Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

thực trạng hoạt động của cơ quan thanh tra giám sát của nhnn trong giai đoạn hiện nay - ý kiến pháp lí về hoạt động thanh tra, giám sát của nhnn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.1 KB, 13 trang )

LUẬT NGÂN HÀNG
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, cơ chế thị trường có rất nhiều ưu điểm song cũng tồn
tại không ít khuyết điểm. Không nằm ngoài quy luật chung, ngành ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường cũng tồn tại những tiêu cực nhất định. Do đặc điểm
là một ngành hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, có ảnh hưởng mạnh đến toàn bộ
nền kinh tế nên Chính phủ nào cũng sử dụng nhiều công cụ để quản lí, hạn chế
hậu quả của khuyết tật ấy. Trong đó, thanh tra là một công cụ thiết yếu, được sử
dụng rất hiệu quả. Xuất phát từ đặc điểm riêng và ảnh hưởng của ngành, hoạt
động thanh tra, giám sát ngân hàng cũng có những đặc thù khác thanh tra nói
chung và chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động quản lí. Với mục đích
nhìn nhận lại tổng quát thực trạng thanh tra, giám sát ngân hàng nhà nước ở
Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện chúng, bài viết của
nhóm A1 xin được đề cập đến nội dung: “Tìm hiểu và làm rõ nội dung thực
trạng hoạt động của cơ quan thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước trong
giai đoạn hiện nay và đưa ra ý kiến pháp lí về hoạt động thanh tra, giám sát
của ngân hàng nhà nước.”
B. NỘI DUNG
I. Tổng quan về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
Khoản 1 Điều 50 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định: “Thanh tra
ngân hàng là thanh tra nhà nước chuyên ngành về ngân hàng, được tổ chức
thành hệ thống bộ máy ngân hàng nhà nước. Mục đích của thanh tra ngân hàng
là nhằm góp phần đảm bảo an toàn các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực thi chính sách tiền tệ quốc
gia”.
Từ khi quy chế giám sát ra đời, thanh tra ngân hàng thực hiện giám sát các tổ
chức tín dụng (TCTD) theo 2 cấp gồm: thanh tra ngân hàng nhà nước (NHNN);
thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Đối tượng giám sát và nội dung
giám sát theo quyết định 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 9/11/1999 của thống đốc
NHNN
1


LUẬT NGÂN HÀNG
II. Nội dung, thực trạng hoạt động của cơ quan thanh tra giám sát ngân
hàng nhà nước trong giai đoạn hiện nay:
1. Nội dung thanh tra, giám sát ngân hàng:
a. Nội dung thanh tra:
Trong công tác thanh tra, giám sát ngân hàng thì việc xác định nội dung
thanh tra, giám sát ngân hàng là việc cần thiết. Việc xác định các nội dung này
càng “trúng” và “sát” bao nhiêu thì công tác thanh tra, giám sát ngân hàng càng
hiệu quả bấy nhiêu.
Theo thông lệ, hoạt động thanh tra ngân hàng bao gồm những nội dung
sau:
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, việc thực hiện các
quy định trong giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp.
- Xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính
của đối tượng thanh tra ngân hàng, thông qua việc đánh giá quy trình nghiệp vụ
và các báo cáo tài chính. Trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét và cảnh báo về
rủi ro và ngân hàng đang đối mặt.
- Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tiền tệ
và ngân hàng.
- Kiến nghị, yêu cầu đối tượng thanh tra ngân hàng có biện pháp hạn chế, giảm
thiểu và xử lý rủi ro để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và phòng ngừa,
ngăn chặn hành động dẫn đến vi phạm pháp luật.
- Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng. Thực hiện các
bước tái cơ cấu hệ thống và xử lý những TCTD yếu kém theo phương châm
toàn diện, thận trọng, đảm bảo an toàn hệ thống, xử lý nghiêm theo quy định
của pháp luật những hành vi vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng, vi phạm sự chỉ đạo, điều hành của NHNN; chủ động phối hợp công tác
với các đơn vị thuộc trụ sở chính, với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố; rà soát

