Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý - hướng giải quyết các khoản nợ sau cho vay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.16 KB, 21 trang )

LUẬT NGÂN HÀNG
A. MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, nên kinh tế nước ta đã phát triển với tốc độ khá cao,
điều này phản ánh tiềm lực của hệ thống Ngân hàng rất mạnh mẽ và các Tổ chức
tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Đồng thời cũng phản ánh nhu cầu vốn cho nền kinh tế nước ta là hết sức lớn. Bên
cạnh những mặt tích cực đã đạt được, hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng
những năm qua đã nảy sinh một số biểu hiện không lành mạnh, báo hiệu nguy cơ
rủi ro thất thoát vốn tín dụng từ các khoản nợ sau cho vay của các tổ chức tín dụng
ngày càng chồng chất. Nếu muốn có một nền kinh tế ổn định, đòi hỏi quốc gia phải
có hệ thống ngân hàng vững mạnh, Chính phủ phải thiết lập được hệ thống pháp
luật chặt chẽ để đảm bảo được hành lang an toàn cho hệ thống các Tổ chức tín
dụng.
Chính vì vậy, để thấy được rõ hơn tầm quan trọng của hoạt động cho vay theo
hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng , em xin lựa chọn đề tài số 8: “Tìm
hiểu hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những
vấn đề thực tiễn pháp lý, đề xuất hướng giải quyết để xử lý đối với các khoản nợ
sau cho vay của tổ chức tín dụng.” làm đề tài cho bài tập học kỳ của mình.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1. Khái niệm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện trong xã hội loài
người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Trong pháp luật dân sự,
hiểu theo nghĩa chung nhất, cho vay là việc một người thỏa thuận để cho người
khác được sử dụng tài sản của mình trong một thời hạn nhất định với điều kiện có
hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình với người đó.
Theo quy định Điều 17 Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng
12 năm 2001 của Thống đống ngân hàng nhà nước, Về việc ban hành Quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng: “Việc cho vay của tổ chức tín dụng
và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng


phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho
vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo
đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận”.
- 362612 1
LUẬT NGÂN HÀNG
Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng là một hoạt
động cho vay dựa trên hình thức pháp lí của quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng
với khách hàng là hợp đồng tín dụng; tức là, một hoạt động cấp tín dụng của tổ
chức tín dụng cho khách hàng, trong đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử
dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa
thuận được ghi nhận trong hợp đồng tín dụng giữa hai bên chủ thể trong quan hệ
cho vay, với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Tổ chức tín dụng có quyền cho
vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống. Khi cho vay, tổ chức tín dụng phải
tuân thủ các nguyên tắc, quy chế pháp lý về cho vay.
2. Đặc điểm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng luôn mang những yếu tố cấu thành cơ
bản của quan hệ cho vay nói chung. Ngoài những dấu hiệu chung của quan hệ cho
vay, hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng còn thể hiện ở
những dấu hiệu có tính đặc thù sau:
Một là, việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh
doanh mang tính chức năng. Mặc dù theo luật Việt Nam hiện hành, các tổ chức
khác không phải là tổ chức tín dụng cũng có thể thực hiện việc cho vay đối với
khách hàng như một hoạt động kinh doanh nhưng hoạt động cho vay của tổ chức
này hoàn toàn không phải là nghề nghiệp kinh mang tính chức năng như đối với
các tổ chức tín dụng.
Hai là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ là một nghề kinh
doanh mà hơn nữa còn là một nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện, thể hiện ở chỗ
hoạt động cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng phải thỏa mãn một số điều
kiện nhất định như phải có vốn pháp định, phải được Ngân hàng Nhà nước cấp

giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc đăng ký kinh doanh theo
luật định.
Ba là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ngoài việc tuân thủ các quy
định chung của pháp luật về hợp đồng, nó còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về
hợp đồng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về Ngân hàng, kể cả tập
quán thương mại về ngân hàng.
3. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng(HĐTD) của
tổ chức tín dụng (TCTD)
- 362612 2
LUẬT NGÂN HÀNG
a) Nguyên tắc tránh rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng:
Trong hoạt động ngân hàng thường có tính rủi ro rất cao và thường mang tính
chất dây chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Để tránh những rủi
ro này, các tổ chức tín dụng ngày nay thường thực hiện việc thẩm định tín dụng với
tám biện pháp thẩm định sau: tính cách người đi vay (character), tư cách của người
đi vay (capacity), khả năng trả nợ (capability), dòng tiền (cashflow), vốn (capital),
điều kiện hoạt động (conditions), tài sản chung (collectability) và tài sản thế chấp
(collateral).
b) Nguyên tắc phải sử dụng vốn vay đúng mục đích:
Nguyên tắc này đảm bảo cho các tổ chức tín dụng tránh được những rủi ro từ
bên vay, đồng thời đảm bảo được tính thực hiện hợp đồng, nếu bên vay vi phạm
nguyên tắc này thì bên cho vay có quyền huỷ bỏ hợp đồng và bên vay phải chịu sự
điều chỉnh theo pháp luật.
c) Nguyên tắc hoàn trả khoản tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo thoả thuận:
Bên vay phải đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc này. Trường hợp bên vay có
thể trả chậm hơn thời han quy định nếu có sự gia hạn và được bên cho vay chấp
thuận, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc này, thanh toán cả gốc và lãi theo đúng
thời gian đã gia hạn.
4. Phân loại cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng
Với sự phát triển không ngừng và đa dạng hóa nhiều hoạt động ngân hàng

