Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

XUẤT NHẬP KHẨU NGÀNH MAY MẶC TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.24 KB, 38 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Dệt may là một trong những ngành sản xuất vật chất có truyền thống lâu đời.
Từ xa xưa ông cha ta đã biết trồng dâu nuôi tằm để ươm tơ dệt lụa. Con người Việt
Nam lại thông minh, sáng tạo, với đôi bàn tay khéo léo đã tạo ra những sản phẩm
dệt may đậm đà bản sắc dân tộc.
Là hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, hàng năm ngành dệt may có những đóng góp
đáng kể cho nguồn thu ngân sách đặc biệt là nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu.
Ngày nay ngành may mặc đang có xu hướng chuyển dịch từ các nước công
nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển, đặc biệt là Châu Á có nhân công
rẻ. Khối lượng hàng may mặc mà các nước phát triển nhập khẩu từ các nước Châu
Á đang tăng lên rõ rệt trong thời gian gần đây. Việt Nam lại nằm trong khu vực có
kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới, đồng thời có nhiều ưu thế về
nguồn nhân công, về vị trí địa lý có thể phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu hàng
may mặc.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu hàng may mặc đối với các doanh nghiệp Việt Nam có ý nghĩa hết sức
quan trọng, nhất là đối với một công ty có kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc
tương đối lớn như Công ty TEXTACO. Đó chính là lý do khiến em chọn đề tài này
cho bài viết của mình.
Tuy vậy, do còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn, về nguồn số liệu, về
thời gian thực hiện nên có thể có một vài thiếu sót. Em mong nhận được sự giúp
đỡ, góp ý của thầy giáo và các cô chú, anh chị công ty TEXTACO đã giúp đỡ em
hoàn thành bài viết này.
1
CHƯƠNG I
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU NGÀNH MAY
MẶC TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1. VAI TRÒ CỦA NGÀNH MAY MẶC Ở VIỆT NAM
May mặc là hoạt động gắn liền với đời sống con người trong mọi thời đại. Do
vậy, có thể nói, may mặc đã xuất hiện ở Việt Nam từ hàng nghìn năm nay. Trải
qua các thăng trầm lịch sử, kỹ thuật dệt, may của cha ông ta không ngừng hoàn


thiện với những sản phẩm giá trị cao có thể sánh ngang với các quốc gia giàu
truyền thống khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, để lại cho chúng ta những
kinh nghiệm quý báu và niềm tự hào lịch sử.
Ngay từ khi ra đời, ngành may mặc hay nói đúng hơn là sản phẩm của ngành
đã giữ một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống xã hội.
Bởi trong bốn nhu cầu cơ bản nhất của con người là ăn - mặc - ở - đi lại thì nó
đứng ở vị trí thứ hai, như thế cũng đã thấy rõ vai trò không thể thiếu được của
ngành. Hơn nữa, nhu cầu của đời sống hiện đại không chỉ dừng lại ở đủ mặc, mà
còn phải mặc đẹp. Chính ở đây, ngành may mặc đã góp phần làm đẹp cho cuộc
sống hàng ngày của chúng ta.
Cái “đẹp” mà ngành may mặc đóng góp còn thông qua giá trị kinh tế lớn bổ
sung vào ngân sách hàng năm để nâng cao đời sống xã hội về nhiều mặt. Những
năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của ngành liên tục tăng và đứng trong nhóm
những sản phẩm xuất khẩu có đóng góp ngoại tệ lớn nhất. Riêng năm 1998, toàn
ngành mang về cho Nhà nước khoảng 1,3 tỷ USD
(1)
(1)
Thời báo Kinh tế S i Gòn sà ố ra ng y 6/8/1998à
2
Với đặc trưng cần nhiều lao động, lại không phải đào tạo công phu, ngành
may mặc đã giúp giải quyết đáng kể nhu cầu công ăn việc làm cho xã hội, đặc biệt
là lao động nữ, ổn định đời sống nhân dân, góp phần ngăn chặn các hậu quả do nạn
thất nghiệp gây ra. Điều này rất phù hợp đối với hoàn cảnh đất nước ta - một đất
nước có nguồn lao động dồi dào, cần cù và sáng tạo.
Là một ngành xuất khẩu mũi nhọn, có mặt tại hơn 50 nước trên thế giới,
chiếm gần 15% kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong suốt mấy năm gần đây,
ngành may mặc không chỉ giữ vị trí nhất định trong quá trình thực hiện đường lối
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà đối với chiến lược mở cửa kinh tế, hoà
nhập vào khu vực và quốc tế, ngành cũng đi đầu, mở đường cho mối liên kết ngày
càng sâu sắc giữa kinh tế Việt Nam và thế giới.

2. KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU SẢN PHẨM
MAY MẶC TẠI VIỆT NAM
Giữ một vị trí không thể thiếu được trong đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước như đã nêu ở trên, ngành may mặc được Đảng, Nhà nước quan tâm xây dựng,
trở thành một ngành công nghiệp lớn, phát triển sâu rộng trong cả nước và thu
được những thành tựu đáng mừng.
Đặc biệt, sau 5 năm thực hiện Hiệp định buôn bán hàng may mặc giữa Việt
Nam và EU được ký tắt tại Brussels (Vương quốc Bỉ - 1993) đã đánh dấu sự phát
triển vượt bậc cả về số lượng, chất lượng và thị trường của sản phẩm may mặc
“Made in Vietnam” trên thị trường thế giới. Quần áo may sẵn của Việt Nam gồm
nhiều chủng loại hàng khác nhau từ sơ mi nam, nữ, jacket, áo khoác nam, nữ đến
quần áo trẻ em,... đã khẳng định chỗ đứng của mình trên nhiều thị trường khó tính
như Pari, London, Amsterdam, Berlin, Tokyo,... Và đầu năm nay, chúng ta đã ký
Hiệp định dệt may giữa Việt Nam và EU cho giai đoạn 1999 - 2001 với mức tăng
về trị giá khoảng 40% so với Hiệp định cũ đã được điều chỉnh tăng 25% tháng
8/1985. Nếu so với mức hạn ngạch năm đầu Hiệp định 1993 thì hạn ngạch năm
1999 tăng khoảng 80%. Nếu xét về trị giá xuất khẩu 1993, Việt Nam mới xuất
3
khẩu sang EU 245 triệu USD và dự kiến năm 1999 Việt Nam sẽ xuất khẩu sang
EU khoảng 650 triệu USD (bằng 265,3%)
(2)
. Chỉ trong 8 tháng đầu năm kim ngạch
dệt may đi EU đạt 480 triệu USD tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm ngoái
(3)
;
với mặt hàng chính là áo Jacket và áo sơ mi nam đã đạt sản lượng tương đương cả
năm 1998, riêng áo Jacket đã xuất 10,5 triệu chiếc, sơ mi nam 6,5 triệu chiếc
(4)
.
BIỂU ĐỒ 1: TỔNG KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC

QUA CÁC NĂM 1994 - 8/2001
Đơn vị: Triệu USD
450
750
2250
2554
4150
5140
6300
3098
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
(Nguồn: Báo cáo của Viện nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại)
Đồng thời với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc đi EU, chúng ta còn
xuất khẩu đi các thị trường khác như Canada, Nauy, Nhật Bản, Mêhicô, Đài Loan,
Hàn Quốc,... Nếu năm 1994 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 450 triệu USD thì năm
1998 đạt 4,15 tỷ USD (tăng hơn 7 lần). Rõ ràng con số này nói lên sự lớn mạnh vượt
bậc của ngành may xuất khẩu Việt Nam, nó càng chứng tỏ tính đúng đắn trong việc
mạnh dạn xây dựng ngành may xuất khẩu thành ngành xuất khẩu chủ lực của Việt
(2)
Tạp chí Thương mại số 1 năm 1998
(3)
Báo Đầu tư số 74 ng y 14/9/1998à

