Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

PHÁT TRIỂN KINH tế DU LỊCH bền VỮNG ở THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.31 MB, 113 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH BỀN VỮNG Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN 10
1.1. Một số vấn đề chung về phát triển kinh tế du lịch bền vững
10
1.2. Thực trạng phát triển kinh tế du lịch bền vững ở thành
phố Hà Nội 27
Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH BỀN VỮNG Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI 50
2.1. Quan điểm phát triển kinh tế du lịch bền vững ở thành
phố Hà Nội 50
2.2. Những giải pháp phát triển kinh tế du lịch bền vững ở
thành phố Hà Nội 57
KẾT LUẬN 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
PHỤ LỤC 90
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch là một hoạt động xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử nhân loại.
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, cho đến nay du lịch đã trở thành nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của con người. Ngày nay, du lịch
được xem là ngành “công nghiệp không khói” và là một trong những ngành
dịch vụ quan trọng, đem lại nguồn thu nhập đáng kể, góp phần quan trọng vào
sự phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Ở nước
ta, trong những năm qua, ngành Du lịch luôn được Đảng và Nhà nước rất


quan tâm, coi phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong
đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đồng thời xác định phát triển du lịch thực sự trở thành một
nghành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở “đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình
du lịch, nâng cao chất lượng để đạt tiêu chuẩn quốc tế” (Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam - 2011).
Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến - là trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa của cả nước. Trong những năm qua, ngành Du lịch Thủ đô đã góp phần
quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2010, Hà Nội đã vinh dự được Tạp chí Du
lịch trực tuyến Smart Travel Asia bình chọn là một trong 10 điểm du lịch hấp
dẫn nhất châu Á. Đây là những yếu tố thuận lợi để kinh tế du lịch Thủ đô phát
triển lên tầm cao mới hướng đến các mục tiêu phát triển bền vững.
Tuy nhiên, trong thời gian qua kinh tế du lịch Hà Nội phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng, nhiều mặt, nhiều yếu tố phát triển thiếu bền
vững. Sản phẩm du lịch Hà Nội chủ yếu vẫn dựa vào các yếu tố tự nhiên, khai
thác những tiềm năng sẵn có và chưa được đầu tư thỏa đáng; thêm vào đó việc
khai thác quá mức, không theo quy hoạch bảo tồn đang đặt ra những vấn đề
báo động về ô nhiễm môi trường sinh thái, hệ lụy bức xúc về văn hóa - xã hội,
suy giảm chất lượng cuộc sống cộng đồng tại các khu, điểm du lịch.
3
Vì vậy, để kinh tế du lịch phát triển bền vững, ngành Du lịch Hà Nội cần
giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế du lịch, gắn với bảo tồn, giữ
gìn các di sản, bảo vệ môi trường sinh thái, sớm đưa du lịch thực sự trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn của Thủ đô. Đây cũng chính là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Với lý do đó tác giả chọn vấn đề: “Phát triển kinh tế du lịch bền vững ở thành
phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trước sức ép từ sự bùng nổ du lịch lên môi trường sống của con người,
phải đến những năm 90 của thế kỷ XX người ta mới bắt đầu đề cập đến khái

niệm “Du lịch bền vững”. Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu
về phát triển du lịch, với cách tiếp cận là một hoạt động kinh tế theo hướng
bền vững nhưng chưa nhiều, chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống.
Trong đó, tiêu biểu có các công trình khoa học sau:
“Du lịch bền vững”, tác giả Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năm 2001. Cuốn sách giới thiệu những vấn đề về mối quan
hệ giữa du lịch và môi trường. Khái niệm, nguyên tắc, chính sách của du lịch
bền vững, du lịch bền vững ở những vùng sinh thái nhạy cảm như du lịch
miền núi, du lịch ven biển, du lịch sinh thái.
“Cơ sở khoa học và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam”,
đề tài cấp Nhà nước do Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trung Lương - Viện Nghiên
cứu Phát triển Du lịch làm Chủ nhiệm đề tài, năm 2002. Đề tài khá toàn diện
trong nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững từ trước tới nay, trong đó đã hệ
thống hoá các vấn đề lý luận về phát triển du lịch bền vững; xác định những
vấn đề cơ bản đặt ra đối với phát triển du lịch bền vững thông qua phân tích
thực trạng phát triển du lịch Việt Nam từ năm 1992. Tổng quan một số kinh
nghiệm quốc tế về phát triển du lịch bền vững; đề xuất hệ thống các giải pháp
đảm bảo phát triển du lịch bền vững trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam; thử
nghiệm nghiên cứu mô hình phát triển du lịch bền vững ở khu vực cụ thể.
4
Luận án tiến sĩ kinh tế có một số công trình: “Một số giải pháp phát
triển du lịch bền vững thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010”, tác giả Đoàn
Liêng Diễm, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003.
Luận án đã trình bày tổng quan những vấn đề lý luận - thực tiễn về phát triển
du lịch bền vững; thực trạng và tiềm năng phát triển, giải pháp và phác họa
mô hình phát triển du lịch bền vững. “Phát triển du lịch bền vững ở Phong
Nha - Kẻ Bàng”, tác giả Trần Tiến Dũng, Trường Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội, năm 2006. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận và kinh nghiệm
quốc tế về phát triển du lịch bền vững; chỉ ra thực trạng và c ác giải pháp
phát triển du lịch bền vững ở Phong Nha - Kẻ Bàng.

Phát triển kinh tế du lịch gắn với quốc phòng - an ninh, những năm vừa
qua đã có một số công trình đi sâu nghiên cứu. Luận án tiến sĩ kinh tế của tác
giả Nguyễn Đình Sơn, hoàn thành năm 2007 về: “Phát triển kinh tế du lịch ở
vùng du lịch Bắc Bộ và tác động của nó tới quốc phòng - an ninh”. Luận án chỉ
ra những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch kết hợp
với củng cố quốc phòng - an ninh. Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở vùng
du lịch Bắc Bộ và tác động của nó tới quốc phòng - an ninh. Phương hướng,
mục tiêu và giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế du lịch ở Vùng du lịch Bắc
Bộ kết hợp với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh.
Luận văn thạc sĩ kinh tế có các công trình: “Phát triển kinh tế du lịch
và tác động của nó tới quốc phòng - an ninh trên địa bàn tỉnh Hà Tây”, tác
giả Nguyễn Đình Sơn, hoàn thành năm 2003; “Phát triển kinh tế du lịch
biển và tác động của nó đến củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Khánh
Hòa hiện nay”, tác giả Mai Văn Điệp, hoàn thành năm 2006; “Phát triển
kinh tế du lịch ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay”, tác giả Nguyễn Anh Tuấn, hoàn
thành năm 2009; “Phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền an
ninh biên giới ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay”, tác giả Trần Quốc Hoàn, hoàn
thành năm 2010. Các công trình đã đi sâu nghiên cứu khái niệm du lịch, kinh
5
tế du lịch, một vài công trình đã phân tích tác động của việc phát triển kinh
tế du lịch đến quốc phòng - an ninh; đồng thời chỉ ra thực trạng và giải pháp
nhằm phát triển kinh tế du lịch, phát triển kinh tế du lịch gắn với củng cố
quốc phòng - an ninh ở một địa phương cụ thể.
Ở thành phố Hà Nội, đã có một số công trình nghiên cứu về địa chất,
địa mạo, đa dạng sinh học cũng như việc đẩy mạnh phát triển du lịch. Tiêu
biểu có những công trình sau:
“Du lịch Thăng Long - Hà Nội” của Tiến sĩ Trương Sỹ Vinh làm chủ biên,
Nhà xuất bản Hà Nội, năm 2010. Cuốn sách giới thiệu tổng quan những giá trị tự
nhiên, văn hóa lịch sử có ý nghĩa với sự phát triển du lịch của Hà Nội; khái quát
những thành tựu của ngành Du lịch Hà Nội qua các thời kỳ phát triển (chủ yếu là