2
LUẬT NGÂN HÀNG
cơ chế, chính sách, quy định trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng,
trong đó chú trọng hoạt động cấp tín dụng; thực hiện có hiệu quả các giải pháp
về phòng, chống tham nhũng, phòng chống tội phạm trong từng tổ chức, đơn
vị,
b. Nội dung giám sát:
- Thu thập, tổng hợp và xử lý tài liệu, thông tin, dữ liệu theo yêu cầu giám sát
ngân hàng.
- Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân
hàng và các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; việc thực hiện
kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về
giám sát ngân hàng.
- Phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức
độ rủi ro của tổ chức tín dụng; xếp hạng các tổ chức tín dụng hằng năm.
- Phát hiện, cảnh báo rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và nguy cơ
dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng.
- Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, vi phạm
pháp luật. Khuyến nghị hoặc yêu cầu những việc mà ngân hàng cần làm ngay
hoặc cần chú ý nhằm lành mạnh hóa và nâng cao độ an toàn trong hoạt động
ngân hàng.
Các nội dung trên đây phản ánh những công việc chính mà cơ quan thanh
tra giám sát ngân hàng phải thực hiện. Để cho việc thanh tra giám sat ngân hàng
được hiệu quả, các nội dung này cần được quy định rõ trong những văn bản
pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động cơ quan thanh tra giám sát ngân
hàng. Bằng cách đó vừa gắn trách nhiệm với quyền hạn của chủ thể tham gia
giám sát ngân hàng, vừa là sự tuyên bố công khai với các chủ thể có liên quan
để yêu cầu các chủ thể này có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thanh tra giám
sát ngân hàng trong việc triển khai công tác thanh tra, giám sát hoạt động ngân
hàng trong nền kinh tế.

3
LUẬT NGÂN HÀNG
2. Thực trạng hoạt động của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng nhà
nước
a. Về cơ cấu tổ chức
Trên thực tế, cơ cấu tổ chức hoạt động của Thanh tra Giám sát Ngân hàng
đã có sự cải cách nhưng các chức năng thanh tra giám sát ngân hàng còn bị
phân tán và được thực hiện bởi các Vụ, Cục khác nhau trong NHNN Việt Nam,
thể hiện như sau:
- Chức năng giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ thuộc trách nhiệm của Thanh
tra NHNN nhưng các Vụ khác trong NHNN cũng thực hiện chức năng chức
năng giám sát từ xa. Cụ thể, Vụ Kế toán Tài chính, Vụ Tín dụng, Vụ Quản lý
Ngoại hối, Vụ Chính sách Tiền tệ đều yêu cầu các TCTD phải báo cáo về
tình hình hoạt động của TCTD theo nội dung thuộc quyền quản lý của mình;
- Nhiệm vụ phát hiện các vi phạm, sai phạm của các NHTM là nhiệm vụ của
Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng, trong khi nhiệm vụ xử lý các sai phạm
lại do các Vụ, Cục khác trong NHNN đảm nhiệm, nên hiệu lực c

a hoạt động
thanh tra, giám sát còn hạn chế;
- Các Vụ, Cục chức năng thuộc NHNN chịu trách nhiệm ban hành các quy định
về chính sách và quy định an toàn cho hoạt động ngân hàng theo chức năng
của đơn vị mình. Thanh tra NHNN chịu trách nhiệm giám sát thực hiện các
quy định an toàn. Do cơ quan ban hành các quy định an toàn và cơ quan giám
sát là hai đơn vị độc lập, vì thế đôi khi có những bất đồng giữa việc hiểu và áp
dụng các quy định giữa đơn vị ban hành quy định và đơn vị thanh tra giám
sát;
- Cơ chế phối hợp giữa cơ quan Thanh tra, giám sát Trung ương với cơ quan
Thanh tra tại các địa phương chưa được hoàn toàn thực hiện theo cơ chế chiều
dọc. Chưa có sự phân định trách nhiệm một cách rõ ràng về phạm vi hoạt động,

