Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

đảng bộ quận thanh xuân hà nội lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội tu nam 1996 den nam 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

——————————————

NGUYỄN THỊ MINH THÙY

ĐẢNG BỘ QUẬN THANH XUÂN (HÀ NỘI)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:

60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYỄN BÌNH BAN

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

Chƣơng 1. CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN THANH
XUÂN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM
2000 .................................................................................................................. 9

1.1. Đặc điểm quận Thanh Xuân liên quan đến thực hiện chính sách xã hội ....... 9


1.1.1. Địa - tự nhiên............................................................................................ 9
1.1.2. Địa - chính trị ........................................................................................... 9
1.1.3. Địa - nhân văn ........................................................................................ 10
1.1.4. Truyền thống - văn hoá ........................................................................... 10
1.2. Đảng bộ quận Thanh Xuân nhận thức và vận dụng chính sách xã hội
của Đảng và thành phố Hà Nội trong lãnh đạo thực hiện chính sách
xã hội ở địa bàn ...................................................................................... 11
1.2.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính
sách xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ............................ 11
1.2.2. Quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Quận Thanh Xuân đối với việc thực
hiện chính sách xã hội ............................................................................ 21
Chƣơng 2. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN THANH XUÂN THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2006 ..................... 35

2.1. Những vấn đề mới đặt ra đối với Đảng bộ quận Thanh Xuân về chính
sách xã hội.............................................................................................. 35
2.1.1. Thuận lợi ................................................................................................ 35
2.1.2. Khó khăn ................................................................................................ 36
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ quận Thanh Xuân đối với việc
thực hiện chính sách xã hội .................................................................... 37
2.2.1. Chủ trương và định hướng ...................................................................... 37
2.2.2. Quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội ....................................... 46


Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ........................................... 53
3.1. Kết quả ...................................................................................................... 53
3.1.1. Chính sách lao động và việc làm ............................................................ 53
3.1.2. Chính sách xoá đói, giảm nghèo ............................................................. 56
3.1.3. Chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội.............................................. 58
3.1.4. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng .................................... 60

3.2. Một số kinh nghiệm ................................................................................... 65
3.2.1. Nhận thức, quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo linh hoạt các chủ
trương lớn của thành phố và cụ thể hoá thành các hình thức, biện
pháp phù hợp đặc điểm của quận Thanh Xuân ....................................... 65
3.2.2. Thường xuyên quan tâm công tác tổ chức và xây dựng đội ngũ cán
bộ trực tiếp thực hiện chính sách xã hội có tâm huyết ở địa bàn đặc
thù cấp Quận .......................................................................................... 67
3.2.3. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội bức
xúc, nóng bỏng trong thực hiện chính sách xã hội ở địa bàn ................... 69
3.2.4. Phát huy và kết hợp mọi nguồn lực trong quá trình thực hiện chính
sách xã hội ở địa bàn .............................................................................. 70
KẾT LUẬN....................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 77
PHỤ LỤC .................................................................................................................. 83


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
“Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành chính sách chung của một
chính đảng hay một chính quyền nhà nước nhất định, nó bao gồm việc giải
quyết một phạm vi ít nhiều rộng rãi các vấn đề xã hội phù hợp với thực chất
giai cấp và những mục tiêu hoạt động của đảng đó, của chính quyền nhà nước
đó” [55, tr.44].
Ở nước ta, chính sách xã hội gắn với con người thể hiện bản chất ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã
hội. Mục tiêu cao nhất của chính sách xã hội của Đảng cộng sản cầm quyền là
nhằm phát triển xã hội lành mạnh, bền vững, đem lại đời sống tốt đẹp cho con
người.
Chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng trong các chính sách của

Đảng và Nhà nước ta. Các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta, xét
cho đến cùng đều nhằm mục đích phục vụ con người nên tư tưởng nhân văn
phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các chính sách xã hội. Nó trở thành quan niệm
xử thế của nhân dân thể hiện lòng yêu quý con người: “Thương người như thể
thương thân”...
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đặt đúng vị trí, tầm quan trọng của
vấn đề chính sách xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Nghị quyết nêu rõ: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của đời sống
con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia
đình, quan hệ giai cấp và quan hệ dân tộc...Coi nhẹ chính sách xã hội, tức là
coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [14,
tr.86].
Chính sách xã hội đã được Đại hội VI của Đảng nêu lên thành một
nhiệm vụ quan trọng trong toàn bộ đường lối đổi mới toàn diện đất nước.