trước thời điểm Hà Nội mở rộng địa giới hành chính - 01/8/2008); phân tích
những cơ hội, thách thức đối với du lịch Thủ đô trong quá trình hội nhập và phát
triển, đồng thời đưa ra phương hướng phát triển du lịch Hà Nội trong thời gian tới.
Về phía luận văn, luận án có các công trình sau: “Những giải pháp chủ
yếu để phát triển du lịch trên địa bàn Hà Nội”, tác giả Bùi Thị Nga, Luận án
phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Học viện Quân y, Hà Nội, năm 1996; “Giải pháp
cơ bản khai thác tiềm năng du lịch của Thủ đô và phụ cận nhằm phát triển du
lịch Hà Nội đến năm 2010”, tác giả Nguyễn Thị Nguyên Hồng, Luận án tiến
sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội, năm 2004; “Một số giải
pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp du
lịch nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tiến trình hội nhập khu
vực và thế giới”, tác giả Vũ Đức Minh, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại
học Thương mại, Hà Nội, năm 2004; “Phát triển du lịch theo hướng bền
vững ở khu vực tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội)”, tác giả Hồng Thị Minh,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008; “Một số giải
pháp phát triển du lịch Hà Nội”, tác giả Lưu Anh Tuấn, Luận văn thạc sĩ kinh
tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009; “Xúc tiến đầu tư phát triển du lịch
6
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, tác giả Hoàng Văn Hoàn, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội, năm 2010. Các luận văn, luận
án đã hệ thống hóa lý luận cơ bản về du lịch, phát triển du lịch, nguồn nhân
lực du lịch, xúc tiến đầu tư du lịch…; chỉ ra những tiềm năng và lợi thế (tài
nguyên thiên nhiên và truyền thống văn hóa lịch sử của Thủ đô ngàn năm văn
hiến); thực trạng phát triển du lịch Hà Nội về quy hoạch, chính sách đầu tư,
điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ lao động, thị trường, vai trò quản lý nhà
nước… đồng thời đưa ra những định hướng và giải pháp để phát triển du lịch
Hà Nội từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Ngoài các công trình, luận văn, luận án nêu trên, một số bài báo khoa
học có liên quan đến chủ đề của luận văn đã được công bố trên một số tạp chí
chuyên ngành như: “Thực trạng và những vấn đề đặt ra để phát triển du lịch bền

vững”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 12/2004 của tác giả Phạm Trung Lương;
“Xây dựng môi trường phát triển du lịch bền vững”, tác giả Nguyễn Trọng
Hoàng, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 12/2004; “Bảo vệ các cảnh quan và đa
dạng sinh học để phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam”, tác giả Đặng
Huy Huỳnh, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 5/2005; “Môi trường xã hội
nhân văn để phát triển du lịch bền vững”, tác giả Nguyễn Thế Kỷ, Tạp chí Du
lịch Việt Nam, số 7/2005; “Môi trường tự nhiên với phát triển du lịch bền
vững ở Việt Nam”, tác giả Phạm Lê Thảo, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số
8/2005;“Môi trường làng nghề với việc phát triển du lịch bền vững”, tác giả
Lê Hải, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 3/2006; “Phát triển du lịch bền vững
quan hệ gắn bó với quốc phòng - an ninh”, tác giả Nguyễn Đình Sơn, Tạp chí
Du lịch Việt Nam, số 6/2006;
“Phát triển bền vững
du lịch Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, tác giả
Nguyễn Văn Mạnh,
Tạp chí Du
lịch Việt Nam, số 1/2008; “Du lịch Hà Nội: Hội nhập và hướng tới phát triển
bền vững”, bài tham luận của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hà Văn Hội tại Hội thảo
“Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”, Báo
7
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 8/10/2010. Nội dung các bài báo khoa học
của các tác giả kể trên đã đề cập một cách chung nhất về phát triển du lịch bền
vững, đồng thời chỉ ra các mối liên hệ, tác động giữa phát triển du lịch bền
vững với các yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái, văn hóa
- xã hội, quốc phòng - an ninh, đường lối đối ngoại…
Tóm lại, từ góc độ phát triển du lịch bền vững với hướng tiếp cận là một
hoạt động kinh tế trong phạm vi cả nước và từng địa phương đã có một số công
trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở khoa học quan trọng
giúp tác giả làm tư liệu tham khảo trong luận văn của mình. Song tác giả thấy

rằng, cho đến nay vấn đề phát triển kinh tế du lịch bền vững ở Hà Nội chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách cách đầy đủ, có hệ thống. Vì vậy,
đề tài của luận văn không trùng lắp với bất kỳ công trình nào đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi của luận văn
* Mục đích:
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch bền vững
ở thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm phát triển
kinh tế du lịch bền vững của Thủ đô trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
Luận giải những vấn đề lý luận về phát triển kinh tế du lịch bền vững.
Phân tích tiềm năng, thực trạng phát triển kinh tế du lịch của thành phố
Hà Nội trên quan điểm phát triển bền vững.
Đề xuất các quan điểm, giải pháp để phát triển kinh tế du lịch bền vững
ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Đối tượng nghiên cứu: luận văn đi sâu nghiên cứu phát triển kinh tế
du lịch bền vững ở thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu phát triển kinh tế du lịch
bền vững ở thành phố Hà Nội, số liệu điều tra khảo sát giai đoạn 2000 - 2010.
8
Về không gian: Toàn bộ thành phố Hà Nội trước và sau khi điều chỉnh
địa giới hành chính (01/8/2008).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam và các Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ, Ban Chấp hành Thành
ủy Hà Nội về phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, trong đó có đề cập đến phát
triển kinh tế du lịch; đồng thời luận văn sử dụng số liệu khảo sát thực tế, tham
khảo các tài liệu và kế thừa kết quả của các công trình khoa học có liên quan
đã công bố trước đó.

* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử
dụng phương pháp chung là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học kinh tế chính trị là phương pháp
trừu tượng hóa khoa học. Ngoài ra, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác như: phương pháp thống kê, so sánh, thu thập, phân tích, tổng hợp tài
liệu, phương pháp điều tra khảo sát thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung về phát triển kinh tế du
lịch bền vững; phân tích tiềm năng du lịch, đánh giá những thành tựu cũng
như hạn chế trong phát triển kinh tế du lịch bền vững ở thành phố Hà Nội thời
gian qua; đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế
du lịch bền vững ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới; góp phần cung cấp
thêm cơ sở khoa học cho việc xác định chủ trương, giải pháp phát triển kinh
tế du lịch bền vững ở thành phố Hà Nội và các địa phương khác.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH BỀN VỮNG Ở THÀNH PHỐ
HÀ NỘI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề chung về phát triển kinh tế du lịch bền vững
1.1.1. Phát triển kinh tế du lịch bền vững
* Khái quát quan niệm về du lịch
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như một sở
thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Thuật ngữ du lịch bắt
nguồn từ tiếng Hy Lạp: “Tonos” - nghĩa là đi một vòng. Sau này được La tinh
hoá thành “Turnur” và sau đó thành “Tour” (tiếng Pháp), nghĩa là đi vòng
quanh, cuộc dạo chơi. Theo Robert Langquar, từ Tourism (du lịch) lần đầu
tiên xuất hiện trong tiếng Anh vào khoảng năm 1800 và được quốc tế hoá nên

nhiều nước đã sử dụng trực tiếp mà không dịch nghĩa.
Về khái niệm du lịch, do hoàn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, góc
độ nghiên cứu khác nhau, mỗi tác giả lại có một cách hiểu khác nhau. Khi
điểm lại các công trình nghiên cứu về du lịch, Giáo sư, Tiến sĩ Berkener, một
chuyên gia uy tín về lĩnh vực du lịch trên thế giới, đã đưa ra nhận xét: “Đối
với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa” [14,
tr.9]. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, tác giả không đi sâu phân tích các
quan niệm khác nhau về du lịch mà chỉ đưa ra quan niệm chung nhất, bảo
đảm tính hệ thống cho luận văn mà thôi.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, theo Các Mác:
“Sản xuất, coi là trực tiếp đồng nhất với tiêu dùng và tiêu dùng coi là trực tiếp
ăn khớp với sản xuất, cái đó các nhà kinh tế học gọi là tiêu dùng sản xuất”,
“Tiêu dùng đồng thời cũng trực tiếp là sản xuất, cũng giống như trong tự
nhiên, tiêu dùng các nguyên tố hóa chất là sự sản xuất ra thực vật” [26,
tr.600]. Du lịch cũng vậy, đây là hoạt động của con người luôn diễn ra đồng
thời cả hai mặt sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm du lịch, trong đó, người
kinh doanh du lịch tạo ra và cung ứng các sản phẩm du lịch đảm bảo nhu cầu
10
của du khách, còn khách du lịch là những người trả tiền để được tiêu dùng các
sản phẩm đó. Chỉ khi hai hoạt động diễn ra đồng thời thì mới đảm bảo một
tour du lịch hoàn chỉnh. Như vậy, du lịch là một hoạt động có sự thống nhất
biện chứng giữa người cung cấp và người tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ du
lịch. Dựa trên cách tiếp cận trên có thể tách thuật ngữ “Du lịch” thành hai
phần để định nghĩa nó, qua đó “Du lịch” được hiểu như sau:
Thứ nhất, du lịch là “sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong
thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích
phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc
không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch
vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng” [44, tr.18].
Thứ hai, du lịch là “một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn

nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong
thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục
hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh” [44, tr.18].
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành
phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch vừa
có đặc điểm của ngành kinh tế lại vừa có đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội.
* Khái quát quan niệm về kinh tế du lịch
Vẫn theo hướng tiếp cận đảm bảo tính hệ thống cho luận văn, tác giả
không đi sâu phân tích các quan niệm khác nhau về kinh tế du lịch mà chỉ đưa
ra quan niệm mang tính khái quát nhất theo góc độ nghiên cứu.
Ở giai đoạn đầu do trình độ phát triển của sản xuất còn thấp, giao thông đi
lại khó khăn nên hoạt động du lịch chưa thực sự phổ biến, chủ yếu của vua chúa,
quý tộc. Mối quan hệ kinh tế trong hoạt động du lịch còn mang tính ngẫu nhiên,
chưa được coi là một ngành kinh tế riêng biệt. Đến giữa thế kỷ XIX, sự phát triển
nhanh chóng của du lịch, đã đưa du lịch ngày càng trở thành một bộ phận quan
trọng của hoạt động kinh tế - xã hội; trên thế giới bắt đầu hình thành một ngành
nghề mới, ngành du lịch - lấy doanh lợi làm mục đích gọi là kinh tế du lịch.
11
Trên thế giới cũng như Việt Nam có nhiều quan niệm khác nhau về kinh
tế du lịch. Theo các tác giả Đổng Ngọc Minh và Vương Lôi Đình (Trung
Quốc): về bản chất “Kinh tế du lịch là một hoạt động kinh tế, là tổng thể các
hành vi phối hợp với nhau của hoạt động kinh tế nói chung với hoạt động kinh
tế du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu về du lịch” [27, tr.228]. Ở Việt Nam,
trong Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Kinh tế du lịch là một loại
hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ và thường được xem như ngành
công nghiệp không khói, gồm du lịch quốc tế và du lịch trong nước, có chức
năng nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và cảnh quan của đất nước
(tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hóa, lịch sử…) nhằm thu hút
khách du lịch trong nước và ngoài nước tổ chức buôn bán xuất nhập khẩu tại
chỗ hàng hóa dịch vụ cho khách du lịch” [54, tr.586].

Từ các quan niệm trên cho thấy, cách tiếp cận của các tác giả mới chỉ đề
cập đến mặt kinh tế - kỹ thuật là chủ yếu mà chưa đề cập hoặc có đề cập thì cũng
chưa thực sự rõ nét mặt kinh tế - xã hội trong hoạt động kinh doanh du lịch - đó
là yếu tố con người, mối quan hệ, tác động lẫn nhau giữa con người với con
người, con người với tự nhiên trong vai trò là chủ thể sáng tạo ra các sản phẩm
du lịch và đồng thời cũng là lực lượng tiêu thụ những sản phẩm đó. Đứng trên
góc độ của kinh tế chính trị học, tác giả cho rằng kinh tế du lịch là tổng hòa các
mối quan hệ giữa các hiện tượng kinh tế với kinh tế, kinh tế với xã hội, nó được
hình thành trên cơ sở phát triển sản xuất, trao đổi hàng hóa cùng nhu cầu về vật
chất, tinh thần ngày càng nâng cao của con người. Từ góc tiếp cận đó, tác giả
nhất trí cao với quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Đình Sơn: “Kinh tế du lịch là một
ngành kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực du lịch dịch vụ, nó là một loại hình kinh
tế phản ánh bước tiến mới của lực lượng sản xuất, là quá trình tổ chức khai thác
các tài nguyên du lịch của đất nước thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách
du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hóa
và dịch vụ thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng cho du khách, góp phần nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
12
Ở các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì có mục đích, tính chất
và chiến lược phát triển kinh tế du lịch khác nhau” [42, tr.23].
Dựa trên cơ sở quan niệm của các học giả đi trước, tác giả cho rằng:
Thứ nhất, kinh tế du lịch là một loại hình kinh tế có tính đặc thù. Nó đề
cập đến các hoạt động kinh doanh thuộc lĩnh vực du lịch, trong đó loại hình
dịch vụ là chủ yếu. Trên cơ sở tài nguyên du lịch, chủ thể kinh doanh tạo ra
những sản phẩm hàng hóa du lịch đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn, hưởng thụ
của du khách. Trên thị trường du lịch, ngoài những đặc điểm như hàng hóa nói
chung, sản phẩm du lịch còn có các đặc điểm riêng: nó có thể vừa là vật chất
hoặc phi vật chất khi đem ra trao đổi giữa nhà cung cấp du lịch với khách du
lịch và cái được đối với du khách là sự cảm giác, trải nghiệm hay hưởng thụ.
Sự trao đổi này cũng không làm thay đổi quyền sở hữu sản phẩm du lịch, trong