chương trình làm việc, các kênh thông tin báo cáo, chia sẻ thông tin, những vấn
đề về thanh tra giám sát ngân hàng trên cơ sở hợp nhất;
- Ngoài ra, cho đến nay, NHNN vẫn chưa có cơ chế phối hợp, sử dụng kết
4
LUẬT NGÂN HÀNG
quả thanh tra tại chỗ và giám
s
át từ xa, vì vậy, vừa gây lãng phí nguồn lực vừa
giảm tính hiệu quả trong thanh tra, giám sát.
b. Về mục tiêu hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
Theo thông lệ quốc tế, có 4 mục tiêu chiến lược của hoạt động thanh tra
giám sát ngân hàng:(i) Duy trì sự ổn định của thị trường; (ii) Tăng cường sự
nhận thức của công chúng; (iii) Bảo vệ người tiêu dùng; và (iv) Giảm thiểu tội
phạm tài chính.
Điều 50 Luật NHNN 2010 quy định rõ mục đích của thanh tra, giám sát ngân
hàng nhằm góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống
các TCTD và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
gửi tiền và khách hàng của TCTD; duy trì và nâng cao lòng tin của công
chúng đối với hệ thống các TCTD; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp
luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý
nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
c. Về phương pháp thanh tra giám sát ngân hàng
Hiện nay, Cơ quan Thanh tra, Giám sát Ngân hàng đã tiến hành xây dựng
và thực hiện phương pháp đánh giá năng lực tài chính theo các tiêu chí
CAMELS (C = Capital (Vốn); A= Assets (tài sản có); M = Management
(Quản lý); E = Earnings (Lợi nhuận); L= Liquidity (Khả năng thanh khoản);
S = Sentitivity
(
đ


nhạy cảm với các rủi ro thị trường) đối với các TCTD
như là một bước trung chuyển để tiến tới thực hiện phương pháp thanh tra
giám sát dựa trên rủi ro. Phương pháp giám sát dựa trên rủi ro là phương pháp
giám sát mà hiện nay hầu hết các thị trường tài chính phát triển đang áp
dụng. Trên cơ sở các điều kiện dần dần được hội tụ đủ, phương pháp giám
sát sẽ được chuyển dần từ giám sát theo CAMELS sang phương
ph
á
p

g
iám sát
dựa trên rủi ro trong khi vẫn đảm bảo tính kế thừa và phát triển.
d. Về khung pháp lý đối với hoạt động của thanh tra ngân hàng
Luật các TCTD và các quy định có liên quan hiện nay đã tạo khung pháp
lý tương đối hoàn thiện về an toàn hoạt động ngân hàng. NHNN là cơ quan
5
LUẬT NGÂN HÀNG
duy nhất chịu trách nhiệm giám sát an toàn hoạt động ngân
h
à
ng.
T
rong
Luật
NHNN có quy định NHNN cần phối hợp với các cơ quan Chính phủ khác,
nhưng dường như việc hợp tác này mới dừng lại ở những khía cạnh kinh tế
và tiếp cận dịch vụ ngân hàng chứ chưa đi vào các vấn đề an toàn hoạt động.
Các quy định để hỗ trợ áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro đến
nay vẫn chưa có,

