Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

So sánh 3 chỉ số tỷ lệ biết chữ ở người lớn, tỷ lệ đi học đại học, tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng giáo dục giữa việt nam với singapore

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.88 MB, 39 trang )

MỤC LỤC TRANG
LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………………………… …6
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu………………………………… … 6
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………….7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………….…7
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………… 8
5. Kết cấu của tiểu luận:………………………………………………………8
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ
HỆ THỐNG GIÁO DỤC SINGAPORE………………………………… 9
1.1. Khái quát hệ thống giáo dục Việt Nam………………………………… 9
1.1.1. Cơ cấu hệ thống - Mạng lưới nhà trường …………………….…9
1.1.2. Giáo dục mầm non và việc thực hiện quyền trẻ em……….… 11
1.1.3. Giáo dục tiểu học………………………………………… ….12
1.1.4. Giáo dục trung học……………………………………………. 15
1.1.5. Giáo dục nghề nghiệp - trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề 16
1.1.6. Giáo dục đại học……………………………………………….18
1.1.7. Giáo dục thường xuyên……………………………… ………19
1.2. Khái quát hệ thống giáo dục Singapore…………………………………21
1.2.1. Giáo dục tiểu học………………………………………………22
1.2.2. Giáo dục trung học…………………………………………… 22
1.2.3. Giáo dục sau trung học và giáo dục đại học……………………22
CHƯƠNG 2. SO SÁNH 3 CHỈ SỐ (TỶ LỆ BIẾT CHỮ Ở NGƯỜI LỚN, TỶ
LỆ ĐI HỌC ĐẠI HỌC, TỶ LỆ NGƯỜI THOẢ MÃN VỚI CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC) NĂM 2013 GIỮA VIỆT NAM VỚI SINGAPORE
2.1. Bảng số liệu và biểu đồ so sánh 3 chỉ số (tỷ lệ biết chữ ở người lớn, tỷ lệ đi
học đại học, tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng giáo dục) năm 2013 giữa Việt
Nam với Singapore…………………………………………………… 25
2.2. Nhận xét…………………………………………………………………27
CHƯƠNG 3. NHỮNG NHẬN XÉT VỀ ƯU NHƯỢC ĐIỂM VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG PHẤN ĐẦU CỦA VIỆT NAM………………… …31
3.1. Những thành tựu đã đạt được của giáo dục Việt Nam trong những năm


qua…………………………………………………………………… 31
3.2. Nguyên nhân của những thành tựu đã đạt được…………………34
3.3. Những bất cập và yếu kém của giáo dục Việt Nam…………… 34
3.4. Nguyên nhân của những bất cập, yếu kém………………………36
3.5. Những phương hướng phấn đấu đối của giáo dục Việt Nam……37
KẾT LUẬN………………………………………………………………….39
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………… 40
BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT NGHĨA CỦA CHỮ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
ĐH-CĐ Đại học-Cao đẳng
GD-ĐT Giáo dục-Đào tạo
KH-CN Khoa học-Công nghệ
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Các bảng,
biểu đồ
Nội dung bảng Trang
Sơ đồ 1.1 Hệ thống giáo dục Việt Nam 14
Sơ đồ 1.2 Hệ thống giáo dục Singapore 24
Bảng 2.1
Bảng số liệu so sánh 3 chỉ số (tỷ lệ biết chữ ở người
lớn, tỷ lệ đi học đại học, tỷ lệ người thoả mãn với
chất lượng giáo dục) năm 2013 giữa Việt Nam với
Singapore.
25
Biểu đồ 2.1
So sánh 3 chỉ số (tỷ lệ biết chữ ở người lớn, tỷ lệ đi
học đại học, tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng
giáo dục) năm 2013 giữa Việt Nam với Singapore
26
Biểu đồ 2.2

