
xuống cấp.
Ví dụ: 31/3/2010: Dự án Sửa chữa mặt cầu Thăng Long (Hà Nội) do Ban Quản lý dự án 2, Cục Đường bộ
Việt Nam làm chủ đầu tư, với tổng kinh phí gần 100 tỷ đồng. Nhưng chỉ sau một tháng đưa vào sử dụng, mặt
cầu đã xuất hiện nhiều vết nứt, lún.
Dự án Sửa chữa mặt cầu Thăng Long do Ban Quản lý dự án 2, thuộc Cục Đường bộ Việt Nam làm chủ đầu
tư. Đơn vị thiết kế, và giám sát thi công là Viện Khoa học công nghệ (Bộ Giao thông Vận tải). Công ty Cổ
phần đầu tư và xây dựng Bảo Quân là đơn vị thi công. Công trình này đã sử dụng loại bê tông nhựa SMA, là
loại vật liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế và được nhiều nước trên thế giới sử dụng cho các công trình mặt cầu thép
có tuổi thọ công trình nhiều năm. Nhưng với dự án sửa chữa mặt cầu Thăng Long, mới chỉ sau hơn một
tháng đưa vào sử dụng đã phát hiện các vết nứt có chiều rộng từ 3- 5cm, chiều dài từ 2- 4 mét.
Không chỉ riêng dự án này, trong thời gian gần đây không ít các công trình cầu, đường mới hoàn thành đã
xuống cấp nghiêm trọng. Xin lấy ví dụ: Cầu Khe Dầu ở huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình được bàn giao
đưa vào sử dụng vào cuối năm 2008. Thế nhưng, hiện nay mố cầu bị sạt lở. Nghiêm trọng hơn, lớp bê tông
phía trong mặt cầu không được sử dụng vật liệu xi măng cốt thép mà được bên thi công thay thế bằng cốt tre
và cót ép. Như vậy sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an toàn đi lại của nhân dân. Cũng bằng hình thức thi
công gian dối này, trước đó là vụ Ban Quản lý dự án PMU 18 mà chủ đầu tư là Bộ Giao thông Vận tải lại sử

dụng bê tông cốt tre để làm cọc tiêu trên quốc lộ 18.v.v…
-Các công trình, dự án có nguồn vốn NS thường lãng phí và thất thoát lớn vì tình trạng “cha chung
không ai khóc”.  Điều này thể hiện trên nhiều bình diện: lãng phí vì đầu tư sai mục đích, không đạt mục
tiêu, bố trí vốn dàn trải, phân tán, thiếu tập trung,… Có thể nói, những hạn chế trong việc lập, thẩm định và
phê duyệt dự án chính là thủ phạm gây thất thoát của công.
Ví dụ : Có những dự án phải thay đổi tổng mức đầu tư, tổng dự toán nhiều lần và có dự án quyết định đầu tư
nhưng không có tiền để triển khai, quá thời gian quy định lại phải lập lại dự án; rồi lựa chọn địa điểm xây
dựng không phù hợp, phải dừng cả dự án.
Chẳng hạn, Dự án xử lý nước thải KCN Vĩnh Niệm - Hải Phòng vốn đã cấp phát 3 tỷ đồng và Dự án xử lý
nước thải khu du lịch Vịnh Tùng Dinh - Cát Bà - Hải Phòng 23,52 tỷ đồng, hoàn thành rồi không hoạt động.
Hay hạng mục vườn ươm Thanh Táo, Công trình tuyến tránh Hà Nội - Cầu Giẽ đầu tư 1,2 tỷ đồng đến nay
bỏ hoang
Ngoài ra, tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún chậm được khắc phục, dẫn đến nhu cầu vốn cho các dự án
vượt quá khả năng ngân sách. Điều này dẫn đến tình trạng có dự án phải kéo dài gần 20 năm. Điển hình là
Dự án đầu tư xây dựng trường Đại học Hàng Hải triển khai từ năm 1981 đến nay chưa xong do không bố trí
đủ vốn.
Nợ đọng XDCB ở nhiều dự án đầu tư thuộc nguồn NSNN còn lớn.
Tình trạng tài trợ vốn không đúng chỗ
Kế hoạch xây dựng đài tưởng niệm Mẹ Việt Nam anh hùng gây bức xúc công luận khi kinh phí loan
báo hôm nay tăng cao gấp 5 lần so với mức dự tính ban đầu, theo tin hãng thông tấn Đức DPA ngày 22/9.
Dự án gồm việc xây dựng một công viên làm nơi tọa lạc cho tượng đài vinh danh các bà mẹ Việt Nam đã hy
sinh chồng, con trong các cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tượng được xây tại khu vực núi Cấm, thành
phố Tam Kỳ, Quảng Nam, trên khuôn viên có tổng diện tích hơn 15 hecta. Việt Nam cho biết đây sẽ là
tượng đài lớn nhất nước và lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Khi dự án khởi công hồi năm 2007, kinh phí
5
được nói là 3,9 triệu đô la. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam hôm nay cho hay số tiền này dự trù lên tới 19,7
triệu Mỹ kim vì giá nguyên vật liệu tăng cao. Những người chỉ trích dự án cho rằng đáng xấu hổ khi xây
dựng một công trình vinh danh tốn kém hàng chục triệu đô la trong lúc nhiều bà mẹ anh hùng đang chịu
cảnh neo đơn, nghèo túng, dù đã có nhiều cống hiến hy sinh cho đất nước. Thay vào đó, họ đề nghị nên dùng
khoản tiền đó để chăm sóc, hỗ trợ cho chính các bà mẹ anh hùng đang còn sống. Hiện có khoảng 44.000