(4)
Thời báo Kinh tế S i gòn sà ố 35/98 ng y 27/8/1998à
4
Nam. Từ một ngành hàng xuất khẩu không có tên tuổi trong danh mục các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, thậm chí còn báo
hiệu suy sụp vào cuối năm 1992 thì đến năm 1996, kim ngạch xuất khẩu hàng may
mặc đã đứng thứ hai trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Năm 1999, với 330 cơ sở sản xuất dệt và 600 cơ sở may, sẽ báo hiệu một năm hứa
hẹn đối với ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam với dự kiến kim ngạch khoảng 1,5
tỷ USD
(5)
. Tuy nhiên, hết quí I năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc thấp
250 triệu USD, trong khi năm 1998 kim ngạch cả năm đạt 1,3 tỷ USD.
Ngoài ra, hệ thống các công ty, xí nghiệp quốc doanh từ Trung ương đến địa
phương đều trưởng thành đáng kể. Nhiều doanh nghiệp sau 5 năm, doanh số xuất
khẩu tăng gấp 3-5 lần so với năm 1992. Năm 1998 đã có trên 400 doanh nghiệp
tham gia xuất khẩu và đến giữa năm 1999 có khoảng 500 doanh nghiệp. Không
những đội ngũ may xuất khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô
doanh nghiệp, công nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề cũng
đạt tiêu chuẩn quốc tế.
3. CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG VÀ HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU TRONG
THỜI GIAN QUA
Từ năm 1994, sau một thời gian dài chỉ xuất khẩu sang các thị trường truyền
thống, công tác thị trường đã được chú trọng, tăng cường quan hệ buôn bán với
gần 50 nước và khu vực. Đến nay, chúng ta đã mở rộng được địa bàn kinh doanh,
tăng hạn ngạch hàng may mặc vào thị trường EU, Nhật Bản, Đài Loan, giá trị xuất
nhập với Liên Xô (cũ) được phục hồi, hướng buôn bán mới với Trung Cận Đông
bắt đầu mở ra nhiều triển vọng và trong tương lai không xa Mỹ sẽ là thị trường
mới lý tưởng cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc.
* Thị trường EU.

Việt Nam là nước thứ 51 tham gia vào thị trường EU. Thị trường EU với số
dân khoảng 360 triệu người là nơi tiêu thụ khối lượng lớn và đa dạng các loại sản
(5)
Báo Thương mại số 1 năm 1998
5
phẩm may mặc. Cũng cần phải khẳng định rằng EU là một thị trường có yêu cầu
cao về chất lượng sản phẩm. Không những thế, đây cũng là khu vực có kỹ thuật
sản xuất vào loại tiên tiến nhất hiện nay. Tuy nhiên, do giá nhân công ở khu vực
này ngày càng cao và các nguyên nhân khác khiến cho giá thành sản xuất trong nội
bộ EU lên cao nên các nước thành viên EU tăng cường nhập khẩu dưới hình thức
thuê gia công tại nước ngoài để thoả mãn nhu cầu trong nước.
Chính vì những đặc điểm đó của thị trường EU mà đã lôi cuốn các doanh
nghiệp sản xuất hàng may mặc Việt Nam cố gắng tìm chỗ đứng trong thị trường
này.
Trước năm 1992, chúng ta đã xuất khẩu một số chủng loại mặt hàng vào EU
(khi đó là Cộng đồng Châu Âu - EC) mặc dù mới chỉ là quan hệ mậu dịch song
phương và kim ngạch rất nhỏ bé. Đến năm 1992, việc ký Hiệp định về hàng may
mặc giữa Chính phủ Việt Nam và EU đã mở ra một giai đoạn phát triển mới trong
quan hệ kinh tế nói chung và của ngành may mặc nói riêng. Đặc biệt, Hiệp định
dành cho Việt Nam 13 mặt hàng để gia công theo phương thức gia công thuần tuý
(Trafic de Perfectionnement Passif - TPP) có nghĩa là nguyên liệu được gửi từ các
nước thành viên EU để gia công tại Việt Nam rồi nhập lại sản phẩm vào EU. Ngay
từ năm đầu tiên thực hiện Hiệp định, dù gặp phải không ít khó khăn nhưng 93 doanh
nghiệp của ta đã xuất khẩu được 55 chủng loại mặt hàng với khối lượng tổng cộng
13.000 tấn. Đến năm 1996, 1997, số doanh nghiệp được phân bổ hạn ngạch và số
doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu đã tăng lên đến 380 và 260 đơn vị, đưa
tổng lượng hạn ngạch đã thực hiện theo Hiệp định lên đến 325 và 395 triệu đơn vị.
Đến năm 1997 tình hình thực hiện hạn ngạch may mặc với EU đạt 395 triệu USD
(6)
.