quá trình chuyển đổi cũng không xảy ra sự dịch chuyển sản phẩm, chỉ là du
khách có quyền sở hữu tạm thời sản phẩm du lịch tại nơi mình đến. Cùng một
sản phẩm du lịch có thể bán được nhiều lần cho nhiều du khách khác nhau sử
dụng, còn quyền sở hữu trước sau vẫn thuộc về người cung cấp sản phẩm đó.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của kinh tế du lịch mang tính thời vụ cao.
Tính thời vụ trong kinh doanh du lịch tồn tại bởi tác động của tập hợp nhiều
nhân tố như các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, cách thức tổ chức, kỹ thuật,
tâm lý, phong tục, tập quán, cung - cầu trên thị trường… Ngoài ra, tình hình
thời tiết, biến đổi khí hậu, thiên tai, quốc phòng - an ninh… cũng là nhân tố tác
động đến tính thời vụ trong kinh doanh du lịch. Một số nhân tố tác động chủ
yếu lên cung du lịch, một số khác tác động chủ yếu lên cầu du lịch, có nhân tố
tác động lên cả cung và cầu du lịch. Tính thời vụ trong kinh doanh du lịch được
biểu hiện ra là: các khu du lịch nghỉ mát thường vắng khách vào mùa đông
nhưng lại rất đông khách vào mùa h•; các khu du lịch tâm linh thu hút được
nhiều khách du lịch vào các mùa lễ hội; các nhà hàng trong khách sạn thường
đông khách ăn vào trưa hoặc chiều tối; hoặc các khách sạn gần trung tâm thành
phố thường đông khách vào ngày nghỉ cuối tuần…
13
Thứ ba, chức năng, nhiệm vụ của kinh tế du lịch là tổ chức khai thác các
tài nguyên du lịch của đất nước - gồm các tài nguyên du lịch thiên nhiên (đất
đai, khí hậu, sông suối, rừng núi…); tài nguyên du lịch nhân văn (các di tích
cổ, kiến trúc cổ, ẩm thực, tôn giáo, hội họa…) - từ đó xây dựng nên những sản
phẩm du lịch hấp dẫn nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước; thực
hiện các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ du lịch, thu ngoại tệ
góp phần tăng thu nhập quốc dân cho địa phương và quốc gia đó.
Thứ tư, quá trình phát triển của kinh tế du lịch gắn liền với quá trình vận
động phát triển của lực lượng sản xuất. Kinh tế du lịch là một trong những nhân tố
phản ánh lực lượng sản xuất xã hội ở một trình độ phát triển trong một giai đoạn
lịch sử nhất định, nó luôn gắn liền với quá trình phát triển của con người, thể hiện
quá trình sản xuất và tiêu dùng của con người ở một trình độ cao hơn, sản xuất

hàng hóa và dịch vụ đa dạng, phong phú hơn. Khi lực lượng sản xuất càng phát
triển thì kinh tế du lịch càng có môi trường hoạt động rộng rãi và khả năng liên kết
cao với các ngành kinh tế khác, giữa các vùng miền, khu vực, các quốc gia dân
tộc với nhau thông qua mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình
sản xuất, tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ du lịch. Nó thúc đẩy việc mở rộng mối
quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, giúp con người
chinh phục, cải tạo, bảo vệ thiên nhiên có hiệu quả bền vững hơn.
Thứ năm, các quốc gia có điều kiện kinh tế và chế độ chính trị - xã hội
khác nhau thì quan điểm, mục đích và chiến lược phát triển kinh tế du lịch khác
nhau. Ở mỗi một quốc gia lại có điều kiện kinh tế, văn hóa lịch sử, tài nguyên
và chế độ chính trị - xã hội khác nhau nên việc xác định quan điểm, mục đích,
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế du lịch không một quốc gia nào giống
quốc gia nào. Tùy vào điều kiện riêng, từng nước sẽ xác định quan điểm, mục
tiêu (trước mắt, trung hạn, dài hạn), quy mô phát triển, sản phẩm du lịch đặc
thù… trong chiến lược phát triển kinh tế du lịch của quốc gia mình. Các quốc
gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau có mục đích phát triển kinh tế du lịch
khác nhau ở chỗ phân chia lợi ích từ hoạt động kinh doanh du lịch (những lợi
ích đó sẽ đem lại cho ai, ai là người được hưởng thụ những nguồn lợi mà kinh
14
tế du lịch đem lại) và bằng việc họ phân chia tỷ lệ, quan tâm đến mức độ như
thế nào với tiêu chí kinh tế, tiêu chí văn hóa - xã hội, tiêu chí môi trường sinh
thái… trong quá trình phát triển kinh tế du lịch. Ở các nước tư bản chủ nghĩa,
mục đích hàng đầu, tối thượng là tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở khai thác một
cách triệt để, cùng kiệt các tài nguyên du lịch (trong thời hạn hợp đồng kinh
doanh du lịch) và tất nhiên, hầu hết phần lợi nhuận đó thuộc về nhà tư bản nắm
quyền sở hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; các tiêu chí về văn hóa - xã
hội, bảo tồn tài nguyên du lịch, môi trường sinh thái thường ít được quan tâm
và coi trọng đúng mức. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, việc phát triển kinh
tế du lịch bền vững luôn được cân nhắc, tính toán cẩn thận trong việc ưu tiên
hợp lý, thỏa đáng đối với cả 3 tiêu chí: kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường

sinh thái. Những lợi ích mang lại được phân chia công bằng, bình đẳng cho cả
doanh nghiệp, cơ quan quản lý Nhà nước, chính quyền và nhân dân địa
phương. Tất cả mọi người đều có cơ hội được thụ hưởng những giá trị đích
thực từ chiến lược phát triển kinh tế du lịch bền vững.
* Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch bền vững
Hiện nay, phát triển kinh tế du lịch bền vững đang nhận được sự quan
tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trên thế giới; tuy nhiên, đây là một phạm trù
còn khá mới mẻ nên còn nhiều quan điểm khác nhau:
Với cách tiếp cận là một hoạt động kinh tế, tác giả Machado định
nghĩa: Du lịch bền vững là “các hình thức du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại
của khách du lịch, ngành du lịch và cộng đồng địa phương nhưng không ảnh
hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Du lịch khả thi
về kinh tế nhưng không phá hủy tài nguyên mà tương lai của du lịch phụ
thuộc vào đó, đặc biệt là môi trường tự nhiên và kết cấu xã hội của cộng đồng
địa phương” [7, tr.13]. Theo định nghĩa trên, tác giả mới chỉ tập trung vào
tính bền vững của các hình thức du lịch (sản phẩm du lịch), chứ chưa đề cập
một cách tổng quát tính bền vững cho toàn ngành Du lịch.
Theo Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới: “Du lịch bền vững là việc
đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn bảo đảm
15
những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai” [20, tr.63].
Dựa trên quan điểm phát triển bền vững thì định nghĩa trên là tương đối khái
quát. Tuy nhiên, định nghĩa này còn quá chung chung, chỉ mới đề cập sự đáp
ứng nhu cầu của du khách hiện tại và tương lai chứ chưa nói đến nhu cầu của
cộng đồng dân cư địa phương, đến môi trường sinh thái, đa dạng sinh học.
Định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới: “Du lịch bền vững là việc
phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách du
lịch và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo
các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch tương lai. Du lịch
bền vững sẽ có kế hoạch quản lý các nguồn tài nguyên nhằm thỏa mãn các

nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mỹ của con người trong khi đó vẫn duy trì
được sự toàn vẹn về văn hóa, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh
thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống con người” [7, tr.14]. Đây là một
định nghĩa khá hoàn chỉnh, hàm chứa được nội dung, các yếu tố liên quan đến
kinh tế du lịch bền vững. Định nghĩa này cũng đã chú trọng đến cộng đồng
dân cư địa phương, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa.
Ở Việt Nam khái niệm phát triển kinh tế du lịch bền vững đã được đề
cập đến và cũng xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trung Lương - Viện Nghiên cứu
Phát triển Du lịch cho rằng: “Phát triển du lịch bền vững là một hoạt động khai
thác một cách có quản lý các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn nhu cầu
đa dạng của khách du lịch, có quan tâm đến lợi ích kinh tế dài hạn trong khi vẫn
đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên, duy trì được sự
toàn vẹn văn hóa để phát triển hoạt động du lịch trong tương lai; cho công tác bảo
vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng địa phương” [25].
Ngoài ra, trong cuốn “Du lịch bền vững”, tác giả Nguyễn Đình Ho•,
Vũ Văn Hiếu đã chỉ ra 10 nguyên tắc phát triển kinh tế du lịch bền vững [20,
tr.65-66]; Hội đồng khoa học của Tổng cục Du lịch cũng đã đưa ra 12 mục
tiêu phát triển kinh tế du lịch bền vững [7, tr.15].
16
Các quan điểm trên thế giới cũng như Việt Nam đã đề cập nhiều đến
mục tiêu, nguyên tắc của phát triển kinh tế du lịch bền vững. Trên cơ sở kế
thừa những quan niệm của các học giả đi trước, kết hợp với thực tế nghiên
cứu quá trình phát triển kinh tế du lịch ở thành phố Hà Nội, tác giả cho rằng:
Phát triển kinh tế du lịch bền vững là một hoạt động kinh tế, dựa trên cơ sở
khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch để tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo,
chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của du khách, góp phần mở rộng các nguồn
lực sản xuất, duy trì ổn định và lâu dài các chỉ tiêu tăng trưởng, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, thúc đẩy văn hóa - xã
hội địa phương phát triển, có đóng góp tích cực vào bảo vệ môi trường sinh

thái, giữ gìn tài nguyên du lịch cho các thế hệ tương lai và bảo đảm ổn định
về quốc phòng - an ninh, trật tự - toàn xã hội trên địa bàn.
Từ cách hiểu về “Phát triển kinh tế du lịch bền vững”, tác giả quan niệm:
Thứ nhất, cơ sở quan trọng nhất trong phát triển kinh tế du lịch bền
vững là tạo ra được các sản phẩm du lịch độc đáo, chất lượng cao hay nói
cách khác chính là những “sản phẩm du lịch bền vững”
Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu
của khách du lịch trong chuyến đi du lịch. Nó được được tạo nên bởi sự kết
hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn
lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc
gia nào đó… hợp thành tổ hợp các dịch vụ đáp ứng nhu cầu, mong muốn tiêu
dùng của du khách kể từ lúc họ rời khỏi nhà cho đến khi họ về.
Tiêu chí của sản phẩm du lịch bền vững cần đáp ứng các yêu cầu về chất
lượng, tính đặc thù và hiệu quả kinh tế. Tiêu chí về tính đặc thù đòi hỏi các sản
phẩm du lịch khi trùng tu, tôn tạo nên giữ đúng hình thái nguyên thủy vốn có
nhằm phân biệt nét độc đáo của sản phẩm giữa các vùng miền, nâng cao tính cạnh
tranh trong việc thu hút du khách. Đối với tiêu chí về kinh tế: mọi sản phẩm du
lịch bền vững phải luôn mang tính sáng tạo, có sức hấp dẫn, có hàm lượng khoa
học cao và có thể phân phối cho nhiều người một lúc, nhiều người sử dụng, giá trị
17
tăng thêm lớn, đem lại lợi ích kinh tế cho ngành, cho dân cư địa phương và cho xã
hội, đồng thời phải duy trì lợi ích ấy trong khoảng thời gian dài. Tiêu chí về chất
lượng: sản phẩm du lịch phải kết hợp được cả tính hiện đại và tính dân tộc, thỏa
mãn tối đa nhu cầu của du khách, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của thị trường,
đảm bảo an toàn, đồng thời phải được sản xuất trong điều kiện không ô nhiễm và
quá trình sử dụng không làm ô nhiễm môi trường, mai một giá trị văn hóa bản địa.
Các tiêu chí được quan tâm đầy đủ trong quá trình sản xuất, cung ứng các sản
phẩm du lịch phục vụ du khách là cơ sở để kéo dài chu kỳ sống của chính nó.
Thứ hai, nội dung phát triển kinh tế du lịch bền vững thể hiện trên 3
khía cạnh, đó là: sự bền vững về kinh tế; sự bền vững về văn hóa, xã hội; sự

bền vững về môi trường.
Sự bền vững về kinh tế: Sự phát triển của kinh tế du lịch phải bảo đảm
tăng trưởng hiệu quả, ổn định và lâu dài về kinh tế. Kinh tế du lịch phải tạo ra
nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế - xã hội nói
chung và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của một quốc gia, của
địa phương có tài nguyên du lịch.
Sự bền vững về văn hóa, xã hội: Không ngừng nâng cao và cải thiện chất
lượng cuộc sống cho tất cả mọi người trong suốt quá trình phát triển. Quá trình khai
thác đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế du lịch hiện tại không làm tổn hại, suy thoái
các giá trị văn hóa truyền thống đã có và để lại hậu quả xấu cho các thế hệ tiếp theo.
Sự bền vững về môi trường: Phát triển kinh tế du lịch không làm suy
thoái hay hủy diệt môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Việc sử dụng
các tài nguyên không vượt quá khả năng tự phục hồi của nó, vừa đáp ứng
được nhu cầu phát triển hiện tại song không làm suy yếu khả năng tái tạo cho
tương lai để đáp ứng được nhu cầu cho thế hệ mai sau.
Thứ ba, các tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế du lịch bền vững.
Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế du lịch bền
vững là cơ sở để các doanh nghiệp lữ hành, du khách, cơ quan quản lý và cộng
đồng nhận thức và hành động đúng trong quá trình phát triển kinh tế du lịch.
Theo đó, phát triển kinh tế du lịch bền vững cần có những tiêu chí sau đây:
18
Một là, tiêu chí về quy hoạch, quản lý du lịch.
Đây là cơ sở đầu tiên để xây dựng các tiêu chí khác. Phát triển bền vững
phải được đặt ra trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển, bắt đầu
từ việc thiết kế, thi công cơ sở hạ tầng du lịch: phải chấp hành những quy định
về bảo tồn di sản tại địa phương; tôn trọng những di sản thiên nhiên và phong
tục tập quán của địa phương trong công tác thiết kế; đánh giá được những tác
động cả tích cực, tiêu cực và áp dụng các phương pháp xây dựng bền vững phù
hợp. Trong công tác quản lý du lịch, cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch, các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch cần thực hiện hệ thống quản lý chặt chẽ, phù