1


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại Đại hội VII (6/1991) của Đảng nhấn mạnh: “Chính sách xã hội
đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội...” [15,
tr.13]. Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII (1996) của Đảng đã nêu rõ 5 quan
điểm cần quán triệt khi hoạch định chính sách xã hội ở nước ta trong thời kỳ
hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển...
Các vấn đề chính sách xã hội giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt... tham gia giải quyết các vấn đề xã hội” [21, tr.113-114].
Quá trình nghiên cứu tìm ra những chính sách xã hội phù hợp với yêu
cầu của giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay trước hết đòi hỏi phải nhận thức

và giải quyết đúng đắn những vấn đề lý luận về chính sách xã hội cũng như
những vấn đề của thực tiễn đất nước đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Trong các vấn đề đó nổi lên hàng đầu là các vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động, vấn đề xoá đói giảm nghèo, thực hiện chính
sách đối với người có công với cách mạng...Trong những năm qua thực hiện
đúng đắn chính sách xã hội góp phần vào thành tựu đổi mới của đất nước.
Đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển của Thủ đô Hà Nội trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Chính phủ ra Nghị định số 74/CP ngày
22/11/1996 về việc thành lập Quận Thanh Xuân. Quận Thanh Xuân nằm ở
phía Tây Nam Thành phố, giáp với các quận, huyện: Hai Bà Trưng, Đống Đa,
Cầu Giấy, Từ Liêm, Thanh Trì và thị xã Hà Đông của tỉnh Hà Tây cũ với 11
đơn vị hành chính trực thuộc là các phường Thanh Xuân Trung, Thượng
Đình, Kim Giang, Phương Liệt, Thanh Xuân Nam, Thanh Xuân Bắc, Khương
Mai, Khương Trung, Khương Đình, Hạ Đình và Nhân Chính.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của Thủ đô, quận
Thanh Xuân cũng có nhiều đổi mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước

2


cũng như sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Quận uỷ, uỷ ban
nhân dân quận Thanh Xuân đã đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực
kinh tế - xã hội và văn hoá... nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân trong Quận. Trong đó việc thực hiện chính sách xã hội đã được Quận ủy
quan tâm tạo điều kiện gắn với các chính sách chung và các chính sách khác ở
địa bàn và đạt được những thành công nhất định.
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm của Quận là hình thành trên cơ sở kế
thừa một phần các phường, xã của các quận, huyện khác, hơn nữa trong quận
lại có nhiều thành phần xã hội khác nhau nên đã đặt ra nhiều vấn đề cần quan
tâm giải quyết đối với các cấp chính quyền quận, nhất là trên lĩnh vực xã hội,

như vấn đề chính sách đối với lao động và việc làm, vấn đề phòng chống các
tệ nạn xã hội, chính sách đối với người có công với cách mạng...
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ quận Thanh Xuân lãnh đạo thực hiện
các chính sách xã hội để rút ra những kinh nghiệm góp phần giải quyết những
vấn đề thực tiễn của Quận đang đặt ra và làm sáng tỏ phương thức lãnh đạo
chỉ đạo thực hiện chính sách xã hội ở địa bàn cơ sở trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa góp phần nâng cao nhận
thức và hoàn thiện chính sách xã hội cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Đảng bộ Quận Thanh Xuân
(Hà Nội) lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1996 đến năm
2006" để làm luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách xã hội và thực hiện chính sách xã hội là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về
chính sách xã hội dưới các góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Nhìn một cách
khái quát, các công trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành những nhóm
chủ yếu sau:

3


- Nhóm thứ nhất: Một số công trình nghiên cứu chuyên khảo, các bài
viết đã công bố, xuất bản như:
Chính sách xã hội, một số vấn đề lý luận và thực tiễn của PGS, PTS
Bùi Đình Thanh, Viện Khoa học xã hội Việt Nam xuất bản năm 1993.
Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc thực hiện của PGS,
PTS Trần Đình Hoan, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp của GS Phạm Xuân
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về chính sách xã hội của PGS,
PTS Lê Sỹ Thắng, Nxb. Chính trị quốc gia, 1996.
Triết lý phát triển Việt Nam - mấy vấn đề cốt tử của GS Phạm Xuân
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Góp phần tìm hiểu sự phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong
công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu của Nguyễn Quang Ngọc, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000...
Một số bài viết đăng trên các tạp chí đề cập đến vấn đề chính sách xã
hội trong thời kỳ đổi mới, như: Chính sách xã hội trong đổi mới đất nước,
Nguyễn Thị Hằng, Tạp chí cộng sản số 11-2000; Công bằng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Phạm Xuân Nam, Tạp chí Khoa học xã hội, số 2.2008...
- Nhóm thứ hai: Là một số luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành Lịch sử Đảng đã bảo vệ, nghiên cứu về quá trình Đảng lãnh đạo thực
hiện chính sách xã hội trong giai đoạn từ 1986 đến năm 2001: Trần Đồng,
Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết các vấn đề
xã hội bức bách hiện nay (từ 1986 - 1995); Nguyễn Thị Thanh, Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1991 đến năm
2001...

4


- Nhóm thứ ba: Một số đề tài khoa học, đề án, chương trình, giải pháp
thực hiện chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước và các địa phương, như:
Chương trình quốc gia phòng chống và kiểm soát ma túy (12-1997),
Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện chương trình quốc gia phòng, chống kiểm
soát ma túy 1993-1997
Chương trình số 09/CTr-QU về “Lao động và việc làm và phòng chống
tệ nạn ma túy, mại dâm, HIV/AIDS đến năm 2005”...