như các quy định về các loại rủi ro, cơ chế đánh giá, đo lường
rủi ro mà hiện các TCTD đang
phải đương đầu và thực tế các TCTD đã phải
chịu những tổn thất như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro công nghệ ,
các quy định về quản trị rủi ro nội bộ của TCTD. Bên cạnh đó, các quy định
làm nền tảng cho hoạt động thanh tra hiện nay cũng chưa được ban hành đầy
đủ như quy trình thanh tra phúc tra, quy chế xét giải quyết khiếu nại tố cáo
trong ngành ngân hàng, các quy định đảm bảo quyền lợi vật chất, tinh thần cho
cán bộ thanh tra cả trước mắt và lâu dài để cán bộ thanh tra an tâm phấn đấu và
chuyên tâm với nghề.
Hoạt động của TCTD được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật và các
văn bản dưới luật. Tuy nhiên, những văn bản này có nhiều trường hợp chưa rõ
ràng, thiếu đồng bộ làm cho việc áp dụng của các TCTD chưa thống nhất; căn
cứ để thanh tra ngân hàng kết luận vi phạm của TCTD không đầy đủ, chặt chẽ
làm cho hiệu lực thanh tra bị hạn chế.
Hiện tại, việc ghi nhận trong công tác kế toán của các TCTD Việt Nam chưa
thật phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Điều này dẫn đến những đánh
giá của các thanh tra viên về một TCTD có một sự khác biệt so với những
đánh giá dựa trên những chuẩn mực quốc tế. Đây thực sự là thách thức cho
hoạt động của thanh tra ngân hàng, đặc biệt khi lĩnh vực tài chính ngân hàng
được mở cửa mạnh mẽ.
e. Về chất lượng đội ngũ thanh tra, giám sát
Thực tế cho thấy, lực lượng thanh tra viên nhìn chung còn trẻ, ít kinh
nghiệm về hoạt động ngân hàng. Công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ thanh
tra viên chưa được thực hiện thường xuyên và bài bản, do vậy, gây ra những
6
LUẬT NGÂN HÀNG
hạn chế nhất định đến việc nâng cao trình độ thanh tra viên. Hơn nữa, hạn chế
trong hoạt động đào tạo dẫn đến thực tế là đa số Thanh tra Ngân hàng chỉ mới
thực hiện kiểm tra mức độ tuân thủ của ngân hàng với các quy định pháp lý chứ

chưa đi sâu đánh giá hoạt động ngân hàng dựa trên kỹ năng xác định rủi ro.
Trình độ của cán bộ, thanh tra viên còn nhiều bất cập, trong khi đó các nghiệp
vụ của NHTM ngày càng đa dạng, phức tạp và được thực hiện bởi công nghệ
ngân hàng hiện đại làm hạn chế không ít đến hiệu quả, hiệu lực của hoạt động
thanh tra.
Trước xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và hội nhập quốc tế, sự
phát triển mạnh mẽ cả về tổ chức và hoạt động của các TCTD đòi hỏi phải
hoàn thiện hơn công tác thanh tra, giám sát.
III. Ý kiến pháp lý về hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng Nhà
nước
Như chúng ta đã biết, ngành Ngân hàng Việt Nam vẫn đang trong quá trình
chuyển đổi. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây, một hệ thống ngân hàng
một cấp đã được tạo dựng và tồn tại suốt gần bốn thập kỷ. Vào thời kỳ đó, mọi
nguồn lực kinh tế của đất nước đều được phân bổ theo mệnh lệnh của Chính
phủ. Có rất ít nhu cầu đòi hỏi cần thiết phải xây dựng và thực thi chính sách tiền
tệ (CSTT) cũng như thanh tra giám sát các tổ chức tài chính. Cuộc cải cách
ngân hàng bắt đầu từ cuối thập kỷ 80, được đặc trưng bằng việc tách ra để hình
thành nên một hệ thống ngân hàng 2 cấp, gồm một cơ quan của Chính phủ -
Ngân hàng Nhà nước mới - đóng vai Ngân hàng Trung ương (NHTW), và 4
Ngân hàng Thương mại Nhà nước chuyên doanh độc lập. Một hệ thống pháp
luật về ngành ngân hàng đã được xây dựng nhằm tạo lập những khuôn khổ pháp
lý ban đầu cho sự vận hành của hệ thống ngân hàng mới. Trong khi NHNN mưu
cầu đảm đương những nhiệm vụ thông thường của một NHTW trong nền kinh
tế thị trường - hoạch định và thực thi CSTT quốc gia, và thanh tra, giám sát hệ
thống tài chính - ngân hàng, các NHTM bắt đầu hướng về mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận và tập dượt hạch toán kinh tế.
7
LUẬT NGÂN HÀNG
Sau hơn hai thập kỷ tiến hành cải cách, hệ thống NH đã trải qua 4 giai
đoạn phát triển đáng lưu ý:

(i)Giai đoạn 1990 - 1996: ghi nhận sự tăng lên nhanh chóng về số lượng
và loại hình tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm đáp ứng sự tăng vọt của cầu về dịch
vụ tài chính trong giai đoạn đầu “bung ra” trong thời kỳ chuyển đổi.
(ii)Giai đoạn 1997 - 2005: củng cố, chấn chỉnh hệ thống ngân hàng hai cấp
mới được hình thành trong bối cảnh khủng hoảng tiền tệ châu Á.
(iii)Giai đoạn 2006 - 2010: nâng mức vốn pháp định và tăng cường các
quy chế điều tiết; các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) nông thôn
được chuyển đổi lên thành ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần đô thị; một
số ngân hàng mới được thành lập, xuất hiện loại hình ngân hàng 100% vốn
nước ngoài.
(iv)Giai đoạn 2011 đến nay: hệ thống ngân hàng bộc lộ những yếu kém, dễ
tổn thương vì những yếu kém tồn tích từ lâu, đe dọa gây đổ vỡ hệ thống, dẫn tới
yêu cầu cấp thiết phải tiến hành tái cơ cấu hệ thống các TCTD.
Trong suốt những năm này, mặc dù đã tách bỏ chức năng trực tiếp kinh
doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng để trở về với vai trò là cơ quan của
Chính phủ thuần tuý thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, đồng thời là NHTW của đất nước, NHNN vẫn chưa hoàn toàn
thoát ra khỏi khuôn mẫu truyền thống mang nặng tính quản lý hành chính của
thời kỳ ngân hàng độc quyền một cấp trước đây. Cụ thể, NHNN vẫn tiếp tục
duy trì vai trò bộ chủ quản của mình đối với các NHTMNN – nhóm TCTD NN
đang tiếp tục thống trị hệ thống NH/ khu vực tài chính. Bộ máy tổ chức của
NHNN vẫn mang dáng dấp của một cơ quan hành chính - cơ quan ngang bộ
nhưng có cấu trúc ngành dọc.
Chính vì chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu giám sát theo các chuẩn
mực quốc tế hệ thống các chỉ tiêu giám sát còn thiếu và chưa phù hợp với thông
lệ quốc tế, công nghệ thông tin còn chắp vá, lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu
8
LUẬT NGÂN HÀNG
giữa bộ phận Giám sát từ xa (GSTX) và Thanh tra tại chỗ (TTTC), chưa tiến
hành đánh giá xếp hạnh các TCTD theo tiêu chuẩn quốc tế CAMELS.