người được tôn vinh là mẹ Việt Nam anh hùng, đa số đều già yếu và nghèo khó.
3,Tình trạng giải ngân các dự án có nguồn vốn NS còn chậm
Hàng năm, nhà nước dành một nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Tổng nguồn vốn này của nhà nước
chiếm khoảng 50% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, trong đó vốn từ NSNN và trái phiếu Chính phủ
khoảng 23%. Tuy nhiên, công tác giải ngân rất đáng phải bàn.
Có một nghịch lý hiện nay trong lĩnh vực đầu tư DAPT thuộc nguồn vốn nhà nước: Một mặt, nhiều dự án
không có vốn thanh toán, vẫn triển khai thực hiện, dẫn đến nợ lớn; mặt khác, có nhiều dự án đã được bố trí
vốn, nhưng lại giải ngân chậm, thậm chí rất chậm, dẫn đến ứ đọng vốn. Giải ngân chậm gây lãng phí lớn về
nhiều mặt, không chỉ cho NSNN, mà còn cho cả nền kinh tế-xã hội và trực tiếp là ảnh hưởng đến tình hình
tài chính của các nhà thầu.
Nguyên nhân của tình trạng giải ngân chậm đã được đề cập nhiều và nằm ở tất cả các khâu của quy trình đầu
tư, song theo chúng tôi, có mấy nguyên nhân cơ bản sau đây:
Một là do công tác chuẩn bị đầu tư chậm. Tình trạng chung hiện nay là vốn chờ thủ tục. Các cơ quan không
chủ động chuẩn bị sẵn sàng thủ tục đầu tư cho dự án để khi có vốn là triển khai được ngay, ngược lại, chỉ
chờ đợi đến khi đã chắc chắn được bố trí vốn mới vội vã đi làm thủ tục. Trong khi đó, thủ tục đầu tư XDCB
là rất phức tạp, tốn rất nhiều thời gian. Do làm gấp nên các thủ tục thường gặp nhiều sai sót, dẫn đến phải
làm lại hoặc điều chỉnh lại, vừa tốn thời gian, vừa làm tăng dự toán lên cao, thậm chí rất cao (có dự án do
khảo sát không kỹ, khi thi công mới phát hiện sai sót, phải khảo sát lại, lập phương án xử lý sự cố và điều
chỉnh tăng dự toán).
Hai là do giải phóng mặt bằng chậm
Tình trạng dự án không triển khai được do không giải phóng được mặt bằng đang trở nên phổ biến, tồn tại đã
nhiều năm, gây thiệt hại rất lớn cho cả nhà nước, nhà đầu tư và người dân. Nguyên nhân của tình trạng này
rất đa dạng, nhiều khi mang tính đặc thù của từng dự án. Tuy nhiên, nguyên nhân thường gặp nhất là chính
sách đền bù chưa phù hợp; người dân đòi hỏi quá cao; công tác tuyên truyền giáo dục chưa được coi trọng…
Ba là tổ chức thi công chậm
Tình trạng chung nổi lên gần đây là do tốc độ tăng vốn đầu tư nhanh, nên lực lượng thi công không đáp ứng
kịp, nhất là lực lượng công nhân có tay nghề cao. Bên cạnh đó, đã xuất hiện tình trạng nhà thầu không đủ
năng lực, hoặc tuy có năng lực nhất định, nhưng lại nhận quá nhiều công trình, phải rải lực lượng để giữ
chân công trình, nên không thể tập trung thi công dứt điểm.
Bốn là do nghiêm thu, thanh toán chậm

Năm là do công tác chỉ đạo, điều hành của cơ quan chủ quan đầu tư (các bộ, địa phương) chưa sát sao, kiên
quyết
Điều này thể hiện ngay từ khâu phân bổ và giao kế hoạch vốn: Luật NSNN quy định khâu này phải xong
trước 31/12 năm trước, nhưng có bộ ngành đến hết quý II, cá biệt đến hết năm kế hoạch vẫn chưa phân bổ
xong. Do chưa được phân bổ vốn, nên các chủ đầu tư và các nhà thầu không dám triển khai thi công, sợ
không có nguồn thanh toán. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, nhiều cơ quan chủ quản đầu tư còn có tư
tưởng khoán trắng cho chủ đầu tư, không có sự kiểm tra thường xuyên nhằm đôn đốc hoặc phát hiện vướng
mắc để có giải pháp tháo gỡ kịp thời.
Sáu là do cơ chế quản lý vốn đầu tư
Việc quản lý vốn đầu tư hiện nay vẫn mang nặng tính chất của cơ chế cũ, không phù hợp với điều kiện của
nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện đã liên tục xuất hiện những vướng mắc cần
6
phải xử lý, và do đó, cơ chế quản lý vốn đầu tư cũng phải thay đổi liên tục. Song, sự thay đổi này luôn trong
tình trạng không đồng bộ, thậm chí không nhất quán, không kịp thời, nên khó thực hiện, gây ra tình trạng
chờ đợi, mất nhiều thời gian, từ đó làm chậm tiến độ giải ngân.
4, Quản lý tài chính trong dự án đầu tư còn lỏng lẻo gây thất thoát vốn NS. Bệnh thành tích. Chỉ coi trọng
tăng trưởng về số lượng, tốc độ tăng trưởng mà không coi trọng chất lượng tăng trưởng kinh tế
Đối với nguồn trái phiếu chính phủ (TPCP)
A. Ưu điểm:
- Thông qua phát hành trái phiếu, chính phủ có thể huy động được khối lượng vốn lớn, với thời gian sử dụng
lâu dài
Ví dụ: Năm 2005, Chính phủ phát hành Công trái xây dựng Tổ quốc mang tên Công trái giáo dục để tiếp tục
huy động vốn hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, các tỉnh có nhiều khó khăn thực hiện mục tiêu xoá
phòng học 3 ca, phòng học tranh tre, nứa lá và kiên cố hoá trường học theo Nghị quyết số 09/2002/QH11
ngày 28/11/2002 của Quốc hội. Công trái giáo dục phát hành và thanh toán bằng đồng Việt Nam. Tổng mức
phát hành năm 2005 là 1.500 tỷ đồng. Công trái giáo dục có thời hạn 5 năm, được bắt đầu phát hành từ ngày
19 tháng 5 năm 2005.
Ngày 26/01/2010: Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu Chính Phủ thời hạn 10 năm trên
thị trường quốc tế với lợi tức 6,95%. Số tiền thu được từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế này được
tập trung vào các mục tiêu: (i) hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nước, (ii) giao Bộ Kế hoạch&Đầu tư phối hợp

Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự kiến cho các Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam,
Tổng công ty Sông Đà và Tổng Công ty lắp máy Việt Nam đầu tư bổ sung các dự án lọc hóa dầu Dung Quất,
dự án xây dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy thủy điện Hủa Na và mua tàu vận tải biển).
Kế hoạch đầu tư phát triển giai đoạn 2011-2015: Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong kế hoạch 5 năm 2011-
2015 theo giá thực tế dự kiến khoảng 5.745-6.140 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 250-266 tỷ USD… Trong
đó, đáng chú ý là nguồn vốn ngân sách nhà nước dự kiến khoảng 1.020-1.090 nghìn tỷ đồng, chiếm 18%;
đầu tư từ trái phiếu Chính phủ dự kiến khoảng 225 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,9-4,1% Năm 2011, đã phát hành
45 nghìn tỷ đồng trái phiếu sử dụng cho đầu tư phát triển.
- Huy động vốn từ phát hành trái phiếu khắc phục được một số nhược điểm của nguồn huy động khác.
Không bị phụ thuộc nước ngoài như trong trường hợp nhận viện trợ. Lãi suất phải trả cũng không cao như
đi vay NHTM.
B.Nhược điểm:
1, Khả năng gia tăng của nguồn vốn từ phát hành trái phiếu có giới hạn
+ Đối với phát hành trái phiếu trong nước:
Từ phía người mua trái phiếu: Trên thị trường có rất nhiều kênh đầu tư khác nhau, nếu lãi suất của trái phiếu
không đủ hấp dấn thì sẽ không có người mua trái phiếu.
Từ phía chính phủ: chính phủ không thể huy động quá nhiều vốn từ phát hành trái phiếu trong nước vì sẽ
ảnh hưởng tới nguồn cung vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của dân cư, do đó có thể kìm hãm hoạt
động sản xuất kinh doanh.
+ Đối với phát hành trái phiếu ra nước ngoài:
Lượng vốn huy động được phụ thuộc vào hệ số tín nhiệm của quốc gia, vào lãi suất đưa ra. Mặt khác còn
ảnh hưởng tới chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia.
Từ các nguyên nhân trên, khả năng gia tăng của nguồn vốn này bị hạn chế.
2, Đây là nguồn vốn có chi phí đắt đỏ
Để có thể huy động được vốn từ nguồn này, chính phủ phải đưa ra mức lãi suất hấp dẫn các nhà đầu tư. Bên
cạnh đó còn có chi phí phát hành và chi phí tổ chức đấu thầu trái phiếu.
Từ hai nhược điểm trên, khả năng cung cấp của nguồn vốn này cho dự án đầu tư phát triển là có hạn.
3,Tài trợ bằng nguồn vốn này có thể gây ra tình trạng thất thoát và lãng phí vốn
7
+ Phát hành trái phiếu trong nước chủ yếu tài trợ cho dự án phúc lợi hoặc có khả năng sinh lời thấp dưới