Xếp hạng 3 chỉ số (tỷ lệ biết chữ ở người lớn, tỷ lệ
đi học đại học, tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng
giáo dục) năm 2013 giữa Việt Nam với Singapore.
27
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Giáo dục so sánh (Comparative Education) là một lĩnh vực nghiên cứu
tập hợp của nhiều môn học khác nhau.

thẩm định, đánh giá nền giáo dục
của các nước đã phát triển cũng như đang phát
triển, đồng thời
đánh giá vai
trò của nền giáo dục ấy với sự phát triển của cả cá nhân và đất nước.

cũng
nghiên cứu các hệ thống giáo dục và thẩm định các giá trị xã hội ảnh hưởng
đến
hệ
thống giáo dục đó như thế nào. Giáo dục so sánh đề cập đến vai trò,
mục tiêu của một nền giáo dục

hiệu quả của nó đối với xã hội. Đặc biệt khi
nghiên cứu, chú ý nhiều tới các chính
sách
và hoạch định cộng đồng của một
nền giáo
dục.
Phát triển Giáo dục so sánh là một đòi hỏi cấp bách đối với giáo dục Việt
Nam. Việc nghiên cứu so sánh sẽ làm cho những nghiên cứu về giáo dục trong

nước không bị bó hẹp trong cái nhìn có tính chất địa phương mà có nhãn quan
rộng hơn, từ đó việc nhìn nhận và đánh giá các hiện tượng giáo dục, kể cả thành
tựu và những khiếm khuyết của nó sẽ có tầm hơn và do đó mà cũng chính xác
hơn.
Bên cạnh đó, thế giới luôn luôn vận động, biến đổi theo quy luật khách
quan vốn có của nó. Do vậy để tồn tại và phát triển thì đòi hỏi mỗi quốc gia, dân
tộc, hay bất cứ một tổ chức đơn vị nào cũng phải biết vị trí của mình trong mối
tương quan với các quốc gia, dân tộc hay đơn vị khác, đánh giá được thực trạng
của đơn vị mình từ đó nhằm định hướng xu thế phát triển cho phù hợp với xu thế
phát triển chung. Để làm được việc đó, nhất định phải có so sánh, đối chiếu. Đặc
biệt, trong giai đoạn hiện nay thế giới đang bước vào xu thế toàn cầu hóa - vấn đề
mở cửa và hội nhập và thách thức dường như không còn là vấn đề riêng của một
quốc gia dân tộc nào, thiết nghĩ để phát triển đất nước xứng tầm với vị thế của
Việt Nam trên trường Quốc tế rất cần đến sự phát triển giáo dục. Việt Nam sẽ đặt
mình vào hệ thống chung của giáo dục toàn cầu, đánh giá theo những chuẩn mực
phổ biến chứ không phải những tiêu chí có tính chất biệt lập.
Mặt khác, chúng ta cần so sánh giáo dục để nghiên cứu, phân tích và so
sánh các hoạt động giáo dục trên thế giới hiện nay, nêu ra các xu hướng chủ yếu
trong giáo dục và xác định các con đường tiếp tục phát triển.
Với đặc điểm chung là từ nền giáo dục thuộc địa tới độc lập, phát triển
Việt Nam

Singapore có điểm xuất phát giống
nhau.
Nhưng hiện nay,
Singapore là một trong những nước có trình độ phát triển KH-CN
cao
, có nhiều
kinh nghiệm trong việc phát triển một nền giáo dục và đào tạo tiên tiến, hiện đại
.