Trình độ cũng như sự phát triển của các TCTD nội địa chưa đáp ứng được
các chuẩn mực quốc tế.Hệ thống tài khoản kế toán mà các TCTD nước ta đang
áp dụng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Trình độ cán bộ thanh tra vẫn còn
bất cập, chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức và điều kiện theo tiêu chuẩn
thanh tra viên quốc tế; các quy định liên quan đến thanh tra ngân hàng vẫn chưa
được bổ sung điều chỉnh kịp thời.
Hệ thống thanh tra ngân hàng đang được tổ chức theo hai cấp: Thanh tra
NHNN và thanh tra NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Thanh tra chi nhánh chịu sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của tránh thanh tra
NHNN, đồng thời chỉ đạo của giám đốc chi nhánh NHNN trong phạm vi trách
nhiệm quản lý của chi nhánh NHNN.Vì vậy mà tính độc lập của thanh tra
NHNN còn hạn chế, trong khi về nguyên tắc, tính độc lập của TTNH càng được
đảm bảo thì hiệu quả giám sát càng cao. Thanh tra NHNN chịu sự can thiệp của
thanh tra nhà nước. Hiện tượng chồng chéo và kém hiệu quả của thanh tra còn
phổ biến, thanh tra chi nhánh NHNN vừa chịu sự điều hành trực tiếp của giám
đốc chi nhánh vừa phải tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra hàng năm của
thanh tra NHNN do thống đốc NHNN phê duyệt, chánh thanh tra NHNN triển
khai.
Cùng thực hiện chức năng kiểm tra giám sát hoạt động của các TCTD
nhưng giữa các đơn vị liên quan (các vụ, cục ở NHTW, các chi nhánh
NHNN…) chưa có sự phối hợp chặt chẽ vừa gây ra tình trạng chồng chéo, trùng
lặp, vừa tạo nên những lĩnh vực bị bỏ sót trong thanh tra giám sát. Do đó, không
thể tránh khỏi tình trạng đùn đẩy trách nhiệm của các bộ phận liên quan còn có
trường hợp vi phạm không bị kiểm tra, phát hiện xử lý kịp thời.
Với sự hội nhập ngày càng gia tăng của nền kinh tế nước ta vào nền kinh
tế thế giới hiện nay, buộc hệ thống ngân hàng Việt Nam phải có những chuyển
biến mạnh mẽ và nhanh chóng để có thể nắm bắt được các cơ hội và đối phó có
9
LUẬT NGÂN HÀNG
hiệu quả với những nguy cơ; đảm bảo các điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và

phát triển vững mạnh cho hệ thống tài chính, tiền tệ nước nhà trong mội trường
mở cửa và tự do hoá hệ thống tài chính. Là công cụ quan trọng trong quản lý
nhà nước về lĩnh vực tài chính ngân hàng, do đó yêu cầu đổi mới tổ chức và
hoạt động thanh tra ngân hàng là hết sức cấp bách khẩn trương, đòi hỏi một sự
thay đổi sâu sắc và toàn diện để có thể ngang tầm với khu vực và quốc tế.
Mục tiêu đổi mới là phải tạo ra một tổ chức thanh tra chuyên ngành độc
lập và hiệu lực. Tổ chức mới này phải khắc phục được những nhược điểm đã
nêu trên của mô hình tổ chức, của cơ chế chỉ đạo điều hành trong hoạt động
thanh tra giám sát đối với lĩnh vực tiền tệ và hoạt động không chỉ của hệ thống
ngân hàng mà tiến tới đối với cả hệ thống tiền tệ quốc gia. Ngoài ra, xu thế toàn
cầu hoá và hội nhập với khu vực và với thế giới trong lĩnh vực ngân hàng cũng
đòi hỏi đổi mới của thanh tra ngân hàng Việt Nam về tổ chức bộ máy, nội dung
nghiệp vụ, cách thức phương pháp cũng như cơ chế điều hành, giám sát của
thanh tra ngân hàng phải phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Từ những phân tích trên, chúng em xin đưa ra một số khuyến nghị nhằm
góp phần hỗ trợ cho công cuộc cải cách toàn diện, triệt để thể chế thanh tra
giám sát Ngân hàng Nhà nước tại VN:
a) Về tổ chức
Nâng cao tính độc lập của thanh tra ngân hàng; sắp xếp lại chức năng
thanh tra tại chỗ; cho phép thanh tra ngân hàng được uỷ nhiệm một số công việc
cho kiểm toán độc lập vì với nhân lực có hạn trong khi khối lượng thanh tra của
ngân hàng ngày càng nhiều, cần có quy định thanh tra NH được uỷ nhiệm một
số công việc của mình cho kiểm toán độc lập như ở một số nước phát triển, tất
nhiên một khi kiểm toán độc lập đạt được chuẩn mực nhất định.
b) Về phương thức thanh tra
Đối với GSTX, nâng cao hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công
tác giám sát là hết sức quan trọng, có như vậy hệ thống GSTX mới có được tính
kịp thời. Bên cạnh đó, chúng ta tiến tới việc hoàn thiện các chỉ tiêu giám sát
10
LUẬT NGÂN HÀNG