hình thức cấp 100% vốn ngân sách. Đây không phải là vốn do người thực hiện bỏ ra nên có thể họ sẽ không
quan tâm tới hiệu quả của vốn đầu tư, bên cạnh đó có thể xảy ra hiện tượng rút lõi công trình
+ Phát hành trái phiếu nước ngoài chủ yếu để cho vay lại các dự án lớn của các doanh nghiệp theo mục tiêu
phát triển của nhà nước. Tuy nhiên, người trực tiếp đi vay là chính phủ, do đó, doanh nghiệp được vay lại có
thể sẽ sử dụng vốn không hiệu quả so với việc tự đi vay.Việc không trả được nợ của doanh nghiệp sẽ ảnh
hưởng tới khả năng trả nợ, và tăng thêm gánh nặng nợ nước ngoài của quốc gia.
VD: Năm 2005, Chính phủ đã phát hành thành công 750 triệu USD trái phiếu quốc tế. Chính phủ đã dành
toàn bộ cho Tập đoàn Vinashin vay lại. Vinashin là Doanh Nghiệp chủ lực của ngành công nghiệp đóng tàu
đang phát triển rất nhanh tại Việt Nam. Chính phủ cũng đặt kỳ vọng với nguồn vốn này sẽ đưa Vinashin và
ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên khoản vay 750 triệu USD đã bị sử
dụng vào mục đích khác không theo đúng dự án và kế hoach.
Điển hình là khoản 42,8 tỉ đồng cho Công ty Hoàng Anh – Vinashin thực hiện giao dịch mua thép. Tuy
nhiên chỉ lập hồ sơ khống mua bán 4.500 tấn thép với Công ty cổ phần đầu tư thương mại Cửu Long nhưng
thực chất không có giao dịch nào. Số tiền 42,8 tỉ được sử dụng để nhập hai nhà máy nhiệt điện cũ (thực chất
là rác thải công nghiệp độc hại) cho dự án Nhà máy nhiệt điện Sông Hồng - Nam Định.
Cố ý làm trái trong việc cho Công ty Vận tải Viễn Dương vay 106 tỉ đồng từ nguồn vốn trái phiếu quốc tế để
thực hiện dự án hoán cải tàu Bạch Đằng Giang gây thất thoát lớn vốn đầu tư của dự án này.
Sử dụng 1.000 tỉ đồng vay từ nguồn vốn trái phiếu quốc tế để mua lại khoản nợ của các đơn vị thành viên và
bản thân công ty mẹ, trong đó có nhiều khoản là nợ xấu tại ngân hàng. Đáng chú ý việc mua lại này được
thực hiện ngay trong ngày ký hợp đồng vay vốn trái phiếu quốc tế. Theo TTCP thì việc mua nợ trên là trái
với quy chế mua bán nợ; sử dụng không đúng mục đích khoản vay trái phiếu quốc tế; có nhiều dấu hiệu cố ý
làm trái quy định của pháp luật, dùng thủ đoạn hoán đảo nợ đã mua để che giấu thiệt hại.
2.2. Nguồn tài trợ phát triển của các Chính phủ và tổ chức tài chính quốc tế
2.2.1. Đặc điểm
Do xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, ngày nay, quan hệ kinh tế giữa quốc gia với quốc gia, giữa 1
quốc gia với các tổ chức quốc tế trở nên phổ biến. Trên phương diện kinh tế, điều này mở rộng và gia tăng
nguồn vốn chảy vào trong nước. Đây chính là nguồn tài trợ rất tốt cho các DAPT.
Nguồn tài trợ này di chuyển thường từ những nước phát triển sang những nước đang phát triển và kém phát
triển. Đối với những nước phát triển, điều này giúp họ gia tăng hiệu quả sử dụng vốn. Còn đối với các nước
kém phát triển, thì đây là nguồn vốn giúp cải thiện và phát triển nền kinh tế trong nước còn khó khăn.

Nguồn tài trợ này luôn đi kèm với màu sắc chính trị biểu hiện ra thành những điều kiện trao đổi mà nước tài
trợ đưa ra cho nước nhận tài trợ.
Nguồi tài trợ từ nước ngoài bao gồm:
Nguồn tài trợ từ các Chính phủ nước ngoài qua hợp tác song phương hoặc đa phương.
Nguồn tài trợ từ các Tổ chức tài chính quốc tế như: WB, ADB, IMF
2.2.2. Các hình thức tài trợ
2.2.2.1. Nguồn vốn ODA
Đặc điểm
Đây là hình thức tài trợ phổ biến nhất là thông qua hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).Hỗ trợ phát triển
chính thức ODA là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà Nước hoặc Chính phủ một nước với các Chính
Phủ nước ngoài, các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia.
Lãi suất cho vay rất thấp khoảng từ 0.25-2%/năm, thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40
năm mới phải hoàn trả, ân hạn từ 8-10năm)
Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA
Mục tiêu chính là giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội. Các lĩnh vực được ưu
tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: Xoá đói, giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn; cơ sở hạ tầng
kinh tế kỹ thuật như giao thông vận tải, thông tin liên lạc…
8
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề ra trong
các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng chiến lược,
chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên cơ sở tham vấn
rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-
2010. 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói,
giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực

nghiên cứu và triển khai.
Phân loại
Căn cứ vào tính chất tài trợ:
ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả lại cho nhà tài trợ.
ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): Là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian
ân hạn và thời gian trả nợ bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng
buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng
thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối
với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Hỗ trợ cơ bản: Là loại ODA dành cho việc thực hiện nhiệm vụ chính của các chương trình, dự án đầu tư xây
dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như đường sá, cầu, cảng,…. Loại ODA này thường là các khoản vay
ưu đãi.
Hỗ trợ kỹ thuật: Là loại ODA được thực hiện nhằm chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ, phát triển
năng lực, phát triển thể chế, nghiên cứu tiền đầu tư các chương trình dự án, phát triển nguồn nhân lực,…
Loại ODA này thường là ODA không hoàn lại.
Căn cứ vào nhà tài trợ:
ODA song phương: Là loại ODA được Chính phủ một nước tài trợ trực tiếp cho Chính phủ nước khác.
ODA đa phương: Là loại ODA do các tổ chức quốc tế, các tổ chức liên chính phủ tài trợ cho Chính phủ của
một nước.
ODA của các tổ chức phi chính phủ: Là loại ODA do các tổ chức phi chính phủ cung cấp.
Tính cho đến nay, Việt Nam có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa
phương. Trong đó:
- Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-oét, Đan Mạch, Đức, Hà
Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Lúc-xem-bua, Mỹ, Na-uy, Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan,
Pháp, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Xin-ga-po.
- Các nhà tài trợ đa phương gồm:
Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ

Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait;
Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn
(UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA), Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp
quốc (UNIDO), Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của Liên hợp
quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC),
Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên
hợp quốc (UNICEF), Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
9
hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực
(FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
A.Ưu điểm
Nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài này phù hợp với dự án phát triển do đây là nguồn vốn có lãi suất thấp, thời
gian sử dụng dài. Đặc biệt thích hợp cho các DAPT tại các nước đang phát triển như Việt Nam, thiếu vốn đề
phát triển kinh tế.
Ví dụ:
Dự án trồng rừng Việt Đức tại tỉnh quảng ninh. Mục tiêu của dự án là góp phần trồng rừng và bảo vệ đất tại
các tỉnh thông qua việc giúp người sử dụng đất đã được phân loại có hiệu quả kinh tế và bền vững về sinh
thái. Đồng thời tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho nhân dân địa phương.
Đây là một dự án viện trợ quốc tế có quy mô tương đối lớn.Thời gian thực hiện dự án được tiến hành trong 5
năm từ năm 2000-2004. Tổng kinh phí đầu tư 22,8 tỷ đồng, trong đó kinh phí viện trợ của chính phủ Đức là
19,3 tỷ đồng, kinh phí đối ứng của tỉnh 3,5 tỷ đồng. Với mục tiêu trồng, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh rừng
và quản lý bền vững 4.500 ha rừng. Quy mô dự án được triển khai tại 33 thôn, bản của 8 xã thuộc 2 địa
phương là Đông Triều và Móng Cái. Sau này, dự án đã được mở rộng thêm tại các huyện gồm Tiên Yên,
Bình Liêu và Ba Chẽ.
Bên cạnh đó còn có một số dự án như: Bảo tồn và Phát triển tài nguyên nông nghiệp (ARCD), Dự án Giảm
nghèo khu vực miền Trung, Phân cấp giảm nghèo đã đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, hỗ trợ
sản xuất, an ninh lương thực, đào tạo cán bộ cấp xã, huyện trong vùng dự án, dự án 327 (PAM) đã góp phần
phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống cát lấp, cát bay; Các dự án cấp nước và vệ sinh môi trường đã đầu tư
hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho người dân vùng nông thôn và thành thị.
B.Nhược điểm

Chịu ảnh hưởng, sức ép từ nước viện trợ về mặt kinh tế-chính trị, quốc phòng…: Các nước giàu khi viện trợ
ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm
bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị Vì vậy, họ đều có chính sách riêng
hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với
tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).
Nước tiếp nhận đầu tư dễ rơi vào tình trạng nợ nước ngoài thậm chí không có khả năng trả nợ nếu không có
chính sách sử dụng và phân bổ hợp lý.
Ví dụ: Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào
các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý,
điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp có
thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
Do các nguồn vốn tài trợ này đã được thiết kế cho những mục tiêu cụ thể do vậy chỉ sử dụng cho những
chương trình dự án theo thỏa thuận với bên tài trợ. Ngoài ra nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý
sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước
viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu
hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Giải ngân vốn ODA tại Việt Nam còn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của thế giới và khu vực đối với một số nhà tài trợ cụ
thể. Theo Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ giải ngân trung bình của khu vực là 20%, trong khi Việt Nam chỉ đạt
14%. Và tỷ lệ giải ngân thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến tổng chi ngân sách nhà nước năm
2009 lên đến trên 530.000 tỉ đồng, tăng 8,5% so với dự toán, tương đương 31,7% GDP.
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008
10
Theo Bộ KH-ĐT, năm 2009, một số đơn vị có mức giải ngân ODA thấp dưới 40% là Bộ GTVT (38%), Bộ
Y tế (27,9%), Thành phố Đà Nẵng (6,66%), Thành phố Cần Thơ (11,6%), Thành phố Hà Nội (36%).
Bộ GTVT chủ trì 38 dự án ODA thì có tới 27 dự án mới giải ngân bằng 20% kế hoạch năm, 6 dự án đạt mức
giải ngân từ 20-40% kế hoạch năm.
Các dự án giải ngân ODA thấp là dự án hành lang ven biển phía Nam (0,03%), cầu Nhật Tân (0,96%), cảng
Cái Mép- Thị Vải (2,57%), quốc lộ 3 mới Hà Nội - Thái Nguyên (7,15%).

Thành phố Hà Nội đang quản lý 19 dự án ODA quan trọng. Năm 2009, Hà Nội sẽ phải thực hiện 631 tỷ
đồng nhưng 4 tháng đầu năm, mới giải ngân đuợc 36% kế hoạch năm.
Trong đó, điển hình chậm giải ngân vốn ODA là dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Bắc Thăng Long- Vân
Trì mới đạt 5%, dự án phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, tiểu phần thành phố Hà Nội mới đạt
có 1%, dự án trường cao đẳng dạy nghề Hàn Quốc- Thành phố Hà Nội đạt 10%, dự án phát triển giao thông
đô thị Hà Nội mới đạt 12%.
Bộ KH-ĐT cho rằng, những nguyên nhân cơ bản dẫn tới giải ngân chậm ODA là do cơ chế, chính sách trong
lĩnh vực đầu tư, xây dựng còn nhiều bất hợp lý, năng lực của cả cơ quan chủ quản và các nhà thầu còn hạn
chế, cơ chế bố trí vốn đối ứng chưa hợp lý.
Do có nhiều ưu đãi nên hiệu quả sử dụng vốn thấp:
tình trạng này được phản ánh là sự thiếu quyền hạn, thụ động hoặc trách nhiệm chưa được quy định rõ giữa
các cấp các ngành thiếu trách nhiệm.
2.2.2.2. Nguồn tài trợ từ WB, IMF
A. Nguồn tài trợ từ WB
Ngân hàng Thế giới, viết tắt là WB, là một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là thúc đẩy
phát triển kinh tế và xã hội ở các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao động ở các nước
này.
Nhóm Ngân hàng thế giới bao gồm năm tổ chức:
+ Ngân hàng quốc tế Về khôi phục và phát triển (IBRD)
+ Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA)
+ Nghiệp đoàn Tài chính quốc tế (IFC)
+ Cơ quan Bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA),
+ Trung tâm quốc tế Giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID),
Những hoạt động chính: WB thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và xã hội ở các nước đang phát triển thông qua
trợ giúp kĩ thuật, cho vay vốn dự án đối với các chính phủ. WB huy động vốn từ những thị trường tài chính
quốc tế và sử dụng chúng trong các dự án phát triển ở các nước đang phát triển. Tất cả các khoản vay của
WB đều phải hoàn trả với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường.
- Các thể thức cho vay chủ yếu:
+ Vay vốn đầu tư: dựa trên những dự án của chính phủ các nước tiếp nhận. Khoản vốn này có lãi suất cao
hơn lãi suất thị trường với thời hạn 15 - 20 năm; thời gian ân hạn tới 5 năm.