Ở Việt Nam, chưa lúc nào chất lượng giáo dục lại được đặt ra như một
nhu cầu bức
thiết
như hiện nay. Đổi mới là con đường duy nhất để giáo dục
phát triển và phát triển
bền vững.
Xuất phát từ những yêu cầu trên sau khi học xong môn Giáo dục so sánh
em đã chọn đề tài nghiên cứu: “So sánh 3 chỉ số (tỷ lệ biết chữ ở người lớn, tỷ lệ
đi học đại học, tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng giáo dục) năm 2013 giữa
Việt Nam với Singapore, từ đó rút ra những nhận xét và nêu lên phương
hướng phấn đấu của Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Là một học viên cao học chuyên ngành Quản lí giáo dục, mục đích nghiên
cứu là bước đầu tìm hiểu vị trí giáo dục Việt Nam trên bản đồ Đông Nam Á. Từ
đó rút ra những nhận xét và nêu lên phương hướng phấn đấu của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: giáo dục Việt Nam và giáo dục Singapore
- Nghiên cứu, so sánh 3 chỉ số: tỷ lệ biết chữ ở người lớn, tỷ lệ đi học đại
học, tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng giáo dục.
- Phạm vi nghiên cứu: Với xu hướng thu hẹp phạm vi của so sánh giáo dục
chuyển từ quốc tế sang quốc nội, giải quyết những hạn chế vướng mắc của nền
giáo dục Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng lý luận về giáo dục so sánh, quản lý giáo dục trên lĩnh vực
GD-ĐT và sử dụng phương pháp thống kê chọn mẫu, phương pháp phân tích
đánh giá trên biểu đồ, phương pháp so sánh tổng hợp.
Tiểu luận đã sử dụng các số liệu đã được thầy giáo Nguyễn Tiến Đạt cung
cấp, gồm:
Bảng 2. So sánh tỷ lệ biết chữ người lớn ALR (Adult Literacy Rate)
Bảng 5: So sánh tỷ lệ đi học đại học TEGER (Tertiary Education Gross

Enrolment Ratio)
Bảng 9: So sánh tỷ lệ người tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng giáo dục
SEQ (Satisfaction with Education Quality)
(Nguồn: Human Development Report 2013).
5. Kết cấu của tiểu luận:
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung của tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát hệ thống giáo dục Việt Nam và hệ thống giáo dục
Singapore.
Chương 2. So sánh 3 chỉ số (tỷ lệ biết chữ ở người lớn, tỷ lệ đi học đại học,
tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng giáo dục) năm 2013 giữa Việt Nam với
Singapore.
Chương 3. Những nhận xét về ưu nhược điểm và phương hướng phấn đấu
của Việt Nam.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT HỆ THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ
HỆ THỐNG GIÁO DỤC SINGAPORE
1.1. Khái quát hệ thống giáo dục Việt Nam
Việt Nam (tên chính thức: Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là một
quốc gia nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á.
Việt Nam phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào và Campuchia, phía tây
nam giáp vịnh Thái Lan, phía đông và phía nam giáp biển Đông.
1.1.1. Cơ cấu hệ thống - Mạng lưới nhà trường
Đối với cơ cấu hệ thống giáo dục, có nhiều cách xác định khác nhau. Ở
đây, khái niệm cơ cấu hệ thống chỉ giới hạn trong phạm vi phân chia cấp lớp/
trình độ đào tạo kèm theo đó là một số chú ý về phương thức giáo dục, loại hình
trường và việc phân bố trường/ lớp trên các địa bàn (thường được gọi là mạng
lưới trường/ lớp).
* Về cơ cấu hệ thống giáo dục. Luật giáo dục năm 2005 được sửa đổi,
bổ sung năm 2009 quy định tại Điều 4:
- “Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường

xuyên”. [1] Như vậy, giáo dục thường xuyên vừa có thể hiểu như một phương
thức giáo dục, vừa có thể xem là một tiểu hệ thống/phân hệ của hệ thống giáo dục
quốc dân.
- Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
a) Giáo dục mầm non, có nhà trẻ và mẫu giáo;
b) Giáo dục phổ thông, có 3 cấp học: tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5), trung
học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9), trung học phổ thông (từ lớp 10 đến lớp 12);
c) Giáo dục nghề nghiệp, gồm 3 trình độ đào tạo: sơ cấp, trung cấp (trung
cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề), cao đẳng;
d) Giáo dục đại học, gồm 4 trình độ đào tạo: cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến
sĩ.
* Về mạng lưới trường/ lớp, theo nguyên tắc phân bố trường gần dân, đến
nay trên các địa bàn dân cư đều có các cơ sở giáo dục. Cụ thể là:
- Mỗi xã, phường hoặc thị trấn đều có ít nhất một cơ sở giáo dục mầm non,
một trường tiểu học, một trường trung học cơ sở hoặc một trường liên cấp tiểu
học và trung học cơ sở (hình thức này chỉ có ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn); phần lớn các xã có trung tâm học tập cộng đồng.
- Mỗi quận, huyện, thị xã hoặc thành phố thuộc tỉnh đã có một hoặc một số
trường trung học phổ thông, có một trung tâm giáo dục thường xuyên của huyện.
Các thị xã, các quận và nhiều huyện đã có trung tâm kỹ thuật tổng hợp-hướng
nghiệp. Các huyện miền núi, hải đảo đều có một trường trung học cơ sở nội trú
dành cho học sinh dân tộc thiểu số và trường phổ thông có nhiều cấp học.
- Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có một trường trung học
phổ thông chuyên dành cho học sinh xuất sắc trong việc học tập một trong các
các môn học, có trường trung cấp hoặc/và một trường cao đẳng (junior college),
một trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh. Các tỉnh miền núi và các tỉnh có
nhiều huyện miền núi đều có trường trung học phổ thông nội trú dành cho học
sinh dân tộc thiểu số. Một số tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương còn có
trường năng khiếu nghệ thuật, trường năng khiếu thể dục-thể thao và trường dành
cho người khuyết tật, tàn tật.

- Các trường đại học tập trung ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số
thành phố như Hải Phòng, Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ Ngoài ra,
hầu như mỗi tỉnh đều có trường cao đẳng hoặc trường đại học.
1.1.2. Giáo dục mầm non và việc thực hiện quyền trẻ em:
Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em
từ mười hai tháng tuổi đến sáu tuổi. Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ em
phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, ngôn ngữ, thẩm mỹ, hình thành những yếu
tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1. Cơ sở giáo dục mầm
non gồm nhà trẻ (tiếp nhận trẻ từ ba tháng tuổi đến ba tuổi) và trường mẫu giáo
(tiếp nhận trẻ từ ba tuổi đến năm tuổi).
Chính sách cơ bản của Đảng và Nhà nước là bảo đảm các quyền của trẻ em
được quy định trong Luật Giáo dục và Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Cụ thể là:
- Trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục để phát triển toàn diện về
thể chất, tình cảm, trí tuệ, ngôn ngữ, thẩm mỹ phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi.
- Trẻ em được chăm sóc sức khoẻ ban đầu và khám bệnh, chữa bệnh không
phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập.
- Trẻ em được giảm phí đối với các dịch vụ vui chơi, giải trí.
Việc thành lập các nhà trẻ nhằm mục đích giúp các bà mẹ có nơi gửi con
để đi làm và tham gia hoạt động xã hội, góp phần tạo điều kiện thực hiện sự bình
đẳng về giới.
Về mặt quản lý nhà nước, các cơ sở giáo dục mầm non hoặc do Uỷ ban
nhân dân cấp huyện thành lập (cơ sở công lập), hoặc do cộng đồng xã, phường
thành lập (cơ sở dân lập), hoặc do tư nhân thành lập (cơ sở tư thục).
- Các cơ sở giáo dục mầm non công lập chỉ được thành lập tại các xã thuộc
địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng cư trú của các dân tộc thiểu số.
- Các cơ sở giáo dục mầm non dân lập chủ yếu được thành lập tại nông
thôn. Dân cư trong cộng đồng đóng góp xây dựng trường sở, mua sắm thiết bị và
bảo đảm kinh phí hoạt động, chính quyền địa phương có trách nhiệm hỗ trợ về
nguồn lực.
- Chính phủ khuyến khích tư nhân thành lập các cơ sở giáo dục tiền học