hiện nay, việc phân loại cho vay của TCTD có ý nghĩa quan trong cả về lý luận và
thực tiễn .Điều đó thể hiện ở chỗ ,dựa vào kết quả phân loại cho vay mà các nhà
làm luật có thể xây dựng thành những quy chế cho vay phù hợp với hoạt động thực
tiễn nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng. Ở đây, em xin đưa ra một số hình thức cho
vay căn cứ vào những tiêu chí sau đây:
a) Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn:
- Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách
hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là đến một năm. Hình
thức này chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong hoạt
động kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong một
thời hạn ngắn.
- Cho vay trung và dài hạn: hình thức này khác cho vay ngắn hạn là với thời gian
thỏa thuận là từ trên một năm trở lên. Người đi vay sử dụng hình thức này để thỏa
- 362612 3
LUẬT NGÂN HÀNG
mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định trong kinh doanh, thỏa mãn nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại…
b) Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay:
- Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ trả nợ
tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ ba. Việc cho
vay này phải được bảo đảm dưới hình thức ký kết cả hai loại hợp đồng, bao gồm
hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay (hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế
chấp, hợp đồng bảo lãnh). Pháp luật cũng cho các bên có thể thỏa thuận lập một
hợp đồng nên trong trường hợp này các thỏa thuận về bảo đảm tiền vay được xem
là một bộ phận hợp thành của hợp đồng có bảo đảm bằng tài sản.
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ
hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản cụ thể, xác định của khách
hàng vay hoặc của người thứ ba. Thông thường các bên chỉ giao kết một hợp đồng
duy nhất là hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tổ chức tín dụng cho vay có bảo
đảm bằng tín chấp thì vẫn phải xác lập một văn bản cam kết bảo lãnh bằng uy tín

của mình và gửi cho tổ chức tín dụng để khách hàng vay có thể được tổ chức tín
dụng chấp nhận cho vay.
c) Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay kinh doanh: là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền vay sử
dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của mình. Nếu bên vay vi
phạm sử dụng vào những mục đích khác thì bên cho vay có quyền áp dụng các chế
tài thích hợp như đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc thu hồi vốn vay trước thời
hạn…
- Cho vay tiêu dùng: bên tham gia vay cam kết số tiền vay sẽ được sử dụng vào
việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua sắm
nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, hay sử dụng vào mục đích học tập…
c) Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn, khách hàng và TCTD làm thủ tục vay vốn
cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. TCTD áp dụng phương thức cho vay này khi
khách hàng vay có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Mỗi lần có nhu cầu vay
vốn, khách hàng lập hồ sơ vay vốn theo quy định.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín dụng được áp dụng
đối với khách hàng vay có nhu cầu vay vốn thường xuyên và có đặc điểm sản xuất
- 362612 4
LUẬT NGÂN HÀNG
– kinh doanh, luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần
Căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách
hàng, tài sản bảo đảm tiền vay, TCTD và khách hàng xác định và thoả thuận một
hạn mức tín dụng duy trì trong khoảng thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản
xuất, kinh doanh.
- Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự
án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống.
- Cho vay hợp vốn: Theo phương thức này, một nhóm TCTD cùng thực hiện cho
vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó,

một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp. Cho vay hợp vốn được thực hiện theo
quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các TCTD do Thống đốc Ngân hàng nhà
nước ban hành.
- Cho vay trả góp: Khi vay, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận
số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn
trong thời hạn cho vay.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: TCTD chấp
nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để
thanh toán tiềm mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc
điểm ứng tiền mặt là đại lý của TCTD. Việc cho vay thông qua nghiệp vụ phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: TCTD cam kết đảm bảo sẵn sàng cho
khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư cho dự
án. TCTD và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự
phòng, mức trả phí hco hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thoả thuận bằng văn
bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về
hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
II.PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
- 362612 5
LUẬT NGÂN HÀNG
Khái niệm: Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức
tín dụng (bên cho vay) với khách hàng (bên vay, tổ chức, cá nhân) nhằm xác lập
quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ
chức tín dụng (bên cho vay) chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng
(bên vay) sử dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn

trả khoản tiền đó (tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định.
Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
• Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản.
• Nội dung hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận cho bên
vay sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có
hoàn trả dựa trên sự tín nhiệm.
• Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện luật
định, còn bên vay có thể là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn do pháp
luật quy định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao gồm
tiền mặt và bút tệ.
• Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho vay.
Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
• Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên
cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
2. Chủ thể của hợp đồng tín dụng
a. Bên cho vay:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở thành chủ
thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau:
 Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
 Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
 Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
 Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng
với khách hàng.
Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành chủ
thể cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều kiện
như có giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
có người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng
- 362612 6
LUẬT NGÂN HÀNG

nhận đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là
hoạt động ngân hàng đươc phép thực hiện.
b. Bên vay:
Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc, những
điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi hợp
đồng tín dụng):
- Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ chức
là pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp pháp có
đủ năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết hợp đồng tín dụng.
- Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện này chỉ có
tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả thuận rõ
trong hợp đồng tín dụng):
 Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
 Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.
 Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người
thứ ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
3. Giao kết hợp đồng tín dụng
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp
vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp
đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện
dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí
mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân
có nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo
các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương
án sử dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín dụng để xem
xét, thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đòng tín dụng.
Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây

cho thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là
tổ chức tín dụng chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả năng cạnh
tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Những tổ chức tín dụng đã từng đi tiên
phong trong việc lựa chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân
- 362612 7
LUẬT NGÂN HÀNG
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp
này, văn bản đề nghị là thư chào mời được tổ chức tín dụng gửi cho tổ chức, cá
nhân có khả năng tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay
vốn thường xuyên (gọi là những khách hàng tiềm năng) mà tổ chức tín dụng lựa
chọn là bên đối tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (tổ chức tín dụng) thường
đưa ra những điều kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo những ước khoản cụ
thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, do một thư chào mời có thể
không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên
tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó
thì không vì thế mà hợp đồng tín dụng được coi là đã hình thành.
Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:
Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ –
pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với
bên vay, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan
trọng của giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi
hỏi bên cho vay là tổ chức tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính
độc lập, phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu
thẩm định và khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của
khách hàng, bên cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho
vay. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách
hàng bằng văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. Việc từ chối cho vay
không có căn cứ xác đáng có thể là lí do để khách hàng thực hiện hành vi đối
kháng với tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên

nhận đề nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với
nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý
ký kết hợp đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên.
Có nghĩa là việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi
các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của
hợp đồng (bao gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy
nghi) và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp
đồng tín dụng.
- 362612 8
LUẬT NGÂN HÀNG
Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối
cùng, cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong
giai đoạn này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín
dụng. Giai đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký
tên vào văn bản hợp đồng tín dụng.
4. Hình thức của hợp đồng tín dụng
Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng
đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy
định như vậy là vì những ưu điểm sau đây:
- Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể cho
việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công
khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người
thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn
trong trường hợp cần thiết.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có
trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn

bản viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương
tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản.
Các hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và
có giá trị chứng cứ trong quá trình giao dịch.
5. Nội dung của hợp đồng tín dụng
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có
đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với
pháp luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm
phát sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng
tín dụng.
Theo quy định tại điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, nội dung của hợp đồng
tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
- 362612 9
LUẬT NGÂN HÀNG
 Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần
ghi rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa
mãn thì hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực.
 Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa
thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín
dụng đáo hạn.
 Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng
tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày
ký hợp đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về
khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa
thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
 Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản rất
quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế,
các bên phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng
(trả góp) hay là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay
được thỏa thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu

trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính
của bên vay khi trả nợ.
 Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên cần
ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản
này trong hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn
về vốn cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên
vay sử dụng vốn một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt
khác, để bảo đảm lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được
sử dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các
bên có quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời
cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
 Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản
mang tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp
giải quyết tranh chấp bằng con ¬đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn
cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín
dụng không ghi điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc
xác định thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật.
- 362612 10
LUẬT NGÂN HÀNG
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài
sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản
riêng rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành một hợp
đồng phụ đính kèm theo hợp đồng chính.
6. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng
a) Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay:
- Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng hạn và địa điểm cho khách hàng vay
sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).
- Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng.
- Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt, tiền