Các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên những vấn đề cơ bản của
chính sách xã hội và vấn đề phát triển xã hội của nước ta trong thời kỳ đổi
mới ở cả lĩnh vực lý luận cũng như quá trình thực hiện dưới sự lãnh đạo của
Đảng và các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương ...
Những công trình trên là cơ sở để tác giả kế thừa tiếp tục nghiên cứu
chính sách xã hội. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đi
sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Quận Thanh Xuân đối với việc thực
hiện các chính sách xã hội từ năm 1996 đến 2006 dưới góc độ khoa học Lịch
sử Đảng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ quận Thanh Xuân nhận thức, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ
trương chính sách xã hội của Đảng bộ Thành phố trong lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội ở địa bàn từ năm 1996 đến năm 2006; từ đó rút ra thành
công và một số kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội của Đảng
bộ Quận tại địa bàn.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ quận Thanh Xuân
nhận thức, vận dụng các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

5


và những chủ trương chính sách xã hội của Đảng bộ Thành phố vào lãnh đạo
thực hiện chính sách xã hội ở địa phương từ 1996 đến năm 2006.
- Phân tích quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chính sách xã hội
của Đảng bộ Quận Thanh Xuân ở địa bàn từ năm 1996 đến năm 2006.
- Rút ra thành công và một số kinh nghiệm lớn của Đảng bộ Quận trong
lãnh đạo chỉ đạo thực hiện các chính sách xã hội, lãnh đạo thực hiện đường

lối phát triển chính sách xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam ở địa phương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chủ trương và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ quận Thanh Xuân
trong thực hiện chính sách xã hội, thể hiện thông qua các chủ trương, giải
pháp, biện pháp và quá trình tổ chức thực hiện từ năm 1996 đến năm 2006.
* Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Về nội dung: Nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách xã
hội của Đảng bộ Quận Thanh Xuân ở địa bàn Quận thể hiện trên một số mặt
cơ bản: lao động và việc làm, xoá đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội,
ưu đãi với người có công với cách mạng.
- Về thời gian: Từ năm 1996 đến năm 2006.
- Về không gian: Địa bàn Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở khai thác nhiều nguồn tài liệu, tư
liệu gồm có: Một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa của Mác - Lênin và Hồ
Chí Minh; Hệ thống văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1986 đến năm
2006; Các chỉ thị, nghị quyết, nghị định thông tư, chính sách của Nhà nước và
Chính phủ... về chính sách xã hội và có liên quan đến chính sách xã hội. Một

6


số công trình nghiên cứu khoa học, tiêu biểu về chính sách xã hội và thực hiện
chính sách xã hội ở nước ta.
- Các văn kiện của Đảng bộ thành phố Hà Nội, các văn kiện của Đảng
bộ quận Thanh Xuân, của Đảng bộ, chi bộ một số khối phố, phường điển
hình, Báo cáo hàng năm của UBND quận Thanh Xuân, một số phường về
chính sách xã hội...

* Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp lịch sử
và phương pháp logic. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng kết hợp phương pháp
so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp chuyên ngành...
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hoá quan điểm, đường lối, chính sách xã hội của
Đảng và Nhà nước ta và làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ quận
Thanh Xuân vào thực tiễn địa phương trong thời kỳ từ năm 1996 đến năm
2006.
- Rút ra một số kinh nghiệm trong lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội
của Đảng bộ quận Thanh Xuân, góp phần cung cấp luận cứ khoa học để phục
vụ quá trình thực hiện chính sách xã hội của quận Thanh Xuân trong những
năm tới.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu lịch sử
Đảng bộ quận Thanh Xuân và lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội trong thời
kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương, 6 tiết.
Chƣơng 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ quận Thanh Xuân
thực hiện chính sách xã hội từ năm 1996 đến năm 2000.

7


Chƣơng 2: Sự lãnh đạo của Đảng bộ quận Thanh Xuân thực hiện chính
sách xã hội từ 2001 đến năm 2006.
Chƣơng 3: Kết quả và một số kinh nghiệm


8


Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ L·NH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN THANH
XUÂN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM
2000

1.1. Đặc điểm quận Thanh Xuân liên quan đến thực hiện chính
sách xã hội.
1.1.1. Địa - tự nhiên
Quận Thanh Xuân là địa bàn thuộc Thành phố Hà Nội mới được thành
lập trên cơ sở kế thừa một phần quận Đống Đa, hiện nằm ở phía Tây Nam thủ
đô Hà Nội. Phía Bắc giáp quận Đống Đa và Cầu Giấy, Phía Đông giáp quận
Hai Bà Trưng và Hoàng Mai, phía Nam giáp huyện Thanh Trì, phía Tây giáp
huyện Từ Liêm và Quận Hà Đông.
Diện tích đất tự nhiên của Quận là 9,11 km2 và dân số hiện nay khoảng
214.000 người. Bộ máy hành chính của Quận được tổ chức thành 11 đơn vị
cấp phường gồm các phường: Thượng Đình, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân
Trung, Thanh Xuân Nam, Kim Giang, Nhân Chính, Phương Liệt, Khương
Đình, Khương Trung, Khương Mai, Hạ Đình.
1.1.2. Địa - chính trị
Thanh Xuân là vùng đất gắn bó chặt chẽ với Thăng Long ngàn năm văn
hiến, kề sát kinh thành xưa có con đường Thượng Đạo - Lai Kinh cũ qua đất
làng Mọc (Chính Kinh và Quan Nhân). Đầu thế kỷ XX, khi có con đường cái
quan số 6 chạy qua địa bàn, Thanh Xuân trở thành cửa ngõ ra vào Hà Nội, là
cầu nối quan trọng với vùng Tây Bắc. Do vị trí địa lý như vậy nên mọi diễn
biến về chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội đều tác động đến Thanh Xuân và
ngược lại. Vì vậy Thanh Xuân là một trong những địa bàn quan trọng về mọi
mặt của Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay, từ đây cũng tạo ra những điều