Và gần đây, việc ký thêm Hiệp định về hàng may mặc cho năm 1999-2001
giữa Việt Nam và EU đã mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội thâm nhập sâu hơn nữa
vào thị trường này. Vấn đề còn lại là toàn ngành may mặc Việt Nam có thể huy
(6)
Báo cáo của Tổng công ty dệt, may Việt Nam về tình hình thực hiện hạn ngạch giai đoạn 1992 - 1996
6
động khả năng của mình nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo dựng uy tín cao, giữ
vững và mở rộng thị phần ở EU.
Thị trường Nhật Bản
Khoảng một thập kỷ nay, ngành may mặc Nhật Bản luôn rơi vào tình trạng
nhập siêu, bởi nước này cũng nằm trong sự chuyển dịch sản xuất lớn từ các nước
có ngành công nghiệp dệt tiên tiến sang các nước Châu Á đang phát triển để tận
dụng lợi thế nhân công rẻ, dồi dào, sau đó lại nhập khẩu sản phẩm giá thành hạ của
mình trở về nước làm cho hàng loạt các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ phải đóng cửa
vì không thể cạnh tranh, do đó phải tăng nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong
nước.
Đây cũng là thị trường lớn, khắt khe về chất lượng và cạnh tranh gay gắt.
Nhưng với lợi thế nguồn lao động rẻ, dồi dào, tay nghề cao nên xuất khẩu hàng
may mặc Việt Nam sang Nhật có xu hướng phát triển không ngừng trong những
năm vừa qua. Bắt đầu từ năm 1989, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang
Nhật đã tăng vọt 425% về số lượng và 212% về kim ngạch. Nếu như năm 1988,
Việt Nam mới chỉ xuất khẩu sang Nhật đạt 200 nghìn đơn vị hàng may mặc với trị
giá 1,44 triệu USD (đứng thứ 22 về số lượng và thứ 29 về kim ngạch), thì đến năm
1996 những con số này đã lên tới 56 triệu đơn vị và trị giá 367 triệu USD (đứng ở
vị trí thứ bẩy cả về số lượng và kim ngạch, với thị phần ngang với các nước lân cận
như Inđônêxia, Philippine, Đài Loan, Thailand,...). Và đến năm 1998, xuất khẩu
hàng may mặc của Việt Nam sang Nhật Bản lên tới 80,71 triệu đơn vị đạt trị giá
500 triệu USD, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 3 về số lượng trong số các nước xuất
khẩu mặt hàng này sang Nhật, sau Trung Quốc và Hàn Quốc, đứng thứ 5 về kim
ngạch sau Trung Quốc, Italia, Hàn Quốc và Mỹ. Thị phần của hàng may mặc Việt