hợp với quy mô và khả năng của mình để góp phần giải quyết tốt các vấn đề về
môi trường, văn hóa xã hội, sức khỏe và an toàn cho cộng đồng; tuân thủ luật
pháp và quy định có liên quan đến lĩnh vực du lịch; tất cả nhân viên được đào
tạo định kỳ về nhiệm vụ của họ trong quản lý môi trường, văn hóa xã hội, sức
khỏe và các thói quen an toàn; cần lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của khách
hàng để có các biện pháp điều chỉnh phù hợp; quảng cáo đúng sự thật về các sản
phẩm du lịch; cung cấp thông tin cho khách hàng về môi trường du lịch, di sản,
văn hóa địa phương, đồng thời giải thích cho họ những quy định khi tham quan
các khu vực tự nhiên, di sản văn hóa quốc gia và thế giới.
Hai là, tiêu chí về kinh tế.
Tiêu chí về kinh tế được đánh giá dựa trên sự phát triển ổn định và lâu dài
của sản phẩm du lịch, tạo ra nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào tăng trưởng
kinh tế của xã hội và đem lại lợi ích cho cộng đồng, đặc biệt là cho người dân địa
phương nơi có tiềm năng du lịch. Lấy doanh thu hay mức tăng GDP, GNP từ
ngành Du lịch là tiêu chí quan trọng để bảo đảm sự tồn tại cho hoạt động kinh tế
du lịch, song phải đảm bảo sự tăng trưởng ổn định, hiệu quả và bền vững. Tổ chức
kinh doanh các sản phẩm du lịch dựa trên điều kiện về thiên nhiên, lịch sử và văn
hóa địa phương (bao gồm thức ăn, nước uống, sản phẩm thủ công, nghệ thuật biểu
diễn và các mặt hàng nông sản) nhằm không ngừng thu hút, gia tăng số lượng du
khách đến tham quan và quay trở lại các điểm du lịch; chú trọng việc sử dụng hợp
19
lý tài nguyên du lịch trong quá trình sản xuất kinh doanh, tận dụng tối đa các
nguồn tài nguyên có thể tái tạo; chủ động chia sẻ lợi nhuận thu được từ kinh
doanh du lịch (tài chính, nhân lực hoặc vật chất) để hỗ trợ các hoạt động phục vụ
cộng đồng với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Ba là, tiêu chí về môi trường, sinh thái.
Kinh tế du lịch có mối quan hệ gắn bó mật thiết với môi trường, sinh thái.
Vì vậy, phát triển kinh tế du lịch bền vững đòi hỏi phải khai thác và sử dụng hợp
lý (không vượt quá khả năng tự phục hồi) các nguồn tài nguyên tái sinh và
không tái sinh, tìm cách gia tăng sự bền vững của môi trường và giảm nhẹ tác

động tiêu cực, vừa đảm bảo nhu cầu hiện tại cũng như nhu cầu của thế hệ mai
sau. Có biện pháp tích cực trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên (ưu tiên phát triển
những sản phẩm du lịch, dịch vụ thân thiện môi trường; cân nhắc thận trọng khi
xây dựng các sản phẩm tiêu dùng khó phân hủy và hạn chế sử dụng các sản
phẩm ảnh hưởng không tốt tới môi trường sinh thái; thực hiện các hoạt động tiết
kiệm năng lượng đồng thời ứng dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng mới,
khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo; có biện pháp sử dụng lượng nước hợp
lý, lắp các thiết bị tiết kiệm nước, thu hồi và sử dụng nước mưa); giảm thiểu ô
nhiễm môi trường (kiểm soát lượng khí thải, thay mới các công nghệ sản xuất
nhằm hạn chế hiệu ứng nhà kính, hướng đến cân bằng khí hậu; phân loại rác thải
để xử lý riêng; sử dụng sản phẩm thân thiện môi trường (sản phẩm làm từ vật
liệu tái chế, chất tẩy rửa có nguồn gốc hữu cơ, sản phẩm có nhãn xanh), hạn chế
sử dụng các hóa chất độc hại như thuốc trừ sâu, sơn, thuốc tẩy, thay thế bằng các
sản phẩm không độc hại, quản lý chặt chẽ các hóa chất được sử dụng; áp dụng
các quy định giảm thiểu ô nhiễm tiếng ồn, ánh sáng, nước thải, chất gây xói
mòn, hợp chất gây suy giảm tầng ôzôn và chất làm ô nhiễm không khí, đất; tham
gia vào các chiến dịch về môi trường hay biến đổi khí hậu của địa phương và
quốc tế (chương trình Giờ trái đất, trồng cây xanh, đi xe đạp…); bảo tồn đa
dạng sinh học, hệ sinh thái và cảnh quan tự nhiên (không bắt giữ và tiêu thụ
động vật hoang dã; không bán quà lưu niệm, thực phẩm, món ăn làm từ động,
20
thực vật hoang dã được bảo vệ theo pháp luật và các công ước quốc tế; có chính
sách, chương trình đào tạo, bảng thông tin phổ biến luật về bảo tồn đa dạng sinh
học, hệ sinh thái, cảnh quan, khai thác, mua bán động, thực vật hoang dã cho
nhân viên và khách hàng; đóng góp ủng hộ cho hoạt động bảo tồn đa dạng sinh
học; hạn chế mọi tác động tiêu cực lên hệ sinh thái tự nhiên, cảnh quan môi
trường).
Bốn là, tiêu chí về văn hóa.
Phát triển kinh tế du lịch mà các giá trị văn hóa bị hủy hoại hoặc biến
dạng sẽ không còn đủ sức thuyết phục, hấp dẫn du khách. Do vậy, kinh tế du