kiện thuận lợi cho phát triển mọi mặt của Quận.

9


Là Quận giáp ranh với cửa ngõ ra vào Thành phố Hà Nội nên là nơi tập
trung nhiều vấn đề phức tạp về kinh tế, an ninh trật tự, tệ nạn xã hội... Từ đó
ảnh hưởng không nhỏ đối với sự phát triển của Thành phố Hà Nội nói chung
và Quận Thanh Xuân nói riêng, đặt ra yêu cầu cần phải giải quyết nhất là các
vấn đề về xã hội.
1.1.3. Địa - nhân văn
Dân cư của vùng đất Thanh Xuân được hình thành chủ yếu là dân gốc
trong các làng xã từ khi mảnh đất này được khai phá. Họ có quan hệ huyết
thống nhiều đời với nhau thành một quần thể gọi là thôn, làng; bên cạnh đó
còn có một bộ phận dân cư nhỏ lẻ từ nơi khác đến định cư và lập nghiệp ở
đây. Trong giai đoạn mới tính chất dân cư của quận Thanh Xuân ngày càng
đa dạng và phức tạp hơn. Đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết như lao động và việc
làm, xoá đói giảm nghèo, tệ nạn xã hội... đòi hỏi Quận phải có những chủ
trương, biện pháp cơ bản để giải quyết kịp thời, góp phần tạo nên sự phát
triển chung của Quận.
1.1.4. Truyền thống - văn hoá
Nhân dân Thanh Xuân tự hào về truyền thống quê hương trong cái nôi
của nền văn minh nông nghiệp lúa nước vùng châu thổ sông Hồng, những cư
dân nơi đây đã xây dựng cho mình một bản sắc văn hóa đậm nét tiêu biểu cho
vùng đất của mình. Các cụm di tích lịch sử: đình Phương Liệt, chùa Linh
Quang, miếu ông Trạng (Trạng nguyên Lưu Danh Công - 1670), có bia tiến sĩ
đặt tại Quốc Tử Giám, đình chùa Giáp Nhất, đình chùa Quan Nhân, đình chùa
Khương Hạ, đình Vòng làng Hạ Đình, chùa Tam Huyền, Gò Đống Thây... đã
được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Nét văn hóa sinh hoạt cộng đồng được coi trọng. Từ xa xưa, hàng năm

các làng xã để mở lễ hội để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn các thần thành hoàng
làng có công với quê hương đất nước, nhằm giáo dục con cháu đạo lý “Uống

10


nước nhớ nguồn” như đình Phương Liệt thờ Cao Sơn Đại Vương làm thần
thành hoàng làng, đình Giáp Nhất thờ tướng Phùng Luông...
Thanh Xuân còn là vùng đất có truyền thống hiếu học. Miền đất này đã
sinh ra và nuôi dưỡng nhiều tài năng, là niềm tự hào của quê hương với nhiều
người đỗ tiến sĩ, Phó bảng như: Ông Đỗ Lệnh Danh (1667-1747), thượng thư
Bộ hình (làng Khương Hạ), danh nhân Đặng Trần Côn (1715-1745)...
Các thế hệ dân cư nơi đây không những chăm học, chăm làm mà còn
dũng cảm, ngoan cường trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Trong các
chặng đường lịch sử, nhân dân Kẻ Mọc đã tham gia vào những cuộc khởi
nghĩa yêu nước chống ách thống trị ngoại bang của dân tộc...
Kế thừa truyền thống văn hoá tốt đẹp đó, Đảng bộ và nhân dân quận
Thanh Xuân đã phát huy những giá trị đó trong thời đại mới. Điều này một
phần được thể hiện qua các chính sách của Quận dưới sự chỉ đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là Đảng bộ thành phố Hà Nội.
1.2. Đảng bộ quận Thanh Xuân nhận thức và vận dụng chính sách
xã hội của Đảng và thành phố Hà Nội trong lãnh đạo thực hiện chính
sách xã hội ở địa bàn
1.2.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chính sách xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1.1. Những nhận thức cơ bản về chính sách xã hội
Khái niệm chính sách xã hội.
Có những ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm chính sách xã hội:
Khái niệm về chính sách xã hội của nhà xã hội học Xôviết
V.Z.RôGôVin: “Với tính cách là một bộ môn khoa học, chính sách xã hội là

một lĩnh vực tri thức xã hội học, nghiên cứu hệ thống các quá trình xã hội
quyết định hoạt động sống của con người trong xã hội, xét theo khả năng tác
động quản lý đến các quá trình đó. Có đầy đủ để xem chính sách xã hội như là
sự hòa quyện của khoa học và thực tiễn, như là sự phân tích phức hợp, dự báo