Nam chiếm 2,4% về số lượng và 3% về kim ngạch
(7)
. Trong 5 tháng đầu năm
1999, xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang Nhật Bản đạt 102,1% về kim ngạch
so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên trong bối cảnh tình hình kinh tế kéo dài do
khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản kéo theo đồng yên giảm giá, sức mua của Nhật
(7)
Nguồn Báo Thị trường số ra ng y 16/8/1998à
7
Bản giảm xuống, dự đoán kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của Nhật Bản có
thể giảm 10% trong năm 1999. Đó là một khó khăn cho quá trình đẩy mạnh xuất
khẩu sang Nhật Bản của ngành may mặc Việt Nam.
Thị trường Liên Xô (cũ) và Đông Âu
Quy mô tiêu dùng lớn, yêu cầu không cao về chất lượng và quen thuộc - đó là
đặc điểm nổi bật rất thuận lợi cho sản phẩm của chúng ta khi xâm nhập vào thị
trường này. Với số dân 300 triệu người, thị trường Liên Xô (cũ) và Đông Âu là thị
trường lớn thứ hai trên thế giới hiện nay. Trước kia, thị trường này thường chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam,
khoảng 80%, đặc biệt năm 1987 chiếm trên 90%. Đây cũng là một thuận lợi cho
các doanh nghiệp của ta khi thâm nhập trở lại không bị bỡ ngỡ như vào các thị
trường mới.
Nhưng từ sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và các
nước Đông Âu, việc xuất khẩu hàng may mặc của ta vào thị trường này bị gián
đoạn. Nhưng bắt đầu từ giờ trở đi, kim ngạch xuất khẩu của ta vào thị trường này
sẽ dần dần được khôi phục. Bởi dù sao, đây cũng là một thị trường tiêu thụ sản
phẩm khối lượng lớn, lại không đòi hỏi quá chặt chẽ về chất lượng. Trong khi chưa
có điều kiện đầu tư thiết bị hiện đại, chúng ta phải hết sức tranh thủ đặc điểm này
để tăng giá trị xuất khẩu, tích luỹ năng lực, tạo điểm tựa vững chắc cho các giai
đoạn sau, đồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao, bảo đảm cho sự tồn tại của chính mình. Riêng thị trường Nga tình

hình dần ổn định, sức mua ngày càng tăng nhưng hàng của Việt Nam vẫn không
cạnh tranh được do giá cả còn cao, sản phẩm còn chưa hấp dẫn, phương thức thanh
toán chưa thích ứng.
Thị trường Mỹ
Thị trường Mỹ với số dân gần 300 triệu người, chủ yếu sống ở thành thị đang
là một thị trường mới mẻ nhưng không kém phần hấp dẫn đối với các doanh
nghiệp sản xuất hàng may mặc của ta. Mỗi người dân ở đây hàng năm tiêu dùng tới
8
27 kg hàng dệt may nhập khẩu. Thị trường này được xếp vào danh mục thị trường
đầy tiềm năng với mức tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới 95 tỷ USD mỗi
năm, nhập khẩu chiếm khoảng 48% trong đó 60% là từ Châu Á nhưng Việt Nam
lại chưa khai thác được
(8)
. Các mặt hàng như T-Shirt, Polo - Shirt, Sweat Shirt
100% bông, áo sơ mi thường phục dạng nỉ kẻ, sóc, quần áo thể thao, áo len, quần
vải chéo 100% bông mài cát hoặc hoá chất, hàng jean không yêu cầu chất lượng
quá cao mà phải đảm bảo tiêu chuẩn ghi trong hợp đồng, chú ý khâu an toàn tiêu
dùng và phù hợp với môi trường.
Tuy nhiên, tìm được một chỗ đứng vững chắc trong thị trường này không phải
dễ dàng bởi thông tin về thị trường này còn đang rất thiếu, không chính xác, kịp
thời mà doanh nghiệp lại không có điều kiện thường xuyên tiếp cận thị trường thực
tế; mặt khác, việc phía Mỹ không cấp tín dụng xuất, nhập khẩu cho các doanh
nghiệp kinh doanh với Việt Nam đã hạn chế rất lớn đến khả năng trao đổi thương
mại giữa hai nước. Trở ngại lớn nhất hiện nay đối với hàng dệt may của ta vẫn là
do chưa có quy chế tối huệ quốc (MFN) nên hàng nhập khẩu vào Mỹ phải chịu
thuế cao, không cạnh tranh nổi với hàng các nước khác.
Nhưng từ khi Mỹ xoá bỏ cấm vận thương mại với Việt Nam (2/1994), cấm
vận viện trợ (8/1994), quan hệ kinh tế nói chung giữa ta và Mỹ cũng đã thu được
những kết quả ban đầu. Vấn đề hiện tại đặt ra cho chúng ta là phải cố gắng hết sức
xây dựng được lòng tin, uy tín và không ngừng đầu tư trang thiết bị hiện đại để có