+ Vay vốn điều chỉnh: trợ giúp chương trình cải cách kinh tế của các nước tiếp nhận nhằm khôi phục tăng
trưởng kinh tế và cán cân thanh toán của nước đi vay. Kể từ khi có suy thoái kinh tế toàn cầu những năm
1980, WB mở rộng phạm vi hoạt động cho vay tới những khoản vay điều chỉnh ngành và cơ cấu.
11
+ Đồng tài trợ: WB phối hợp với khu vực tư nhân, tổ chức song phương hoặc đa phương, và các tổ chức
chính phủ tài trợ cho một số chương trình của mình.
+ Quỹ tín thác: được đóng góp từ những quốc gia tài trợ, tổ chức đa phương, các tổ chức phi chính phủ, quỹ
và tổ chức tư nhân khác tập trung vào những dự án trợ giúp kĩ thuật ở các nước đang phát triển. Hiện nay,
IBRD có trên 850 quỹ tín thác.
+ Trợ giúp kĩ thuật: cung cấp nguồn lực và chuyên gia cho các nước đang phát triển để xây dựng những thể
chế cần thiết cho quá trình phát triển. Những chương trình này tập trung vào phát triển khu vực tư nhân, bảo
vệ môi trường và xoá đói giảm nghèo. Trợ giúp kĩ thuật chiếm khoảng 10% các khoản cho vay. Chỉ cho vay
đối với các nước thành viên; nếu là tư nhân vay thì phải được nhà nước bảo lãnh, vv. Mục đích cho vay
không chỉ nhằm thăng bằng cán cân thanh toán và phát triển kinh tế, mà còn nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế
về tiền tệ.
- Ưu điểm của các khoản vay từ ngân hàng thế giới
+ Đây là tổ chức cho vay với mục đích giúp đỡ các quốc gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới rộng lớn hơn
và thúc đẩy phát triển kinh tế dài hạn để giảm đói nghèo ở các quốc gia đang phát triển.
+ Hện nay WB cũng cung cấp các khoản vay để cải tiến tổng thể các chính sách kinh tế ngoài những khoản
vay cải tổ này chú trọng tới việc chuyển các nguồn tài nguyên có giới hạn vào các dự án đầu tư ít tốn kém
hơn để giảm thâm hụt ngân sách, ngăn chặn lạm phát hoặc củng cố các tổ chức chính phủ. Bằng cách điều
chỉnh những lệch lạc này, các khoản vay để điều chỉnh này có thể giúp nền kinh tế của các quốc gia đang
phát triển sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn và bảo đảm phát triển lâu dài.
+ Chính phủ của những nước đang phát triển nhưng có thu nhập quốc dân trên đầu người trên 1305
USD/năm được vay của IBRD. Các khoản vay này có lãi suất chỉ cao hơn lãi suất mà tổ chức này đã đi vay
một chút. Chính phủ của các nước nghèo, có thu nhập quốc dân trên đầu người dưới 1305 USD/năm (trong
thực tế là dưới 805USD/năm) được vay của IDA. Các khoản vay sẽ không đòi lãi suất và có thời hạn lên tới
35-40 năm.
+ IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường nhưng là vay dài hạn hoặc
cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự bảo đảm đối với các nhà đầu tư khác quan tâm tới dự án và

khuyến khích họ đầu tư vào dự án.
+ MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại) để các nhà đầu tư nước
ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển.
- Nhược điểm của những khoản vay từ WB
+ Ngân Hàng Thế Giới chỉ cho các quốc gia đang phát triển và đang trong giai đoạn chuyển tiếp vay tiền.
- Các khoản vốn mà WB cho Việt Nam vay
Chương trình quốc gia của Ngân hàng Thế giới hoàn toàn phù hợp với Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội
Năm năm của Chính phủ Việt Nam giai đoạn 2006 -2010, tập trung vào:
cải thiện môi trường kinh doanh
đẩy mạnh hòa nhập xã hội
đẩy mạnh quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường
nâng cao công tác quản trị
Theo đề nghị của Chính phủ, Ngân hàng đã nâng cao những khoản tài chính đầu tư vào hạ tầng trong năm tài
chính 2010 – 2011, với lượng cho vay lên tới 1,8 tỷ đôla Mỹ cho công tác phát triển năng lượng, giao thông
và đô thị, tăng 25% về khối lượng so với mức hỗ trợ trong ba năm tài chính trước cộng lại. Đến cuối năm tài
chính 2009, chương trình đã triển khai 45 hoạt động và tổng cam kết là 5,5 tỷ đôla Mỹ
Trong số này, Ngân hàng Tái thiết và Phát triển cam kết hỗ trợ lên tới 750 triệu đôla Mỹ, bao gồm hai khoản
vay phát triển chính sách (DPL) nhằm hỗ trợ cải cách về đầu tư công và khu vực năng lượng. Thúc đẩy khâu
lựa chọn, chuẩn bị, thực hiện và giám sát các dự án đầu tư công là những việc làm cần thiết để hiện đại hóa
công tác quản trị. Khoản vay DPL thứ hai sẽ cơ cấu lại thị trường năng lượng, nâng cao tính cạnh tranh của
nó và cải thiện tính hiệu quả và bền vững trong sử dụng năng lượng. Ngoài ra, Ngân hàng cũng làm chủ tọa
cuộc họp Nhóm các nhà tài trợ (CG) với cam kết cao kỷ lục là 8 tỷ đô la hỗ trợ phát triển
12
Ngày 30/12/2009 – Ngân hàng Nhà nước Việt nam và Ngân hàng Thế giới (NHTG) ký kết thỏa thuận tín
dụng cho khoản vay lớn nhất của NHTG cho Việt Nam từ trước đến nay và cũng là khoản vay đầu tiên từ
Ngân hàng Tái Thiết và Phát Triển Quốc Tế (IBRD) thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới. Khoản vay mới được
thông qua này là khoản vay chính sách phát triển với tổng giá trị là 500 triệu đô la Mỹ để hỗ trợ chương trình
cải cách đầu tư công tại Việt Nam
Mục tiêu chính của chương trình vay vốn này, bao gồm hai khoản vay mà
đây là khoản vay thứ nhất, là để hỗ trợ một loạt các giải pháp chính sách hứa hẹn sẽ củng cố hoạt động đầu