11


về các quan hệ, các quá trình xã hội và sự vận dụng thực hiện những tri thức
thu nhận được nhằm mục đích quản lý các quá trình và các quan hệ ấy” [42,
tr.10-11].
Ở Việt Nam, chính sách xã hội được hiểu ở một số khía cạnh sau:
“Chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành trong chính sách chung
của một chính đảng hay một chính quyền Nhà nước nhất định trong việc giảI
quyết và quản lý các vấn đề xã hội, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt đời
sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ
gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ xã hội. Một trong những đặc điểm quan
trọng của chính sách xã hội là sự thống nhất của nó với chính sách kinh
tế…chính sách xã hội phải đạt mục đích đem lại đời sống tốt đẹp cho con
người, mang lại sự công bằng dân chủ cho mỗi con người [35, tr.478].
Ở một khía cạnh khác, “Chính sách xã hội là công cụ thực hiện và điều
chỉnh những vấn đề xã hội đang được đặt ra đối với con người để thoả mãn và
phần nào đáp ứng những nhu cầu cuộc sống chính đáng của con người nhằm
đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội” [51, tr.65].
Qua trình bày những khái niệm trên cho thấy chính sách xã hội được
hiểu ở nhiều giác độ khác nhau, do vậy để hiểu chính sách xã hội là gì, trước
hết cần phải hiểu rõ hơn khái niệm xã hội là gì? Có thể hiểu xã hội là tổng hòa
của tất cả các mối quan hệ cá nhân, xã hội là chủ thể đối lập với giới tự nhiên,
xã hội đó bao gồm tất cả những phạm vi hoạt động của con người, trong đó có
cả những hoạt động kinh tế. Với khái niệm xã hội rộng như vậy tất cả những

chính sách đều có thể được coi là chính sách xã hội.
Mặt khác theo sự phân tích của triết học thông thường, xã hội loài
người tồn tại với bốn dạng hoạt động cơ bản có quan hệ thống nhất với nhau:
hoạt động kinh tế, hoạt động xã hội, hoạt động văn hóa, hoạt động chính trị.
Như vậy ở đây, hoạt động xã hội được coi là một phạm vi hoạt động tương
ứng với các hoạt động khác của một xã hội tổng thể.

12


Như vậy có nhiều cách nhìn khác nhau về chính sách xã hội nhưng có
thể nói, phần lớn các nhà khoa học đều hiểu chính sách xã hội ở phạm vi này,
tức là trong sự đối diện với những chính sách khác, với các hoạt động khác
của xã hội nói chung.
Từ đây có thể khẳng định: chính sách xã hội là sự cụ thể hóa đường lối,
chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm
của chủ thể lãnh đạo phù hợp với bản chất chế độ chính trị - xã hội, phản ánh
lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm xã
hội nói riêng nhằm tác động trực tiếp vào con người và điều chỉnh các mối
quan hệ lợi ích giữa con người với con người, giữa con người với xã hội,
hướng tới mục đích cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng về
đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân.
Nhiệm vụ của chính sách xã hội:
Có những vấn đề xã hội của từng chế độ chính trị - xã hội khác nhau,
cũng có những vấn đề xã hội mạng tính chất chung. Mỗi chế độ xã hội, mỗi
thời đại đều phải tiếp tục giải quyết những vấn đề xã hội mà thời đại trước để
lại, đồng thời phải đối phó với những vấn đề mới nảy sinh trong hiện tại cũng
như tương lai.
Để giải quyết các vấn đề xã hội, một trong những nhiệm vụ cơ bản là
đề ra các chính sách xã hội.

Chính sách xã hội luôn gắn với thể chế chính trị xã hội và thể chế kinh
tế của quốc gia. Mỗi chế độ chính trị - xã hội đều kế thừa và phát triển những
chính sách của chế độ xã hội trước nó ở một mức độ nhất định, thậm chí thay
đổi hoàn toàn cho phù hợp với điều kiện của lịch sử. ở nước ta hiện nay, chủ
thể đặt ra các chính sách xã hội là Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với sự tham gia của các tổ chức chính
trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam, Hội nông dân Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học - kỹ thuật Việt