đường tư thục. Các trường này được hưởng các chính sách ưu đãi như được giao
hoặc cho thuê đất, được giao hoặc cho thuê cơ sở vật chất, được hưởng ưu đãi về
thuế và tín dụng.
Về quy mô giáo dục mầm non, trong năm học 2007-2008, cả nước có
3.057.718 trẻ em được bố mẹ gửi vào 11.620 cơ sở giáo dục mầm non; trong đó
có 5.678 cơ sở giáo dục mầm non công lập tiếp nhận 1.336.824 trẻ em, 5.942 cơ
sở giáo dục mầm non ngoài công lập tiếp nhận 1.720.894 trẻ em.
* Mục tiêu phát triển của giáo dục mầm non đến 2015 là:
- Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ em trước 6 tuổi. Giảm tỷ lệ
suy dinh dưỡng của trẻ em trong các cơ sở giáo dục tiền học đường xuống dưới
15%.
- Mở rộng hệ thống nhà trẻ, trường mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc
biệt ở nông thôn và vùng khó khăn để hệ thống này có thể thu hút 18% trẻ em
dưới 3 tuổi, 67% trẻ em trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. Phổ cập trẻ 5 tuổi, tích cực thu hút
95% - 100% trẻ 5 tuổi đến trường để chuẩn bị cho các em có kỹ năng vào học lớp
một.
- Tăng cường các hoạt động phổ biến kiến thức, tuyên truyền và tư vấn cho
các bậc ông bà, cha mẹ về nuôi dạy trẻ em theo khoa học.
1.1.3. Giáo dục tiểu học
Cấp tiểu học gồm 5 lớp, thu nhận trẻ em từ 6 tuổi. Như vậy, nếu trẻ
không lưu ban, bỏ học thì đến 11 tuổi sẽ tốt nghiệp tiểu học.
Mục tiêu giáo dục của cấp tiểu học là giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên cấp trung học cơ sở. Trong
chương trình tiểu học hiện hành, ở lớp 1, lớp 2 và lớp 3 có 6 môn học là: Tiếng Việt,
Toán, Tự nhiên và xã hội, Đạo đức, Thể dục, Nghệ thuật (Mỹ thuật, Âm Nhạc);
trong đó, chỉ có Tiếng Việt và Toán có sách giáo khoa (để học sinh sử dụng), bốn
môn còn lại có tài liệu hướng dẫn giảng dạy (để giáo viên sử dụng); ở lớp 4 và lớp 5
có 7 môn học là: Tiếng Việt, Toán, Lịch sử và Địa lý, Khoa học, Đạo đức, Thể dục,
Nghệ thuật; trong đó, bốn môn có sách giáo khoa là Tiếng Việt, Toán, Lịch sử và