lịch bền vững phải dựa trên cơ sở gia tăng lợi ích đối với các di sản văn hóa
và giảm nhẹ các tác động tiêu cực; quá trình khai thác vừa đáp ứng nhu cầu
hiện tại nhưng không làm tổn hại, suy thoái các giá trị văn hóa truyền thống
đã có và để lại hậu quả xấu cho các thế hệ tiếp theo.
Tiêu chí về văn hóa đòi hỏi phải: Tuân thủ các hướng dẫn và quy định
về hành vi ứng xử khi tham quan các điểm văn hóa hay lịch sử, nhằm giảm
nhẹ các tác động từ du khách; cung cấp, hướng dẫn và giải thích cho du khách
thông tin về di sản văn hóa, di sản thiên nhiên tại địa phương để du khách có thái
độ và hành vi phù hợp khi tham quan các điểm du lịch; thể hiện nét văn hóa,
truyền thống của địa phương trong kiến trúc, các dịch vụ của cơ sở lưu trú;
tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của dân cư bản địa khi sử dụng nghệ thuật, kiến
trúc, các di sản văn hóa của địa phương trong hoạt động kinh doanh, thiết kế,
trang trí, ẩm thực; có trách nhiệm đóng góp cho công tác bảo tồn di tích lịch
sử, văn hóa, khảo cổ hay các sản vật có ý nghĩa quan trọng về tinh thần, hỗ trợ
địa phương phát triển các loại hình văn hóa dân tộc; không mua bán, trao đổi và
vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di sản văn hóa vật thể thuộc sở
hữu nhà nước hoặc đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài;
không lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh.
Năm là, tiêu chí về xã hội.
21
Kinh tế du lịch bền vững phải không ngừng nâng cao và cải thiện chất
lượng cuộc sống cho tất cả mọi người, góp phần ổn định xã hội. Nó phải là
công cụ trong việc xóa đói, giảm ngh•o, tạo công ăn việc làm cho lực lượng
lao động dư thừa địa phương. Theo đó, trong quá trình phát triển kinh tế du
lịch cần ưu tiên sử dụng các dịch vụ và hàng hoá là sản phẩm nội địa hoặc sản
phẩm, nguyên liệu được sản xuất tại địa phương nhưng không làm cạn kiệt tài
nguyên; hỗ trợ các nhà cung ứng của địa phương phát triển, xúc tiến và bán các sản
phẩm du lịch độc đáo, đặc thù của địa phương tại cơ sở lưu trú du lịch; thực hiện
tốt chính sách chống bóc lột thương mại, bóc lột tình dục, đặc biệt đối với trẻ
em chưa đến tuổi thành niên; công bằng trong việc tuyển dụng phụ nữ, người

dân tộc thiểu số ở địa phương, kể cả vị trí quản lý, có chính sách riêng hỗ trợ
nhân viên nữ (chế độ thai sản, đào tạo, tư vấn sức khỏe sinh sản…); tuân thủ
luật pháp quốc tế và quốc gia về bảo vệ nhân công và chi trả lương đầy đủ.
Sáu là, tiêu chí về quốc phòng - an ninh, trật tự - an toàn xã hội.
Kinh tế du lịch phát triển, mở cửa thu hút khách du lịch trong và ngoài
nước, là điều kiện để các thế lực thù địch, tội phạm quốc tế, đối tượng hình sự
và tệ nạn xã hội trà trộn, len lỏi theo con đường du lịch để tiến hành các hoạt
động gây rối an ninh, trật tự tại địa phương.
Theo Luật Du lịch Việt Nam, một trong những nguyên tắc về phát triển
du lịch phải “bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng - an ninh, trật tự - an
toàn xã hội”. Do vậy, cần sự phối hợp chặt chẽ, liên ngành từ Trung ương đến
địa phương, giữa lực lượng quân đội, công an, cơ quan quản lý du lịch, doanh
nghiệp kinh doanh du lịch, chính quyền, nhân dân địa phương trong phát triển
kinh tế du lịch. Kết hợp phát triển kinh tế du lịch với tăng cường, củng cố quốc
phòng - an ninh ngay từ công tác quy hoạch, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát
triển của mỗi ngành, mỗi cơ quan, đơn vị; tổ chức triển khai thực hiện tốt “Quy
chế phối hợp đảm bảo an ninh trật tự” trên các tuyến, điểm du lịch, đẩy mạnh
phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ an ninh trật tự khu du lịch;
xây dựng lực lượng quân đội và công an thực sự là lực lượng nòng cốt trong
củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự - an toàn xã hội,
22
tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế du lịch; tăng cường quản lý Nhà
nước đối với hoạt động du lịch, không để kẻ địch lợi dụng phá hoại các mục tiêu,
công trình kinh tế, văn hoá, an ninh - quốc phòng hay thực hiện “Diễn biến hòa
bình”, “Bạo loạn lật đổ” chống đối Đảng, chính quyền, phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân; nghiêm cấm các hoạt động tuyên truyền, phát triển đạo trái pháp
luật hay truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ, mê tín, dị đoan; đấu tranh có hiệu quả
với bọn tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, đảm bảo an ninh trật tự trên các tuyến,
điểm du lịch, không để tồn tại băng nhóm gây rối an ninh trật tự…
1.1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế du lịch bền vững ở Việt

Nam hiện nay
Trước thực tế phát triển mạnh mẽ của ngành Du lịch trên thế giới, bên
cạnh những tác động tích cực dễ nhận thấy, phát triển kinh tế du lịch cũng
mang lại những tác động tiêu cực đến các nguồn tài nguyên du lịch, môi
trường văn hóa - xã hội, môi trường sinh thái… ở nhiều quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Do vậy, phát triển kinh tế du lịch ở Việt Nam cần được xác định
lại đúng đắn hơn, nghĩa là phải hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững.
Đây chính là vấn đề cấp thiết hiện nay. Điều đó xuất phát bởi các lý do sau:
Một là, xuất phát từ vai trò của phát triển kinh tế du lịch bền vững.
Phát triển kinh tế du lịch bền vững có thể tạo ra lợi nhuận như kinh tế
du lịch đơn thuần, nhưng có nhiều lợi ích được nằm lại với cộng đồng địa
phương về cả mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Những chương trình, kế
hoạch, đề án phát triển kinh tế du lịch được tính toán, cân nhắc thấu đáo ngay
từ lúc bắt đầu để giảm thiểu đến mức tối thiểu các tác động xấu của hoạt động
du lịch; cơ hội cũng như các đe dọa được xem xét và theo dõi cẩn thận nhằm
bảo tồn các giá trị tốt, các nguồn lợi tự nhiên và mang lại nhiều lợi ích cho
cộng đồng. Phát triển kinh tế du lịch bền vững mang nhiều ý nghĩa giáo dục
về bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch cho du khách và cộng
đồng địa phương, ngăn ngừa sự suy thoái môi trường trong hiện tại và tương
lai. Phát triển kinh tế du lịch bền vững đặt ra yêu cầu phải tạo ra những sản
phẩm du lịch chất lượng cao, độc đáo, khai thác trong thời gian dài, đem lại
23
cho du khách những chuyến du lịch thực sự thoải mái, thỏa mãn và nguồn thu
đáng kể cho nguồn ngân sách địa phương cũng như cộng đồng dân cư bản địa.
Hai là, xuất phát từ hạn chế trong phát triển kinh tế du lịch đơn thuần.
Trong phát triển kinh tế du lịch đơn thuần, động cơ chính chỉ là tăng
doanh thu, lợi nhuận, quy mô, chiếm lĩnh thị trường. Quy hoạch, kế hoạch
phát triển không có tính chiến lược dài hạn nên quá trình thực hiện thường
bộc lộ nhiều thiếu sót. Chi phí cho công tác bảo tồn thấp, việc xử lý các tác
động xấu từ kinh doanh du lịch lúng túng, chậm trễ. Kinh tế du lịch đơn thuần