13


Nam đại biểu cho giới trí thức, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Liên
hiệp thanh niên Việt Nam.
Chính sách xã hội bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn của đời sống xã
hội. Nó đảm nhiệm các chức năng như tái tạo tiềm năng vì nguồn lực con
người của đất nước, góp phần quan trọng trong xây dựng hạ tầng cơ sở của xã
hội, giáo dục nâng cao dân trí, tạo đà cho xã hội phát triển, nâng cao mức
sống và mức độ cuộc sống cho nhân dân. Đối tượng của chính sách xã hội là
các tầng lớp nhân dân trong xã hội như công nhân, nông dân, thợ thủ công,
sinh viên, trí thức, các nhà doanh nghiệp tư nhân, trẻ em, người già, thanh
niên, phụ nữ, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam và gia đình có công
với cách mạng, những thương binh, liệt sĩ, những bà mẹ anh hùng...
Xét một cách tổng thể, chính sách xã hội có những nhiệm vụ cơ bản sau
đây:
- Tái tạo tiềm năng nhân lực của đất nước thông qua các chính sách về
dân số, gia đình, bảo vệ sức khỏe con người, bảo hộ lao động, tổ chức nghỉ
ngơi, giải trí cho các tầng lớp nhân dân, khắc phục các tệ nạn xã hội, bảo đảm
an toàn xã hội.
- Góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng nền tảng vững chắc của

xã hội với các chính sách về nhà ở, bảo vệ môi trường, sự phát triển của văn
hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, hệ thống các hoạt động dịch vụ nhằm
phục vụ cuộc sống tốt đẹp của con người.
- Giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo thêm
nhiều việc làm cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, đào tạo lại
và đào tạo mới người lao động để tiếp thu kỹ thuật, công nghệ hiện đại và
không ngừng nâng cao năng suất lao động.
- Tạo điều kiện cho xã hội ngày càng có nhiều khả năng và biết tiêu thụ
những sản phẩm vật chất và tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm, phù hợp

14


với trình độ phát triển và sức sản xuất của đất nước và những chuẩn mực đạo
đức, pháp lý của một chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Tạo lập và hình thành mô hình lối sống xã hội chủ nghĩa với những
đặc điểm chủ yếu là sự phát triển toàn diện của cá nhân kết hợp hài hòa với sự
phát triển của cộng đồng trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền tốt đẹp của
dân tộc, đồng thời xây dựng những giá trị mới phù hợp với bản sắc dân tộc và
yêu cầu của thời đại.
Việc thực hiện chính sách xã hội phải là kết quả giải quyết đồng bộ,
tổng hợp hàng loạt những vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị, các tổ chức quần
chúng, các tổ chức quần chúng, kết hợp các biện pháp giáo dục tư tưởng, các
quy chế pháp lý với các chuẩn mực đạo đức. Thực hiện chính sách xã hội
không thể tách rời khỏi chính sách kinh tế, chính sách văn hóa và tư tưởng,
chính sách phát triển khoa học - kỹ thuật... không phải tách rời khỏi đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước cùng hệ thống chính trị xã hội.
Vai trò của chính sách xã hội:
Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là
phải hết sức chăm lo đến đời sống nhân dân. Nhân dân đói, Đảng và Chính

phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và
Chính phủ có lỗi” [38, tr.527].
Chính sách xã hội có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ
hoạt động tổ chức, điều hành và quàn lý xã hội, trong việc giải quyết các vấn
đề thuộc chính sách xã hội không những góp phần tích cực tạo nên sự ổn
định, phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội mà nó còn thúc đẩy sự phát
triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế một cách bền vững và lâu dài. Như vậy, ở
bất kỳ thời đại nào, chế độ chính trị nào chính sách xã hội cũng đóng vai trò là
động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Để đạt tới trình độ ngày càng cao của tiến bộ và văn minh, giai cấp cầm
quyền phải phát hiện và khai thác được những động lực trong xã hội mình, đó

15


là những nhân tố vật chất và tinh thần, kinh tế và xã hội, khoa học và văn hóa,
cùng nhiều nhân tố khác mà dưới tác động tích cực của quản lý có thể liên
kết, phối hợp chúng với nhau tạo nên hợp lực, tác động cùng chiều, hướng
vào các mục tiêu phát triển. Tham gia vào hệ động lực ấy, chính sách xã hội
và hiệu qủa của việc giải quyết các vấn đề xã hội có thể tạo nên không chỉ sự
ổn định, sự phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội mà còn thúc đẩy sự
phát triển sản xuất kinh tế, sự phồn vinh của đất nước.
Tuy nhiên, chính sách xã hội chỉ trở thành động lực của sự phát triển xã
hội nếu đó là những chính sách đúng đắn, thể hiện được nguyên tắc công
bằng, dân chủ và nhân đạo. Ngược lại, nếu chính sách xã hội sai lầm hoặc lạc
hậu so với thực tiễn, hoặc không phù hợp với chế độ thực tế của nền kinh tế,
nó có thể phát sinh các mặt tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất
và làm mai một các tiềm năng xã hội.
Chính sách xã hội giữ vai trò điều hòa các mối quan hệ giữa lợi ích và
trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ của từng cá nhân,

tập thể, cộng đồng, tầng lớp và giai cấp trong xã hội. Chính sách xã hội còn
điều hòa các mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và tập thể, cộng
đồng và các giai cấp với nhau...
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng nước ta, việc xác
định đúng đắn vị trí, vai trò các chính sách xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự
nghiệp đổi mới các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Nhận thức
được ý nghĩa đó, Đảng ta đã đặt yếu tố con người vào vị trí trung tâm chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, coi các chính sách xã hội như là những
phương cách nhằm khai thác động viên mọi tiềm năng của từng cá nhân cũng
như của cả cộng đồng các dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Giải quyết đúng đắn các chính sách xã hội sẽ góp phần làm cho xã hội
phát triển ngày càng tốt đẹp, văn minh.