thể đáp ứng yêu cầu của một thị trường khắt khe như thị trường Mỹ.
(8)
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam số 35 ng y 2/5/1998à
9
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA XÍ NGHIỆP MAY XUẤT KHẨU TEXTACO
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÍ NGHIỆP.
Chuyển từ cơ chế quản lý tập trung sang hạch toán kinh tế độc lập cũng như
tất cả các ngành khác, nghành dệt may cũng tự mình vươn dậy với con số đáng
kinh ngạc và trở thành sản phẩm trọng điểm trong chiến lược phát triển kinh tế
năm 2001 của nước ta và hiện nay kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm may mặc
sẵn thật đáng khích lệ.
Cùng với xu hướng đi lên tự hạch toán kinh tế, xí nghiệp may TEXTACO
được tách ra thành xí nghiệp độc lập với chức năng sản xuất kinh doanh hàng may
sẵn. Trước kia xí nghiệp trực thuộc tổng công ty vải sợi may mặc chức năng nhiệm
vụ chủ yếu là cung cấp sản phẩm may mặc song số lượng mặt hàng ít, đơn giản,
chất lượng không đảm bảo nhiều loại hàng chất lượng kém và hiệu quả kinh doanh
hầu như không quan tâm mà chủ yếu thực hiện chỉ tiêu từ trên giao xuống, hơn nữa
bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều khâu trung gian không cần thiết.
Cùng với cơ chế đổi mới, tổng công ty vải sợi được đổi thành "Công ty vải
sợi miền Bắc" trụ sở chính tại số 2 Phan Chu Trinh đồng thời công ty cũng bao
gồm nhiều xí nghiệp trực thuộc ở các tỉnh ở Hà Nội. TEXTACO là xí nghiệp trực
thuộc được thành lập năm 1989 với trụ sở đặt tại số 2A Lạc trung.
Với số vốn do cấp trên cấp, sự lao động sáng tạo trong cơ chế thị trường, nắm
bắt được nhu cầu thị trường nên hiện nay xí nghiệp có uy tín với khách hàng trong
và ngoài nước. Chức năng nhiệm vụ chính của xí nghiệp là sản xuất mặt hàng gia
công để xuất khẩu với mặt hàng là sản phẩm may mặc sẵn chủ yếu là áo jacket,
quần âu nam, quần soóc. Do đặc điểm là phương thức gia công sản xuất nên các
10

thủ tục xuất hàng hay nhập nguyên liệu đều thông qua công ty. Do vậy thuế cũng
như các khoản nghĩa vụ khác xí nghiệp đều phải có trách nhiệm.
Ngoài chức năng chính trên xí nghiệp còn sản xuất mặt hàng may mặc phục
vụ trong nước với các sản phẩm như: Áo sơ mi, quần âu nam, áo jacket, quần trẻ
em... Đây là chức năng phụ nhưng nó được coi là nhiệm vụ khá thiết thực và là
mối quan tâm trong chiến lược phát triển kinh doanh trong thời gian tới.
2. ĐẶC ĐIỂM CÔNG NGHỆ MAY XUẤT KHẨU CỦA XÍ NGHIỆP TEXTACO
3. ĐẶC ĐIỂM TỔ CHỨC SẢN XUẤT, TỔ CHỨC LAO ĐỘNG TỔ CHỨC
QUẢN LÝ CỦA XÍ NGHIỆP.
Xí nghiệp may xuất khẩu TEXTACO được tách ra là đơn vị hạch toán kinh
doanh với cơ cấu tổ chức khá tinh giản với mô hình trực tuyến chức năng.
11
MÁY CẮT
MÁY THÊU
MÁY VẮT SỔ
ĐÓNG GÓI
MÁY LÀ HƠI
MÁY MAY
MÁY TH A KHUYÙ ẾT
MÁY DẬP KHUY
SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC CỦA XÍ NGHIỆP
Với bộ máy tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng, vì bộ máy tổ chức quản lý
của xí nghiệp gọn nhẹ mà lại phát huy ưu điểm của hai kiểu quản lý. Chính vì vậy mà
ban giám đốc có thể quản lý trực tiếp mọi hoạt động sản xuất của từng phân xưởng và
nhận được các thông tin phản hồi từ phía người lao động không phải qua các khâu
trung gian. Từ đó giải quyết kịp thời mọi phát sinh đồng thời các công việc liên quan
đến việc triển khai kế hoạch sản xuất được bàn bạc, thảo luận và đi đến một giải pháp
tốt nhất, thống nhất tránh tình trạng chỉ đạo theo kiểu một thủ trưởng.
Qua hơn 8 năm xây dựng và trưởng thành xí nghiệp may TEXTACO đã
không ngừng đổi, cải tiến mở rộng sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với cơ