bồi thường thiệt hại (nếu có).
b) Quyền và nghĩa vụ của bên vay:
- Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi ký kết, thực
hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng.
- Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc các vi
phạm hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
- Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp đồng tín dụng
và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).
7. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng
a) Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
 Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng phải có đủ năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự
 Mục đích và nội dung của HĐTD không trái pháp luật đạo đức và xã hội.
 Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng và tự do ý chí.
 Hình thức của HĐTD phải phù hợp với quy định của pháp luật ngân hàng.
b) Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Trên
thực tế, pháp luật của từng nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm
- 362612 11
LUẬT NGÂN HÀNG
phát sinh hiệu lực của HĐTD. Còn ở Việt Nam, theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể lý
giải rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa
thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản
HĐTD.

c) Sự vô hiệu của HĐTD và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệu
Trên nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện
có hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu
này, về lí thuyết có thể được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối (đương nhiên vô
hiệu) hoặc tương đối (có thể vô hiệu).
Trong khoa học pháp lí, việc xác định trạng thái vô hiệu (tuyệt đối hoặc tương
đối) của các giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng
nói riêng thường dựa vào nguyên tắc cơ bản là:
 HĐTD bị coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung, hình thức của hợp đồng
vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội và phương hại đến lợi
ích chung. Hậu quả pháp lý xảy ra là: Hợp đồng không phát sinh hiệu lực kể từ
thời điểm kí kết; các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi kí kết hợp
đồng.
 HĐTD bị coi là vô hiệu tương đối khi chủ thể tham gia HĐ ko có năng lực hành vi
dân sự hoặc hợp đồng kí kết không có sự tự nguyện và đồng thuận giữa các bên kí
kết. Hậu quả pháp lý xảy ra cũng giống như đối với HĐTD vô hiệu tuyệt đối.
8.Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD
a)Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD
Trước khi đề cập đến các loại trách nhiệm pháp lý phát sinh do việc vi phạm
HĐTD ta tìm hiểu thế nào là vi phạm HĐTD và 1 hành vi phải thỏa mãn điều kiện
gì thì được coi là vi phạm hợp đồng.
Vi phạm HĐTD là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia hợp đồng cố ý
hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa mãn các
điều kiện:
 Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD.
 Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.
 Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.
 Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền và lợi
ích chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác.
- 362612 12

LUẬT NGÂN HÀNG
Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp
lý phát sinh khi có việc vi phạm HĐTD:
- Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp đồng
nên không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách nhiệm
này do các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có thiệt
hại vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền
bồi thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ
quan tài phán có thẩm quyền.
b) Tranh chấp phát sinh từ HĐTD và cơ chế giải quyết tranh chấp
- Tranh chấp phát sinh từ HĐTD là tình trạng pháp lý của quan hệ HĐTD, trong
đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và
nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ HĐTD.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế thương lượng hoặc hòa giải qua trung
gian.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán.
III.THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Trong những năm qua, pháp luật về hoạt động cho vay theo HĐTD của các
TCTD đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tế hoạt động
cho vay của ngân hàng cho thấy, đã phát sinh nhiều bất cập trong các chính sách
của Nhà nước, thực tiễn pháp lý về hoạt động này vẫn còn tồn tại không ít những
vấn đề bất cập.
• Thứ nhất, một số quy định cho vay chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt động tín
dụng ngân hàng. Điều 126 Luật TCTD 2010 hay Điều 19 của Quy chế cho vay của
TCTD ban hành kèm theo Quyết định 1627/2011/QĐ – NHNN ngày 31 tháng 12
năm 2001 quy định về những trường hợp không được cho vay. Quy định này còn
hơi cứng nhắc, nếu họ có tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng một cách hợp
pháp và muốn sử dụng để cầm cố thế chấp tại ngân hàng họ đang quản lý hoặc làm