16


Chính sách xã hội còn góp phần hình thành, củng cố những giá trị xã
hội, thể hiện bản chất tốt đẹp, nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa, hạn chế
các tệ nạn xã hội và những hành vi phản văn hóa đi ngược lại lợi ích và giá trị
chân chính của dân tộc và thời đại.
1.2.1.2. Quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách
xã hội
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Lênin từng đưa
ra phương hướng chính sách xã hội: “Các chính sách xã hội được tiến hành
theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy
động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia các đoàn thể nhân dân, các
tổ chức xã hội” [36, tr.430].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“ Chúng ta phải thực hiện ngay:
1.


Làm cho dân có ăn,

2.

Làm cho dân có mặc,

3.

Làm cho dân có chỗ ở,

4.

Làm cho dân có học hành” [37, tr.152].

Hồ Chí Minh chỉ ra các mục tiêu trên và cũng chỉ ra trách nhiệm của
Đảng Cộng sản và Nhà nước ta đối với đời sống nhân dân. Theo Người, xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa là thay đổi cả xã hội, làm cho xã hội không còn
người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh
phúc.
Trong thời kỳ mới, nhằm thực hiện những tư tưởng ấy của Người,
Đảng và Nhà nước ta xác định mục tiêu cơ bản của các chương trình phát
triển kinh tế xã hội là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh.
Nhận thức được vị trí, vai trò của chính sách xã hội đối với sự nghiệp
phát triển đất nước, trước thời kỳ quá độ lên chính sách xã hội, Đảng Cộng

17



sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm về chính sách xã hội. Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ VI (1986) đã đặt đúng vị trí và tầm quan trọng của vấn đề chính
sách xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị
quyết nêu rõ: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của đời sống con người:
điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan
hệ giai cấp và quan hệ dân tộc... Coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu
tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [14, tr.86]. Quan
điểm cho thấy chính sách xã hội lấy việc phát huy yếu tố con người và lấy
việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất. Về mối quan hệ giữa kinh tế
và xã hội, Nghị quyết của Đại hội cũng chỉ rõ: “Trình độ phát triển kinh tế là
điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã
hội lại là mục đích của các họat động kinh tế” [14, tr.86]. Đại hội đã xác định
cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục
tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên.
Phát triển tư tưởng đổi mới của Đại hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII
của Đảng đã tiếp tục có những bước phát triển mới về quan điểm, phương
hướng và nhiệm vụ của chính sách xã hội. Điểm cơ bản là đặt con người đúng
vị trí của nó trong xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển,
trong đó người lao động đặc biệt được coi trọng. Quan điểm đó thể hiện sự
thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tất cả vì
con người. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII viết:
“Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với chính sách kinh tế, đều nhằm
phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người” [15, tr.73].
Quan điểm của Đảng về chính sách xã hội tiếp tục được đổi mới và
phát triển tại Đại hội Đảng lần thứ VIII. Đại hội nêu rõ: “Hệ thống chính sách
xã hội được hoạch định trên những quan điểm sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước đi cũng như trong suốt quá trình phát triển. Công bằng

18



xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân
phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát
triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lây phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng
góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông
qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết, bảo hộ quyền lợi của
người lao động.
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm
nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các
vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư.
- Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”,
“đền ơn đáp nghĩa”, “nhân hậu thủy chung”.
- Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa,
Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh
nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng
tham gia giải quyết các vấn đề xã hội” [21, tr.113-114].
Trong định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của Văn kiện Đại hội
Đảng VIII của Đảng, đặc biệt là vấn đề tập trung sức tạo việc làm, Đảng nhấn
mạnh: “Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư
mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân
đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển
dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả
nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh-quốc
phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Giảm đáng
kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn” [21, tr.114115].