tư công ở Việt Nam. Tạo ra một nền tảng cho một khuôn khổ pháp lý hoạt động tốt giúp quản lý đầu tư công
hiệu quả, củng cố chu trình của dự án, cải thiện tính minh bạch, giám sát và đánh giá dự án và hỗ trợ đối tác
công-tư cũng là mục tiêu các dự án này đề ra.
Các lĩnh vực dự kiến được cải thiện trong khuôn khổ chương trình cải cách cũng được thảo luận rộng rãi với
nhiều đối tác phát triển, bao gồm rà soát về môi trường cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng từ nguồn vốn
công, quản lý môi trường, chuẩn bị và thẩm định dự án, đấu thầu, quản lý tài chính công, khuôn khổ pháp
luật cho khối tư nhân tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng, và giám sát và đánh giá dự án
Tổng số tiền: 500 triệu đô la Mỹ
Thời gian ân hạn: 10 năm
Thời hạn vay: 25 năm
Phí quản lý : 0,25% tổng số tiền vay.
Lãi suất: LIBOR (6 tháng) theo đơn vị tiền vay cộng biên độ vay dao động (0,17%).
B. Nguồn tài trợ từ IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế (tiếng Anh: International Monetary Fund, viết tắt IMF) là một tổ chức quốc tế giám sát
hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và
giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu.
IMF chịu trách nhiệm đảm bảo ổn định cho hệ thống tài chính và tiền tệ quốc tế, hệ thống thanh toán quốc tế
và tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền tạo điều kiện giao thương giữa các nước. IMF tìm cách duy trì ổn định
và phòng ngừa khủng hoảng kinh tế; hỗ trợ giải quyết khủng hoảng một khi xảy ra; thúc đẩy phát triển và
giảm đói nghèo
- Các hình thức cho vay của IMF
+ Các khoản cho vay ưu đãi: Từ thập niên 80 đối với các nước hội viên nghèo Quỹ đặt ra loại cho vay dành
riêng gọi là ESAF – FASR nhưng sau này
Từ năm 1999 Các nước nghèo có thể vay với lãi suất ưu đãi hỗ trợ phát triển và xoá đói nghèo PRGF
(Poverty Reduction and Growth Facility) và sáng kiến hỗ trợ các nước nghèo đang mắc nợ nặng nề HIPC
(Heavily Indebted Poor Countries Initiative) dựa trên các nghiên cứu về chiến lược giảm đói nghèo PRSP
(Poverty Reduction Strategy Papers) do nước sở tại tiến hành dưới sự cố vấn của các tổ chức xã hội và các
đối tác phát triển bên ngoài nhằm đưa ra một cơ cấu chính sách kinh tế xã hội toàn diện phục vụ cho việc
thức đẩy phát triển và giảm đói nghèo. Khả năng vay của các nước thành viên phụ thuộc vào quota mà nước
đó đóng góp cho IMF. Trong những năm gần đây, các khoản vay lớn nhất của IMF được thực hiện qua

PRGF với lãi suất chỉ 0,5% và thời hạn từ 5,5 đến 10 năm.
+ Các khoản cho vay không ưu đãi : Ngoại trừ PRGF, các công cụ cho vay khác của IMF đều sử dụng lãi
suất thị trường, gọi là 'rate of charge', dựa trên lãi suất SDR (Special Drawing Rights). SDR được tạo ra từ
hệ thống ngân hàng quốc tế nhằm giải quyết sự dao động quá lớn giữa các đồng tiền. Các khoản cho vay
không ưu đãi được cung cấp thông qua 4 công cụ: Stand-By Arrangements (SBA), Extended Fund Facility
(EFF), Supplemental Reserve Facility (SRF) và Compensatory Financing Facility (CFF).
Ngày nay, người ta phân ra thành các loại tín dụng sau:
+ Tín dụng thông thường: nước được vay phải có chương trình điều chỉnh kinh tế ngắn hạn; mức tối đa được
vay là 100% cổ phần của nước đó tại quỹ; thời hạn 3 - 5 năm; ân hạn 3 năm với lãi suất khoảng 5 - 7,5%.
+ Vốn vay bổ sung: mức vay có thể từ 100% đến 350% cổ phần của nước đó, tuỳ theo mức độ thiếu hụt; thời
hạn 3 - 5 năm; ân hạn 3,5 năm; lãi suất theo lãi suất thị trường.
13
+ Vay dự phòng: tối đa được 62,5% cổ phần; thời hạn 5 năm; ân hạn 3,5 năm; lãi suất thị trường.
+ Vay dài hạn: nước đi vay phải có chương trình điều chỉnh kinh tế trung hạn và mọi khoản vay phải theo sát
với việc thực hiện chương trình theo từng quý, từng năm. Mức vay bằng 140% cổ phần; thời hạn 10 năm; ân
hạn 4 năm; lãi suất 6 - 7,5% năm.
+ Vay bù đắp thất thu xuất khẩu: cho các nước đang phát triển có đột biến thiếu hụt cán cân thương mại
trong năm. Mức vay tối đa bằng 100% cổ phần; thời hạn và lãi suất như tín dụng thông thường.
+ Vay chuyển tiếp nền kinh tế: loại tín dụng mới xuất hiện để hỗ trợ cho các nước chuyển đổi từ nền kinh tế
tập trung sang kinh tế thị trường; thời hạn vay 5 năm; ân hạn 3,25 năm; lãi suất thị trường.
Ngoài ra, còn một số loại tín dụng khác như vay để duy trì dự trữ điều hoà, vay để điều chỉnh cơ cấu,vv.
Những khoản vay của Việt Nam từ IMF
Chính quyền Sài gòn gia nhập IMF năm 1956. Năm 1976, CHXHCN Việt nam chính thức kế tục chân hội
viên của Việt nam tại IMF và được quyền hưởng các khoản vay từ IMF. Trong giai đoạn 1976-1981, IMF đã
cho Việt nam vay khoảng 200 triệu USD nhằm giải quyết những khó khăn trong cán cân thanh toán. Trong
suốt thời gian từ 1985 đến tháng 10/1993, quan hệ giữa VN - IMF được duy trì thông qua đối thoại chính
sách chủ yếu dưới hình thức tham khảo thường niên về kinh tế vĩ mô.
Tháng 10/1993, Việt nam đã nối lại quan hệ tài chính với IMF. Trong giai đoạn 1993-2004, IMF đã
cung cấp cho Việt nam 4 khoản vay với tổng vốn cam kết 1.094 triệu USD, trong đó, chương trình vay cuối
cùng là Tăng trưởng và Giảm nghèo PRGF kết thúc vào tháng 4/2004.