việc thì việc cho vay đối với những đối tượng này không có gì mất an toàn, miễn là
họ sử dụng vốn vay một cách đúng quy định. Ngân hàng cho khách hàng vay dựa
trên những phương án khả thi, tài sản bảo đảm thì tại sao những người này đủ tiêu
- 362612 13
LUẬT NGÂN HÀNG
chuẩn lại không cho vay. Quy định này đã phần nào loại bỏ một bộ phân không
nhỏ những khách hàng có tiềm năng của ngân hàng.
• Thứ hai, quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng còn nhiều bất cập.
Khoản 1 Điều 18 của Quy chế cho vay của TCTD ban hành kèm theo Quyết định
số 1627/2011/QĐ – NHNN quy định “Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng
không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với
những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và
cá nhân”. Trên thực tế, khoảng thời gian cần thiết từ khi tổ chức tín dụng đề nghị
qua Ngân hàng Nhà nước lên tới Chính phủ đến khi có quyết định được phép cho
vay thường kéo dài vài tháng, làm lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và không phù hợp
với cải cách hành chính hiện nay.
• Thứ ba, một số quy định về cơ chế bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay chưa thích hợp. Chẳng hạn, pháp luật hiện hành cho phép được sử dụng tài
sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, do là tài sản trong
tương lai nên không thể chắc chắn rằng tài sản đó được hình thành để cho ngân
hàng xử lý, bù lại mất mát nếu xảy ra tranh chấp. Mặt khác, sự thiếu đồng bộ, thiếu
nhất quán giữa các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay với các bộ
phận pháp luật khác có liên quan như Bộ luật dân sự, pháp luật đất đai, pháp luật
hợp đồng, pháp luật về giải quyết tranh chấp… là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Các
khó khăn này không chỉ xảy ra cho khách hàng khi thực hiện thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh tài sản để vay vốn tổ chức tín dụng mà còn gây khó khăn cho chính
các tổ chức tín dụng ngay trong quá trình thẩm định và phê duyệt các khoản vay có
bảo đảm. Điều này làm cho tỉ lệ nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng ngày càng
cao, nhất là trong giao đoạn hiện nay, khi mạng lưới tín dụng đang được mở rộng.

• Thứ tư, các quy định khống chế lãi suất trần không phù hợp. Tại Điều 476 Bộ
Luật dân sự quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt
quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”. Theo phân tích của hiệp hội ngân hàng Việt Nam, quy định này không
phù hợp bởi các lý do sau:
- Một là, việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua là biện pháp can
thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ
động và linh hoạt của các tổ chức tín dụng trong vấn đề huy động vốn và cho vay,
vì lãi suất hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn của thị trường.
- 362612 14
LUẬT NGÂN HÀNG
- Hai là, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các loại
hình tín dụng vì mỗi loại hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau, chi phí khác
nhau, vì vậy lãi suất cho vay khác nhau. Chính sách lãi suất trần cứng nhắc làm
cho các ngân hàng rất khó đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, mặt khác, cũng làm
hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như tín dụng
bán lẻ, tín dụng tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của tổ chức tín dụng
hiện đại.
- Ba là, để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trường tiền tệ,
ngân hàng nhà nước đã có các công cụ để kiểm soát như lãi suất tái chiết khấu, lãi
suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và điều hành khối lượng tiền cung ứng
mà không cần giải pháp hành chính cứng nhắc như Điều 476 Bộ luật dân sự quy
định.
- Bốn là, Nghị quyết số 23/2008/NQ – QH12 ngày 6/11/2008 của Quốc hội khóa
XII, kỳ họp thứ tư, trong đó cho phép “ Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất
cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của
pháp luật và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản
xuất kinh doanh có hiệu quả cao.” Để thực hiện Nghị quyết trên của Quốc hội,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ – CP ngày 11/12/2008 về
những biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, trong đó đã cho phép

“ Tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận…” Vì vậy, để
thực hiện thành công các giải pháp kích cầu của Chính phủ, đã đến lúc cần thiết
phải cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuậnđể
góp phần thúc đẩy phát triển phong phú các loại hình dịch vụ, tín dụng, kích thích
sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước phát triển.
- Năm là, vấn đề nợ quá hạn và nợ xấu:
+ Nợ quá hạn: Trong nền kinh tế thị trường, các TCTD thu lợi chủ yếu từ các
khoản cho vay với khách hàng, nhưng những khoản cho vay này lại rất dễ gặp
những rủi ro dẫn đến những khoản nợ quá hạn ngày càng lớn. Hiện nay, nợ quá
hạn của các ngân hàng thương mại bị coi là vấn đề bức xúc và phức tạp chất trong
hoạt động cho vay của các TCTD. Những khoản nợ quá hạn khổng lồ mà hiện tại
ngành ngân hàng đang phải gánh chịu đã làm ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thanh
toán, giảm số tiên dự trữ và vốn của các TCTD. Chính “tảng băng” về nợ quá hạn
đang lặng lẽ nhấn chìm các TCTD vào vòng xoáy nợ nần mà các TCTD vẫn
- 362612 15
LUẬT NGÂN HÀNG
“không hề hay biết”.Nợ quá hạn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của
các TCTD, tới các doanh nghiệp sử dụng vốn và kìm hãm sự phát triển của nền
kinh tế. Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng nợ quá hạn, đảm
bảo việc thực hiện nợ tín dụng đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết, cần giải quyết
không chỉ cho ngành ngân hàng mà còn cho cả các cơ quan hữu quan.
+ Nợ xấu: Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu của các Tổ chức tín
dụng có xu hướng tăng nhanh từ năm 2008 tới nay. Tính đến ngày 25-10-2012,
Ngân hàng Nhà nước cho biết, nợ xấu của toàn bộ nền kinh tế có địa chỉ tại hệ
thống ngân hàng ước khoảng 8,6% (cao hơn khá nhiều so với các quy định của
Basel là 2%) trên tổng dư nợ được cho từ 2,5 triệu tỷ đồng đến 2,8 triệu tỷ đồng.
Trong đó, hơn 85% nợ có tài sản bảo đảm bằng bất động sản có giá trị (theo định
giá ban đầu) vào khoảng 135% khoản nợ xấu. Hệ quả là nợ xấu của các TCTD
không ngừng tăng lên, trở thành “điểm nghẽn” của nền kinh tế đất nước, cản trở sự
lưu thông dòng vốn tín dụng. Song, thực tiễn cho thấy việc giải quyết vấn đề này