19



Quan tâm đến vấn đề xóa đói giảm nghèo, Nghị quyết Đại VIII nêu rõ:
“Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo...Xây dựng và phát triển quỹ
xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, quản lý chặt
chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả” [21, tr.115].
Trong định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu, Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ VIII đã xác định: “Tổ chức tốt việc thi hành Pháp lệnh về người
có công, bảo đảm cho những người có công với đất nước và cách mạng có đời
sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng mức sống trung bình của nhân dân ở
nơi cư trú, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em những người có công với
cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha, anh. Mở rộng phong trào đền ơn đáp
nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ” [21, tr.115].
Nhấn mạnh đến việc phòng chống tệ nạn xã hội, Nghị quyết Đại hội
nêu rõ “Chống tệ nghiện hút, mại dâm, ngăn chặn HIV/AIDS và tổ chức điều
trị những người đã mắc” [21, tr.207].
Ngày 30 tháng 11 năm 1996, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam đã ra Chỉ thị số 06-CT/TW Về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
công tác phòng chống và kiểm soát ma túy. Bản Chỉ thị đánh giá công tác
phòng chống và kiểm soát ma túy ở nước ta trong những năm qua đã được kết
quả trong các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở triển khai, tổ chức thực
hiện theo nội dung Nghị quyết 06/CP ngày 29 tháng 1 năm 1993 của Chính
phủ. Chỉ 06-CT/TW nguyên nhân chủ yếu của tình trạng buôn bán, tàng trữ,
sử dụng ma túy thuộc về vai trò, trách nhiệm, quản lý của các cấp ủy đảng và
cơ quan Nhà nước đối với công tác phòng chống và kiểm soát ma túy. Bộ
Chính trị yêu cầu các Tỉnh ủy, Thành ủy, các cấp ủy trực thuộc Trung ương
khẩn trương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị này và báo cáo kết quả tình
hình công tác phòng chống và kiểm soát ma túy với Bộ Chính trị.

20



Quan điểm chính sách xã hội tại Đại hội Đảng lần thứ VIII và các Hội
nghị Trung ương đã làm rõ các mục tiêu mà chính sách xã hội hướng tới, tạo
tiền đề, động lực cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới ở nước ta.
1.2.2. Quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Quận Thanh Xuân đối với
việc thực hiện chính sách xã hội
Sau 10 năm kiên định con đường đổi mới do Đảng đề ra, nước ta đã ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, thế và lực của đất nước đã có sự biến
đổi rõ rệt.
Từ sự phân tích khoa học những kết quả và hạn chế của 10 năm đổi
mới trong bối cảnh quốc tế đặt ra thời cơ lớn và những thách thức lớn, Đảng
đã xây dựng các Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, vạch ra các chủ
trương lớn cho thời kỳ phát triển mới của đất nước: thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản thành
một nước công nghiệp. Giai đoạn (1996 - 2000), nhiệm vụ của toàn Đảng
toàn dân là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ mọi thời cơ, vượt qua mọi thử
thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tạo tiền
đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ XXI.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tiếp
thu và vận dụng định hướng chiến lược của Đảng vào điều kiện cụ thể của
Thủ đô, từ đầu năm 1996, Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã tập trung trí tuệ gấp
rút hoàn thành mọi mặt về tổ chức và nội dung cho Đại hội lần thứ XII của
Đảng bộ Thành phố.
Từ những thành tựu và hạn chế diễn ra trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển Thủ đô theo đường lối của Đảng, phân tích những nguyên nhân của
yếu kém, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, chính
quyền Thành phố, Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ cơ bản của Thủ
đô Hà Nội, với 5 mục tiêu tổng quát trong thời kỳ 1996 - 2000, trong đó nhấn


21


mạnh: “Cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và văn hóa, môi trường sống của
nhân dân” [28, tr.736].
Thấm nhuần đạo lý tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, Thành
uỷ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, thực hiện tốt chính sách xã hội và người có
công với cách mạng. Năm 1997, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh
Liệt sỹ, Thành phố đã dành 141 tỷ đồng để trợ cấp cho 139.000 người diện
chính sách [28, tr.737-738].
Tại phiên họp lần thứ 3 Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố (10/1996)
đã thảo luận và thông qua kế hoạch số 04-KH/TƯ về “Bảo đảm an ninh chính
trị, trật tự an toàn Thủ đô” [28, tr.738].
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, sự nghiệp xây dựng và phát
triển của Quận Thanh Xuân diễn ra trong bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ
bản, vừa có những khó khăn thách thức. Đảng bộ quận Thanh Xuân đã lãnh
đạo nhân dân vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, đưa Quận vượt qua những khó
khăn ban đầu, từng bước đi lên. Vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng qua
các năm đổi mới, phát huy thế mạnh về vị trí địa lý, tiềm năng lao động, đất
đai và khu công nghiệp tập trung, Quận đã có điều kiện thuận lợi trong việc
giao lưu phát triển kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội với các địa phương,
phát huy được truyền thống sẵn có của nhân dân trong quận. Với truyền thống
cách mạng và văn hóa, yêu lao động, Đảng bộ và nhân dân quận Thanh Xuân
đã đồng lòng quyết tâm xây dựng Quận vững mạnh về mọi mặt.
Trong quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội, thấm nhuần đạo
lý “Uống nước nhớ nguồn” Đảng bộ quận Thanh Xuân đã tập trung chỉ đạo
các cấp các ngành thực hiện tốt chính sách xã hội và người có công với cách
mạng. Tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ với các
hoạt động thiết thực, mang tính giáo dục cao [53, tr.77].
Quán triệt, triển khai thực hiện thông tư số 29/TTr - TU và kế hoạch số

04/KH-TU (ngày 8/10/1996) của Thành ủy về “Đảm bảo an ninh chính trị -

22


×