Từ tháng 4/2004 đến nay, quan hệ Việt nam - IMF tiếp tục được duy trì tốt đẹp mặc dù giữa hai bên
không còn chương trình vay vốn. Hai bên vẫn thường xuyên tiến hành trao đổi các đoàn cấp cao. Bên cạnh
đó, IMF vẫn rất tích cực tiến hành các hoạt động tư vấn chính sách và hỗ trợ kỹ thuật cho Việt nam.
Năm 2009, IMF đã tiến hành hai đợt phân bổ SDR tổng thể và đặc biệt vào các tháng 8 và 9 nhằm
giúp các nước hội viên tăng dự trữ ngoại hối, chống đỡ trước tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu. Qua hai đợt phân bổ này, Việt Nam được phân bổ tổng cộng hơn 267 triệu SDR,
trong đó, phân bổ thông thường gần 244 triệu SDR và phân bổ đặc biệt hơn 23 triệu SDR.
BẢNG SỐ LIỆU CÁC KHOẢN CHO VAY CỦA IMF GIAI ĐOẠN 1993 - 2004
(Đơn vị: Triệu USD)
TÊN KHOẢN VAY NGÀY KÝ
KẾT
SỐ CAM
KẾT
1. Chuyển đổi hệ thống (STF) 06/10/1993 34
2 Dự phòng (SBA) 06/10/1993 157
3. Điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) 11/11/1994 535
4. Tăng trưởng và Xóa đói Giảm nghèo
(PRGF)
13/04/2001 368
Tổng cộng 1.094
Loại mượn Ngày chấp nhận Hạn cuối Mượn được nhận Mượn thực sự
ESAF 11/11/1994 10/11/1997 362 242
Stand-by 06/10/1993 11/11/1994 145 109
Kỳ hạn phải trả 2000 2001 2002 2003 2004
14
Tiền mượn 8 34 52 52 49
Tiền lời 1.4 4 3.6 3 3
BẢNG SỐ LIỆU PHÂN BỔ SDR

TT Đợt phân bổ Giá trị Đơn vị Thời gian

1 Phân bổ tổng thể 243.965.055 SDR 28/8/2009
2 Phân bổ đặc biệt 23.168.946 SDR 9/9/2009
Tổng cộng 267.134.001 SDR
Đặc biệt ngoại việc hỗ trợ về vốn thì IMF còn có nhiều dự án Hỗ trợ kỹ thuật của IMF cho Việt nam. Trước
khi nối lại quan hệ tín dụng, IMF đã cử nhiều đoàn chuyên gia kinh tế vào giúp Việt nam xây dựng các
chương trình kinh tế, trong đó có các biện pháp chống lạm phát. IMF cũng đã nhận đào tạo một số cán bộ
của các ngành kinh tế tổng hợp về kiến thức kinh tế thị trường và cùng với UNDP thực hiện trợ giúp kỹ
thuật cho NHNN và Bộ tài chính trị giá 1,9 triệu Đôla Mỹ dưới hình thức cử các chuyên gia tư vấn ngắn,
trung và dài hạn về nghiệp vụ chính sách đồng thời tổ chức các khoá tập huấn, hội thảo trong nước cũng như
các khảo sát tại các nước có những kinh nghiệm về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ tương tự như Việt
nam.
Dự án VIE/93/007 về “Tăng cường thể chế và chính sách tài chính” được hỗ trợ của IMF/UNDP đã đem lại
những kết quả đáng khích lệ trong các lĩnh vực điều hành và quản lý tiền tệ, xây dựng các thị trường vốn,
quản lý ngoại hối, hệ thống thanh toán, thanh tra ngân hàng trung ương, chế độ báo cáo, thống kê tiền tệ
- Ưu điểm của những khoản vay từ IMF
+ Tất cả các quốc gia thành viên (giàu và nghèo) đều có thể kêu gọi các dịch vụ và nguồn tài trợ của IMF.
Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia nghèo khó và các quốc gia đang trong quá trình phát triển
có thể vay vốn với những ưu đãi nhất định về lãi suất từ đó có thể đầu tư phát triển kinh tế, các nước phát
triển tìm tới IMF chủ yếu là để có được sự tư vấn chính xác và hiệu quả cho các hoạt động tài chính ngân
hàng của mình, đảm bảo tính linh hoạt trong hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính tiền tệ của toàn cầu.
- Nhược điểm của những khoản vay từ IMF
+IMF chỉ đóng vai trò giám sát hệ thống tiền tệ thế giới bằng cách giúp duy trì một hệ thống thanh toán có
trật tự giữa tất cả các quốc gia, và cung cấp các khoản vay cho các thành viên đang gặp phải vấn đề thiếu hụt
nghiêm trọng về cán cân thanh toán
+ Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế chỉ quan tâm đến những vấn đề về chính sách. Do vậy Quỹ cung cấp các khoản vay
cho các quốc gia thành viên đang có vấn đề ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán nước ngoài của họ và
cố gắng đạt được khả năng chuyển đổi đầy đủ tiền tệ của các thành viên trong hệ thống tỷ giá hối đoái linh
hoạt.
2.3.Vay Ngân hàng thương mại (NHTM)
Đặc điểm

Khác với NHPT, các NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận bằng cách huy động vốn trong dân chúng. Do
đó, việc tài trợ cho các dự án nằm trong hoạt động tín dụng của các NHTM. Nguồn tín dụng này lại được tài
trợ từ nguồn huy động vốn trung và dài hạn của chính các NHTM có được. Như vậy rủi ro cho việc tài trợ
DA đối với NHTM là khá lớn. Vì thế chính bản thân các NHTM cũng phải cân nhắc rất kỹ khi đầu tư vào
những DAPT căn cứ vào tiềm lực của mình. Vốn của NHTM vì thế có chi phí vốn lớn, nó tham gia 1 phần
nhỏ vào tổng kinh phí đầu tư cho DAPT. Những DAPT đặt tính xã hội lên trên thường không thu hút được
sự chú ý của nguồn tài trợ này.
15
Ưu điểm
+ Nguồn vốn của NHTM kết hợp với các nguồn vốn khác là biện pháp hiệu quả đối với dự án phát triển có
tính sinh lời và hiệu quả cao thông qua việc tạo áp lực trả lãi.
+ Tài trợ của NHTM sẽ hạn chế bao cấp của Nhà nước, hạn chế gánh nặng nợ nần của quốc gia, hạn chế
tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác thường gắn liền với tài trợ của Nhà nước.
Nhược điểm
+ Thời gian sử dụng vốn ngắn, lãi suất cao.
+ So với các nguồn vốn khác, nguồn vốn vay từ NHTM thường kèm theo điều kiện vay vốn có tài sản đảm
bảo
Ví dụ
Công trình thủy điện Sơn La là công trình thủy điện lớn nhất ở VN. Công suất đạt khoảng 10 ty Kwh/ năm
góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong giai đoạn huy động vốn cho dự án vào
năm 2007, tập đoàn điện lực VN (EVN) và 4 NHTM Việt Nam (Agribank, VCB, BIDB,Vietinbank) đã ký
hợp đồng vay vốn thương mại với tổng giá trị 17500 tỷ đồng. Thời hạn vay là 15 năm, thời gian ân hạn là 5
năm, lãi suất vay bằng lãi suất huy động tiết kiệm 12 tháng ( trả lãi sau) bình quân của các NH cho vay cộng
với phí 2.5%/ năm. Dự án thủy điện Sơn La có công suất = 2400 MW do EVN làm chủ đầu tư, tổng đầu tư
43083 tỷ đồng. Bên cạnh vay vốn thương mại trong nước, nguồn vốn để thực hiện DA còn được thu xếp từ
vay ngân sách 5000 tỷ đồng để đền bù di dân, vay NHPT 4000 tỷ đồng, vốn tự tích lũy và vốn trái phiếu
9823 tỷ đồng, vay thương mại nước ngoài để mua sắm thiết bị 6760 tỷ đồng.
Nguồn khác
Dự án phát triển mang lại lợi ích to lớn cho người hưởng lợi, ví dụ đường giao thông nông thôn, nhà máy
chế biến nông sản, Vì vậy người hưởng lợi sẽ đóng góp cho dự án. Nguồn tài trợ này có ý nghĩa quan trọng