đang gặp phải rất nhiều khó khăn, trong đó có rào cản từ chính khuôn khổ pháp lý
về xử lý tài sản bảo đảm.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM GIẢI QUYẾT NHỮNG HẠN CHẾ CỦA
PHÁP LUẬT PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH CHO VAY
1. Cần quy định hạn mức cho vay, các hạn chế đảm bảo an toàn phù hợp với
thực tế thị trường
Luật nên nới lỏng hạn mức, đồng thời, tăng cường biện pháp đảm bảo an toàn
khác như chế độ cung cấp thông tin, biện pháp xử lý khi vốn ngân hàng, nên quy
định giới hạn cấp tín dụng đối với ngân hàng và tổ chức phi ngân hàng là như nhau
nhằm đảm bảo quyền lợi và nâng cao trách nhiệm, tính tự chủ cho các TCTD.
2. Phát triển hệ thống dịch vụ thông tin về khách hàng
Trong quan hệ tín dụng, một bên thường không biết tất cả các thông tin về
bên kia. Sự không cân bằng về thông tin đó gọi là thông tin không đối xứng. Để
giải quyết được tình trạng này, có nhiều bịên pháp đặt ra.Về phía các TCTD, để
thoả mãn các nhu cầu thông tin về khách hàng, thường dựa trên cơ sở giấy tờ, tài
liệu mà khách hàng cung cấp hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng
hay sử dụng một số biện pháp khác để thu thập. Tuy nhiên, phạm vi hoạt động cấp
tín dụng ngày càng mở rộng, các khách hàng của TCTD ngày càng đa dạng và
phong phú, cùng với nó việc nắm bắt các thông tin về khách hàng ngày càng trở
- 362612 16
LUẬT NGÂN HÀNG
nên khó khăn hơn. Do nhu cầu thông tin lớn, trong khi bộ phận chuyên môn của
TCTD không thể giải quyết được hết nhu cầu đó, nên hình thành các doanh nghiệp
chuyên thu thập và cung cấp thông tin về khách hàng là giải pháp hữu ích và phù
hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Điều đó góp phần giảm thiểu
những rủi ro về thông tin của TCTD khi có một tổ chức chuyên nghiệp thực hiện.
Việc xây dựng quy chế tổ chức và hoạt động của loại doanh nghiệp này là rất cần
thiết, sao cho doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về độ trung thực và tính chính
xác của các thông tin mà mình cung cấp, bên cạnh đó cần phải giới hạn các thông
tin mà doanh nghiệp này được phép cung cấp đảm bảo không vi phạm các quy