theo tiêu chuẩn Basel 1 đồng thời cần nghiên cứu việc thực hiện các tiêu chuẩn
Basel 2, những gì có thể áp dụng được phù hợp với thực tế VN.
Đối với TTTC, cần cải cách phương pháp thanh tra, xử dụng phương pháp
thanh tra hệ thống là chủ yếu, với phương pháp thanh tra cụ thể mang tính bổ
xung cho phương pháp thanh tra hệ thống.
Một khi GSTX đạt được chuẩn mực, nhất thiết phải có sự nối mạng giữa
GSTX và các phòng TTTC để TTTC hàng ngày nắm được tình hình của các
TCTD.
c) Tăng cường đào tạo lại nguồn nhân lực cho thanh tra ngân hàng
Để đạt được các mục tiêu trên vấn đề đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực
là hết sức cần thiết. Thanh tra viên ngân hàng cần được đào tạo cập nhật lại
phương pháp thanh tra và các chuẩn mực quốc tế về thanh tra, cũng như phải có
sự hiểu biết sâu sắc về nghiệp vụ và các công cụ ngân hàng hiện đại…đặc biệt
lưu ý đến phương pháp đào tạo thanh tra viên trong công việc, chẳng hạn như
thanh tra viên NHNN tham gia trực tiếp trong các đoàn thanh tra tại các TCTD
ở nước ngoài để tiếp thu trực tiếp phương pháp thanh tra cách làm việc, các tiêu
chuẩn đánh giá các TCTD… tiên tiến của họ.
d) Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra ngân hàng
cũng như các quy định về hoạt động ngân hàng đạt chuẩn mực quốc tế
Luật thanh tra mới có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2004 với một số
điểm mới so với pháp lệnh thanh tra cũ, vì vậy cần sớm ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật cho hệ thống thanh tra ngân hàng phù hợp với luật thanh
tra.
e) Tăng cường hợp tác quốc tế trong thanh tra giám sát ngân hàng
Thanh tra giám sát ngân hàng Nhà nước Việt Nam gần như không có mối
quan hệ để trao đổi thông tin với cơ quan giám sát ngân hàng của các nước có
chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam cũng như Hội sở chính của các ngân hàng
mẹ, trong khi đấy cũng là một tiêu chuẩn của Basel 1. Vì vậy cần có quy định
về vấn đề trao đổi thông tin và hợp tác với các cơ quan giám sát ngân hàng các
11

LUẬT NGÂN HÀNG
nước và hội sở chính của các ngân hàng mẹ, và cũng cần có quy định về trao đổi
thông tin phối kết hợp với cơ quan thanh tra giám sát của bảo hiểm, thị trường
chứng khoán nội địa…
Cần tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế trong việc trao đổi thông
tin, tiếp thu tư vấn về công tác thanh tra, công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực
của thanh tra viên trong và ngoài nước
C. KẾT LUẬN CHUNG
Thực tế đã chứng minh, cơ quan thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà
nước đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo đảm sự ổn định, bền vững
của hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam. Hiện nay, hoạt động thanh tra,
giám sát ngân hàng bước đầu đã có những chuyển biến tích cực; theo đó, nội
dung thanh tra, giám sát đã được mở rộng theo hướng tiếp cận dần với phương
pháp giám sát dựa trên rủi ro… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu mới đạt
được, vẫn còn tồn tại rất nhiều những hạn chế chưa được giải quyết. Hy vọng
trong một tương lai không xa, các cơ quan có thẩm quyền sẽ đề ra những biện
pháp thích hợp để hoạt động thanh tra, giám sát ngày một đạt hiệu quả và đi vào
thực tế.
12
LUẬT NGÂN HÀNG
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, giáo trình
1. Giáo trình Luật ngân hàng, Đại học Luật Hà Nội
2. Bài luận: “Đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà
nước Việt Nam hiện nay” – Lê Ngọc Lân, Bùi Thị Thanh Tình, Học viện
ngân hàng
3. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010
Các website:
1.
2.


×