12
P. QUẢN ĐỐC KỸ THUẬT
TRƯỞNG CA II
TRƯỞNG CA I
GIÁM ĐỐC
P. QUẢN ĐỐC SẢN XUẤT
QUẢN ĐỐC
PHÂN XƯỞNG
PHÂN XƯỞNGII
PHÂN XƯỞNGIII
PHÂN XƯỞNGI
CỬA HÀNG
KD - DV
PHÒNG KT
- KCS
PHÒNG
KH - KD
PHÒNG
TC - KT
PHÒNG
TC - HC
sở hạ tầng khá vững chắc, hoàn thiện được thể hiện ở cơ cấu tổ chức lao động. Một
yếu tố tạo lên sức mạnh tổng hợp trong sản xuất kinh doanh.
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC LAO ĐỘNG THEO CHỨC NĂNG
Chức năng Số lượng
1 - Quản trị điều hành:
- Ban giám đốc (1 giám đốc , 2 phó GĐ) 3
- Tham mưu:
+ Phòng kế hoạch - Kinh doanh 18
+ Phòng kế toán - Tài chính 6

+ Phòng tổ chức hành chính 12
+ Cửa hàng kinh doanh dịch vụ 8
2 - Sản xuất:
- Quản lý sản xuất 20
- Lao động gián tiếp 80
- Sản xuất trực tiếp (cắt và may) 794
Tổng cộng 941
Qua cơ cấu tổ chức lao động của Xí nghiệp ở sơ đồ trên ta thấy bộ phận sản
xuất chiếm tỷ trọng lớn (894/941) là hợp lý. Bộ phận điều hành quản trị trong toàn
xí nghiệp chỉ có 47 người và được tập trung chủ yếu ở phòng kế hoạch - phòng
trực tiếp triển khai các hoạt động sản xuất của 3 phân xưởng, đảm nhận thủ tục
xuất nhập và nghiên cứu thị trường là rất hợp lý. Song công tác nghiên cứu thị
trường bộ phận marketing của phòng còn chưa được quan tâm đúng mức.
Lao động nữ chiếm 98%, đặc điểm này không có lợi cho xí nghiệp về mặt
đảm bảo ngày công lao động thực tế theo chế độ, thời gian nghỉ đẻ, nghỉ thai sản,
con ốm mẹ nghỉ, từ đó ảnh hưởng trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh. Nhưng
bù lại lao động nữ có tổ chức kỷ luật cao và đặc biệt là cần cù, chịu khó. Tuổi trung
bình của lao động trong xí nghiệp là trẻ khoảng 30 tuổi và có xu hướng ngày càng
trẻ hóa đội ngũ lao động. Đặc điểm này có lợi cho xí nghiệp về mặt lao động trẻ.
13
Với 70% công nhân là ở ngoại tỉnh. Họ ở các tỉnh lân cận như Thái Bình,
Nam Định, Hải Hưng, và một số tỉnh khác. Xí nghiệp đã cố gắng thu xếp ổn định
tránh tình trạng công nhân phải làm việc quá căng hoặc có những lúc không có
việc làm.
Để tạo điều kiện tốt nhất cho công nhân, xí nghiệp đã có nhà ăn để có thể
phục vụ bữa ăn cho công nhân làm ca. Ngoài ra hàng năm xí nghiệp đã trực tiếp
mời các thầy giáo có kinh nghiệm về bồi dưỡng kiến thức cho các cán bộ đồng thời
nâng cao tay nghề cho công nhân.
Chủ trương của xí nghiệp trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ rất được chú
trọng, ngoài việc tổ chức lớp học do xí nghiệp tổ chức, ban lãnh đạo cũng khuyến