định của pháp luật về chế độ thông tin.
3. Giải quyết xử lý quản lý đối với các khoản nợ sau cho vay của TCTD
Với tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay, thì nợ xấu và nợ quá hạn đang
là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động hiệu quả của các TCTD, kìm
hãm nền phát triển kinh tế đất nước. Trong khuôn khổ bài viết, em xin được đề cập
đến những hướng giải quyết xử lí đối với các khoản nợ quá hạn và nợ xấu của các
TCTD.
a) Đối với nợ quá hạn
Thứ nhất, về giải pháp ngăn ngừa nợ quá hạn: đây là một trong những giải
pháp cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, một cách có chủ ý bởi người điều
hành, lãnh đạo TCTD và toàn bộ công nhân viên chức trong các TCTD, đặc biệt là
đối với đội ngũ cán bộ tín dụng. Để thành công trong việc nâng cao chất lượng
thực hiện HĐTD cần thực hiện biện pháp ngăn ngừa nợ quá hạn ngay từ lúc phát
sinh món vay cho đến khi thu hồi hết nợ gốc và lãi. TCTD cần thực hiện đầy đủ
các quy định về bảo đảm tiền vay, tăng cường công tác tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ của ngân hàng. Chấm dứt tình trạng cho vay đảo nợ
để giảm nợ quá hạn một cách giả tạo. Trong quá trình thực hiện HĐTD cán bộ tín
dụng cần đi sâu đi sát khách hàng, theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay, nếu
phát hiện dấu hiệu không lành mạnh từ phía người vay cần có biện pháp ngăn chặn
kịp thời.
Bên cạnh đó, các TCTD cũng cần phải nghiên cứu kỹ càng hơn tính đúng đắn
về ý nghĩa của việc chuyển nợ quá hạn theo Điều 13 Quyết định 1627, được sửa
đổi, bổ sung bằng khoản 4 điều 1 quyết định 127/2005/QĐ-NHNN, từ đó đề ra kế
hoạch hành động nhất quán, phù hợp với hoàn cảnh đổi mới và tiến trình hội nhập.
- 362612 17
LUẬT NGÂN HÀNG
Đặc biệt là nhanh chóng thay đổi tư duy và ứng dụng kịp thời các chuẩn mực hoạt
động của ngân hàng thương mại quốc tế vào chuẩn mực hoạt động của ngân hàng
mình, tránh tình trạng chạy đua với các thành tích mang tính bề nổi, chẳng hạn như
tìm mọi cách để giảm tỷ lệ về nợ quá hạn càng thấp càng tốt mà bỏ qua những

nguy cơ tiềm ẩn đang rình rập và đe doạ ngân hàng đằng sau các khoản nợ quá hạn
đó.
Thứ hai ,về biện pháp xử lý nợ quá hạn: việc TCTD phân tích nợ quá hạn
theo định kỳ có ý nghĩa rất quan trọng, giúp TCTD nắm được thực trạng chung của
đơn vị và của từng loại cho vay, từng nhóm khách hàng cụ thể, trên cơ sở đó có thể
xử lý nợ một cách thích hợp và có hiệu quả cao. Thông qua phân tích nợ, TCTD
cần đề ra hướng giải quyết hay biện pháp xử lý thích hợp với TCTD, với từng
nhóm khách hàng, và từng món vay cụ thể.
Xử lý quỹ dự phòng bù đắp rủi ro. Đây là một trong những biện pháp quan
trọng để lành mạnh hoá tài chính của các TCTD. Để thực hiện đúng đối tượng và
có hiệu quả biện pháp này, TCTD cần quan tâm: thực hiện nghiêm túc và chính
xác việc phân loại tài sản “có”, trích lập qũy dự phòng theo đúng quy định; rà soát
các khoản nợ khó đòi, có khả năng tổn thất để xác định đúng các khoản nợ thuộc
đối tượng xử lý bù đắp rùi ro; áp dụng triệt để các biện pháp tận thu; lập hồ sơ xử
lý tài sản bảo đảm đầy đủ, chính xác, hợp pháp, hợp lệ, đúng thời gian quy định;
xử lý bù đắp rủi ro theo đúng quy định và thẩm quyền giải quyết của từng cấp.
Khai thác các tài sản bảo đảm tiền vay được coi là biện pháp quan trọng trong
việc xử lý nợ quá hạn của TCTD. Vì tài sản bảo đảm nợ vay là nguồn thu hồi nợ
thứ hai của TCTD khi phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể
thực hiện hoặc thực hiện kém hiệu quả không có khả năng trả nợ. Trong trường
hợp đó, TCTD cần tiến hành rà soát lại toàn bộ hồ sơ, thủ tục bảo đảm tiền vay,
thực hiện biện pháp xử lý tài sản phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Việc xử lý
cần phải tiến hành khẩn trương nhanh chóng, tranh thủ sự giúp đỡ của cơ quan hữu
quan.
b) Đối với nợ xấu
• Về phía các TCTD:
Thứ nhất, đối với các TCTD tính thanh khoán chưa đe dọa sự an toàn của cả
hệ thống: Phải tự xử lý thông qua các biện pháp đã và đang làm như: bán nợ, đòi
trực tiếp, thanh lý tài sản thế chấp, sử dụng quỹ dự phòng bù đắp các khoản nợ
- 362612 18