thường tạo ra những sản phẩm du lịch mang tính thời vụ, chụp giật, ít đặc sắc,
thiếu tính bền vững và hàm lượng khoa học không cao; việc ứng dụng những
thành tựu khoa học công nghệ mục đích chính để khai thác tài nguyên một
cách tối đa. Do đó, chỉ mang lại lợi ích chủ yếu cho ngành Du lịch và một
phần cho khách du lịch mà ít quan tâm đến tuổi thọ của các tài nguyên du
lịch, mang lại không nhiều lợi ích cho cộng đồng địa phương và có thể phá
huỷ nhanh chóng các môi trường nhạy cảm. Vì vậy, phát triển kinh tế du lịch
đơn thuần sẽ tạo ra một áp lực lớn cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Ba là, xuất phát từ thực trạng phát triển kinh tế du lịch của Việt Nam
thời gian qua còn chứa đựng nhiều yếu tố thiếu bền vững.
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 nhận định: Trong những năm vừa qua, “… bên cạnh những thành tựu đạt
được, ngành Du lịch còn nhiều hạn chế và bất cập; chưa có bước phát triển đột
phá để khẳng định thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn; phát triển nhưng vẫn ẩn
chứa nhiều nguy cơ, yếu tố thiếu bền vững” [48, tr.8]. Điều đó thể hiện:
Thứ nhất, phát triển kinh tế du lịch ở nước ta còn thiếu bền vững về
kinh tế. Dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhìn chung hệ thống sản phẩm du lịch
nước ta còn ngh•o nàn, đơn điệu, sức cạnh tranh trên thị trường còn yếu, giá
trị gia tăng thấp. Chúng ta vẫn chưa tạo ra được những sản phẩm đặc trưng,
mang tầm cỡ, có thương hiệu quốc gia. Hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ
thuật du lịch chưa đồng bộ, chủng loại và chất lượng dịch vụ còn hạn chế
chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Trong lĩnh vực kinh doanh
24
lưu trú du lịch, tình trạng vừa thiếu vừa thừa buồng ngủ đang xảy ra nghiêm
trọng. Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch mới chỉ tập trung quảng bá hình
ảnh, chưa tạo dựng và quảng bá được những sản phẩm đặc thù và thương hiệu
du lịch, hiệu quả xúc tiến, quảng bá du lịch thấp. Kết quả là thị phần của
ngành Du lịch của Việt Nam còn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều
nước trong khu vực (chỉ đứng thứ 5 trong khối ASEAN sau Malaysia, Thái
Lan, Singapore và Inđônêxia); chưa thu hút được nhiều khách du lịch cao cấp,

tỷ trọng khách du lịch thuần túy, nghỉ dưỡng dài ngày, chi tiêu cao còn ít.
Thứ hai, phát triển kinh tế du lịch thiếu bền vững về môi trường sinh thái.
Trong những năm qua, chất lượng môi trường đang là yếu tố gây cản trở sự phát
triển kinh tế du lịch, làm giảm sức thu hút khách và sức cạnh tranh quốc tế của
ngành Du lịch Việt Nam. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới năm 2008 dự báo:
mỗi năm Việt Nam đang mất đi ít nhất 69 triệu USD thu nhập từ ngành Du lịch,
do những cơ sở có hệ thống xử lý vệ sinh ngh•o nàn. Diễn đàn Kinh tế Thế giới
năm 2007 và năm 2008 đã tụt hạng Việt Nam từ vị trí thứ 93 xuống 122 trong số
133 nước được xếp hạng về mặt chất lượng môi trường, quản lý và kinh doanh
du lịch. Thực tế chỉ ra, việc phát triển quá nhanh các hoạt động du lịch mà không
coi trọng đúng mức việc đánh giá và quản lý tác động môi trường tại các khu
vực phát triển du lịch, không tuân theo quy hoạch chung, ý thức bảo vệ môi
trường du lịch của người dân địa phương cũng như khách du lịch chưa tốt (như
nạn xả rác bừa bãi, tàn phá rừng khai thác gỗ, săn bắn các loài thú, đánh bắt hải
sản và các nguồn lợi từ biển, khai thác các khoáng sản quý trái phép tại các khu
vực ưu tiên phát triển du lịch…) đã dẫn tới tình trạng ô nhiễm môi trường, biến
dạng hệ sinh thái và tài nguyên du lịch tại hầu hết các khu, điểm du lịch, làm
giảm sút chất lượng cuộc sống của dân cư bản địa, ảnh hưởng đến khả năng thu
hút khách và doanh thu của ngành Du lịch.
Thứ ba, phát triển kinh tế du lịch thiếu bền vững về môi trường văn hóa
xã hội. Thực tế hoạt động du lịch nước ta thời gian qua cho thấy, còn nhiều địa
phương và các điểm tham quan vẫn chưa tạo lập được ấn tượng cho khách về
môi trường văn hóa - xã hội. Nhiều giá trị văn hóa đặc sắc, độc đáo đang có xu
25
hướng bị mai một, lai căng “Tây hóa” trước tác động của toàn cầu hóa. Hiện
tượng “bẩn - bực và buồn” trong tâm trạng của khách du lịch còn diễn ra khá
phổ biến. Ở nhiều khu du lịch, những hình ảnh không đẹp về văn hóa du lịch,
cách hành xử thiếu văn minh của cư dân bản địa và cả khách du lịch như một
căn bệnh kinh niên, đó là: nạn vứt rác và đồ thải bừa bãi, vệ sinh không đúng nơi
quy định, bẻ cành, hái hoa, viết bậy lên các di tích, buôn bán những hàng hoá và

văn hoá phẩm cấm, ăn mặc thiếu lịch sự, những hành vi tác động xấu đến môi
trường xã hội của địa phương như: cờ bạc, mại dâm, cướp giật, lừa đảo, ép mua,
ép giá, đeo bám, tranh giành khách…, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn khu
du lịch, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước và con người Việt Nam.
Thứ tư, phát triển kinh tế du lịch còn chứa đựng nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến tính bền vững về quốc phòng - an ninh. Việc phối hợp với cơ
quan Công an, Quân đội để gắn lĩnh vực quốc phòng - an ninh vào xây dựng
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế du lịch chưa thực sự được
quan tâm đúng mức. Quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ du lịch ở nhiều nơi mới chỉ chú trọng lợi ích kinh tế trước mắt
mà chưa chú ý đến tính lưỡng dụng của các công trình, dự án; cá biệt trong
thu hút vốn đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du
lịch một số địa phương chưa tính toán cẩn thận đến thế trận quốc phòng - an
ninh, như các dự án liên doanh xây dựng Casino Đồ Sơn (Hải Phòng), khách
sạn cao tầng tại những vị trí đắc địa, trên những điểm cao chiến lược có tầm
bao quát lớn ở Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số khu, điểm
du lịch ven biển khác… Thông qua con đường du lịch, các hoạt động truyền
đạo trái phép, tuyên truyền, kích động nhân dân địa phương, chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc, thực hiện Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch chưa được phát hiện kịp thời và xử lý triệt để, gây mất an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn một số khu du lịch. Nhiều doanh
nghiệp kinh doanh du lịch chưa coi trọng công tác xây dựng lực lượng dự bị
động viên, kinh phí cho hoạt động này còn thấp…
26

×