khích cán bộ đi học thêm các lớp ngoài giờ hỗ trợ họ cả về thời gian và vật chất
bởi vì đây chính là chính sách làm giảm chi phí ẩn trong sản xuất kinh doanh.
4. PHÂN TÍCH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH SẢN XUẤT.
BẢNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH QUA CÁC NĂM CỦA XÍ NGHIỆP
1999 2000 2001
ĐV KH TH
%TH
SỐ KH
KH TH
% TH
SỐ KH
KH TH
% TH
SỐ KH
D. thu Tr.đ 20.285 209,9 20.285 22.560 212,4 212.800 28.010 201,6
SL áo ch 230.000 250.000 225,3 265.000 270.000 265,9 290.000 246.000 113,7
SL quần ch 373.000 399.000 213,2 572.000 641.000 118,3 713.000 724.000 102,2
Qua bảng trên ta thấy thực trạng kinh doanh ở xí nghiệp là khá khả quan vì cả
3 năm xí nghiệp đều hoàn thành vượt mức kế hoạch. Doanh thu đạt 201,6% so với
kế hoạch, đặc biệt khâu gia công vượt 11,3%.
Do uy tín, chất lượng sản phẩm nên xí nghiệp đã có thêm nhiều bạn hàng và
những năm gần đây xí nghiệp đã nâng số lượng hàng gia công lên đáng kể. Năm
2001 xí nghiệp đạt 246.000 áo jacket và 724.000 quần âu nam. Cùng với việc
không ngừng mở rộng thị trường và doanh thu không ngừng tăng lên chứng tỏ xí
nghiệp đã phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhờ đó mà thời gian chờ việc
14
không đáng kể, năng suất lao động tăng so với 2000 là 10%. Tiền lương tăng lên do
vậy
đời sống CBCNV ổn định. Người lao động gắn bó với xí nghiệp hơn, số CN bỏ
việc giảm dần. Dự tính năm 2003 doanh thu xí nghiệp tăng 75000 triệu đồng dự

tính nộp ngân sách tăng 1,5 lần so với năm 2001.
Tuy nhiên sản lượng cung cấp cho nhu cầu trong nước chưa được quan tâm
đúng mức. Năm 2001 mặc dù xí nghiệp đã cố gắng mở rộng tăng cường sản xuất
trong nước song con số 2678 triệu còn quá ít ỏi so với mức nhu cầu nội địa.
5. PHÂN TÍCH CHI CHO SẢN XUẤT:
Giá thành sản phẩm là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa. Ta lấy ví dụ một số sản phẩm chủ yếu của xí nghiệp.
BẢNG GIÁ THÀNH GIA CÔNG ĐƠN VỊ SẢN PHẨM
KHOẢNG MỤC ĐV TÍNH ÁO JACKET QUẦN ÂU
Sản lượng Chiếc 1 1
Giá gia công Đồng 21.780 8.030
Trị giá hàng gia công 21.780 8.030
1 - Chi phí trực tiếp 14.190 4.281
2 - Chi phí sử dụng MM, TB 2.028 1.150
3 - Chi phí phân xưởng 1.754 850
4 - CP quản lý xí nghiệp 2.304 1.100
5 - Chi phí ngoài SX 1.091 494
6 - Dự phòng lương 220 108
GIÁ THÀNH ĐƠN VỊ SẢN PHẨM SẢN XUẤT TRONG NƯỚC 1999
KHOẢN MỤC ĐV TÍNH ÁO JACKET QUẦN ÂU
I. Giá thành toàn bộ Đồng 537.600.000 421.494.836
1 - Nguyên liệu 331.149.000 267.438.900
2 - Tiền lương 51.798.500 33.410.900
3 - Chi phí sản xuất chung 74.021.500 63.345.000
4 - Giá thành PX 456.960.000 364.194.800
5 - Chi phí bán hàng, QLXN 80.640.000 57.300.036
15

×