LUẬT NGÂN HÀNG
không thu hồi được, hoặc chuyển nợ thành vốn góp nếu thấy khánh nợ có tương lai
phát triển.
Thứ hai, đối với các TCTD yếu kém, có nguy cơ mất khả năng thanh khoản:
biện pháp khả thi là sáp nhập, hoặc giải thể. Các tổ chức này đi tìm, hoặc bị sáp
nhập một cách cưỡng bức bởi một TCTD đủ mạnh. Nếu không sáp nhập được thì
các TCTD này sẽ đặt trong điều kiện kiểm soát đặc biệt của NHNN, nhằm từng
bước xử lý các tồn đọng để đi tới giải thể. Do quy mô tín dụng ngày một lớn, bản
thân các TCTD phải có giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động, giảm thiểu rủi ro
hoạt động để ngăn ngừa nợ xấu xuất hiện trở lại, như ban hành đầy đủ quy trình
cho vay, năng cao năng lực quản trị, điều hành, quản trị rủi ro.
• Về phía Ngân hàng Nhà nước:
Phải có biện pháp quyết liệt để xác định số thực về quy mô và cơ cấu của nợ
xấu hiện nay, từ số liệu này mới có thể áp dụng các giải pháp cụ thể cho từng
TCTD. Xử lý nghiêm hành vi che dấu nợ xấu. Đồng thời sửa đổi, bổ sung về cách
phân loại nợ, trích lập sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra trong các trường hợp cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và
sử dụng quỹ dự phòng sai chế độ. Đồng thời có cơ chế buộc các TCTD trong một
thời gian phải đưa nợ xấu xuống một giới hạn nhất định.
Đối với các TCTD có quy mô lớn, ảnh hưởng nhiều tới sự an toàn của cả hệ
thống cũng như nền kinh tế và an sinh xã hội, có khả năng phát triển tiếp, sau khi
tự giải quyết nợ xấu vẫn còn ở mức cao, sẽ được NHNN bơm vốn để hỗ trợ, dưới
hình thức góp vốn nhưng lại được hưởng lãi cố định (như cổ phiếu ưu đãi) và ngân
hàng có thể rút vốn về khi tổ chức này đã phục hồi.
• Về phía các doanh nghiệp (DN):
Cần nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo cơ cấu vốn hợp lý, bố trí vốn
đúng nguyên tắc, sử dụng vốn có hiệu quả. ổn định lượng tiền mặt cần thiết cho
cán cân thanh toán, cân đối hệ số vốn vay trên vốn chủ không vượt quá trung bình
của ngành, thường xuyên đánh giá thực trạng tài chính DN thông qua các tỷ số tài
chính đặc trưng để đưa ra các kiến nghị cảnh báo về tình hình tài chính là giải pháp

trước mắt cũng như lâu dài xử lý và ngăn ngừa nợ xấu.
Thực hiện tái cơ cấu DN Nhà nước (là nhóm khách hàng có số dư nợ lớn nhất
của ngân hàng), mà trọng tâm là tái cơ cấu tài chính DN hiện nay đang tiến hành
theo đề án mà Chính phủ đã phê duyệt, nhằm nâng cao năng lực của các DNNN
- 362612 19
LUẬT NGÂN HÀNG
được coi là giải pháp tích cực. Xử lý nợ xấu, tái cơ cấu các TCTD, các ngân hàng
phải đi đôi với việc tiến hành tái cơ cấu DN. Không thể tồn tại một hệ thống ngân
hàng mạnh trên cơ sở một nền kinh tế có các DN yếu kém.
C.KẾT LUẬN
Từ những phân tích, đánh giá trên. Nhìn chung, bên cạnh những mặt tích cực
trong pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, thì vẫn còn
tồn tại những hạn chế có thể gây ra những rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Vấn đề
đặt ra là cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật để đảm bảo an toàn cho hệ
thống các tổ chức tín dụng, nói rộng ra là sự an toàn cho hệ thống tài chính nước
nhà. Trước những biến động của nền tài chính thế giới ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến
tài chính trong nước và sự điều chỉnh liên tục mức lãi suất cơ bản của ngân hàng
nhà nước sẽ ảnh hưởng mạnh đến chính sách cho vay của các tổ chức tín dụng thì
pháp luật điều chỉnh hoạt động hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng cần thiết
phải hoàn thiện.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, Giáo trình
- 362612 20
LUẬT NGÂN HÀNG
1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật Ngân Hàng Việt Nam”, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội – 2012.
2. Luật các Tổ chức tín dụng 2010.
3. Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001
của Thống đống ngân hàng nhà nước, Về việc ban hành Quy chế cho vay
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

Websites
1.
2.
3.
4.
- 362612 21

×