đối với thành công của dự án phát triển, bởi vì nó gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của người hưởng lợi, của
chính quyền địa phương với dự án.
Thực trạng huy động và sử dụng các nguồn tài
trợ DAPT tại Việt Nam
Thực tế cho thấy, Việt nam cho đến nay vẫn là 1 quốc gia đang phát triển. Nhu cầu đầu tư cho phát triển
kinh tế luôn là ưu tiên hàng đầu của quốc gia. Tổng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế chiếm đến 45% GDP
cả nước ( khoảng 90 000 tỷ VND). Trong khi đó, DAPT tại Việt Nam lại rất lớn cả về số lượng và qui mô.
Vì thế mà một đặc điểm dễ nhận thấy là, nguồn tài trợ cho các DAPT tại Việt Nam bao gồm nhiều loại
nguồn đến từ nhiều tổ chức khác nhau. Điều này vừa giúp đa dạng hóa cơ cấu nguồn vốn thỏa mãn cung vốn
cho DA vừa làm tăng tính hiệu quả hoạt động cho các DAPT.
Cơ cấu nguồn tài trợ
cho DAPT tại Việt Nam chủ yếu gồm:
+ Nguồn từ NSNN được xem xét đến đầu tiên. Nhà nước chủ động thiết lập DAPT và phân bổ kinh phí ngân
sách cho các dự án dựa trên mức độ quan trọng đối với nền kinh tế.
16
Nhìn vào hình vẽ trên, ta thấy, các DAPT tập trung chủ yếu cho những chương trình mục tiêu quốc gia như
chương trình giáo dục đào tạo( 43.63 tỷ VND), phòng chống bệnh XH (15.82 tỷ VND), chương trình nước
sạch (10,2 tỷ VND)
+ Nguồn tài trợ từ các Chính phủ và tổ chức tài chính quốc tế cũng là nguồn tài trợ quan trọng cho
các DAPT. Nguồn này thường được phân bổ cho các DAPT cơ sở hạ tầng, giao thông, đô thị … Những dự
án có qui mô lớn đòi hỏi trường vốn và cả sự hỗ trợ về kỹ thuật hiện đại cũng như trình độ quản lý cao.
+ Nguồn tài trợ từ các NHTM có tính ưu tiên thấp hơn. Các DA mang qui mô lớn đem lại tính kinh tế cao
đồng thời không ảnh hưởng đến lợi ích xã hội sẽ tìm kiếm nguồn tài trợ này. Hiện tượng các NHTM cùng
nhau đồng tài trợ cho các DA lớn tại Việt nam ngày càng trở nên phổ biến. Nguyên nhân chính yếu xuất phát
từ việc đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh của chính các NHTM. Vì vậy, các DAPT về điện lực, xây dựng các
nhà máy sản xuất … thường được các NHTM nhắm tới.
Bất cập lớn nhất hiện nay của các DAPT của Việt nam chính là tính hiệu quả sử dụng vốn. Rắc rối gặp phải
thường diễn ra ở những DAPT sử dụng nguồn vốn từ NSNN và vốn ODA. Biểu hiện của việc sử dụng vốn
không hiệu quả đó chính là tình trạng thất thoát vốn, mất kiểm soát nguồn vốn. Điều này tất yếu dẫn đến
chất lượng công trình của DA không được đảm bảo.

Điển hình năm 2006, vụ án PMU18 là một trong những vụ án điển hình về việc tham nhũng tiền dự án, chất
lượng công trình không đảm bảo. Hay các nguồn vốn vay từ WB, ADB cho các dự án phát triển nông thôn,
miền núi. Thêm đó là chương trình 135 - Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn
vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ngoài những thành tựu đạt được thì cũng có những công trình do không
được tính toán, tìm hiểu kỹ về sự thuận lợi của vùng, miền đã gây ra sự lãng phí lớn khi mà các công trình
không phát huy được hiệu quả của nó trong việc phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, vùng sâu, vùng
xa. Kết quả kiểm toán chương trình 135 giai đoạn II: Gần 14 tỉ đồng vi phạm.
Tương tự, câu chuyện chương trình 135, tại huyện Mộc Châu, Sơn La, cán bộ phụ trách triển khai chương
trình đã không tuân thủ đúng Nghị quyết của HĐND tỉnh, nghiệm thu trước khối lượng tại các công trình,
thực hiện giám sát khi chưa đủ năng lực. Ở huyện Văn Chấn, Yên Bái có tình trạng bán vật tư đầu tư cho
công trình 135 để lập quỹ thôn, quyết toán kinh phí vượt so với thực tế thực hiện, thu tiền của người dân sai
quy định. Huyện Thanh Sơn và Yên Lập, tỉnh Phú Thọ có tình trạng giữ lại tiền của dân, lập chứng từ quyết
toán không phù hợp với thực tế phát sinh, người dân phải chịu thiệt hại trong mùa trồng chuối phấn do có chỉ
đạo, hướng dẫn không hợp lý Ông Lê Minh Khái, Phó tổng KTNN khẳng định có tình trạng vi phạm về tài
chính, quyết toán sai, chi sai định mức, lãng phí vốn đầu tư trong quá trình triển khai Chương trình 135.
KTNN đã kiến nghị thu hồi nộp ngân sách nhà nước các khoản xuất toán với số tiền 675 triệu đồng; giảm
cấp phát, thanh toán 482 triệu đồng; đề nghị các địa phương bố trí nguồn để hoàn trả vốn cho chương trình
135 là 2 tỷ đồng .
Theo các báo cáo tại phiên họp, từ 2006 đến 2010, tiền rót cho Chương trình 135 giai đoạn 2 lên tới hơn
14.000 tỉ đồng. Nguồn lực của tất cả các chương trình xoá đói giảm nghèo không nhỏ, bình quân từ 2 tỉ đến
10 tỉ đồng/xã/năm (với 1.850 xã và 2.500 thôn bản).
Theo báo cáo của Chính phủ đến hết năm 2009 kết quả đạt được về các chỉ tiêu của chương trình 135 so với
mục tiêu đề ra đến năm 2010 là: 100% người dân có nhu cầu trợ giúp pháp lý được trợ giúp miễn phí (mục
17
tiêu là 95%); Tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 47% đầu năm 2006 xuống còn 31,2% năm 2009 (mục tiêu tỉ lệ hộ
nghèo giảm còn dưới 30%); Tỉ lệ hộ đạt mức thu nhập bình quân đầu người 3,5 triệu đồng/năm là 67,5%
(mục tiêu đạt trên 70%).
18

×