Địa lý, Khoa học, các môn học còn lại có tài liệu hướng dẫn giảng dạy. Ngoài ra,
cần đưa dần chương trình tin học vào tiểu học để bổ sung các kỹ năng cơ bản cho
học sinh lên cấp học cao hơn.
Năm học 2007-2008, cả nước có 14.939 trường tiểu học với 6.832.567
học sinh. Số trường công lập là 14.844 với 6.832.218 học sinh. Số trường
ngoài công lập là 95 với 18.349 học sinh. Trong những năm gần đây, số học
sinh tiểu học giảm liên tục. Bên cạnh tình trạng học sinh bỏ học, nhiều nhà
phân tích cho rằng hiện tượng này là kết quả của việc giảm tỷ lệ tăng dân số
(nhân khẩu trong độ tuổi 6-11 giảm) và việc trẻ em đi học đúng độ tuổi
(trước đây quy mô cấp tiểu học lớn hơn dân số trong độ tuổi 6-11).
Thực hiện quy định của Luật phổ cập giáo dục tiểu học 1991, mọi trẻ em
chậm chất là đến 14 tuổi đều phải tốt nghiệp tiểu học, hơn chục năm trở lại đây,
ngày 5-9 được lấy làm ngày toàn dân đưa trẻ em đến trường với mục tiêu vận
động tất cả các gia đình có con lên 6 đều đưa vào học lớp một. Năm 2000, tỷ lệ
trẻ em trong độ tuổi 6-11 đi học là 95%; năm học 2004-2005 tỷ lệ đó là hơn
98%.
Mục tiêu phát triển của giáo dục tiểu học đến 2015 là: Thực hiện phổ cập
giáo dục đúng độ tuổi (thu hút 99% trẻ em trong độ tuổi đi học, giảm thiểu tỷ lệ
lưu ban, bỏ học), nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiến tới thực hiện dạy và học 2
buổi/ngày, đưa ngoại ngữ vào học từ lớp 3, giảm tỷ lệ hs/gv và quy mô các lớp
học.
Sơ đồ 1.1. Hệ thống giáo dục Việt Nam
1.1.4. Giáo dục trung học:
Giáo dục trung học có hai cấp: cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ
thông.
Trung học cơ sở gồm 4 lớp (từ lớp 6 đến lớp 9). Mục tiêu giáo dục của cấp
trung học cơ sở là củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có
học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và
hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, hoặc học nghề (trung cấp
chuyên nghiệp/ trung cấp nghề), hoặc đi vào cuộc sống lao động.

Trung học phổ thông gồm 3 lớp (từ lớp 10 đến lớp 12). Mục tiêu giáo dục
của cấp trung học phổ thông là giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả
của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết
thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá
nhân để lựa chọn hướng phát triển, hoặc học lên đại học, cao đẳng, hoặc học
nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Năm học 2007-2008, cả nước có 10.491 trường trung học cơ sở với
5.791.229 học sinh; trong đó, số trường công lập là 10.458 với 5.791.229 học
sinh và số trường ngoài công lập là 33 với 68.297 học sinh. Cũng trong năm học
này, số trường trung học phổ thông là 2.476 với 3.070.023 học sinh; trong đó, số
trường công lập là 1.826 với 2.238.141 học sinh và số trường ngoài công lập là
831.882 học sinh.
Tại các tỉnh có đông người dân tộc thiểu số (tỉnh miền núi và tỉnh có huyện
miền núi) trong các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông có một số
trường nội trú. Theo thống kê năm 2005, tổng số trường nội trú dành cho con em
dân tộc thiểu số là 325; trong đó có 11 trường dân tộc nội trú trung ương với
4.400 học sinh; 48 trường tỉnh (trung học phổ thông) với khoảng 20 nghìn học
sinh; và 266 trường huyện (trung học cơ sở) với khoảng 60 nghìn học sinh.
Triển khai chương trình phân ban ở trung học phổ thông là một nội
dung đổi mới quan trọng ở giáo dục phổ thông. Từ năm học 2006-2007, cấp
trung học phổ thông có ba ban: (i) Ban cơ bản, (ii) Ban khoa học tự nhiên,
(iii) Ban khoa học xã hội và nhân văn. Chương trình của cả ba ban đều gồm
các môn học: Văn học, Lịch sử, Địa lý, Toán học, Vật lý, Hoá học, Ngoại
ngữ, Chính trị và Giáo dục công dân, Thể dục thể thao Yêu cầu của ban cơ
bản chính là chuẩn kiến thức và kỹ năng (nghĩa là yêu cầu tối thiểu cần
thiết) đối với tất cả các môn học thuộc chương trình của cấp học. Yêu cầu
của Ban khoa học tự nhiên là nâng cao đối với bốn bộ môn: Toán, Vật lý,
Hoá học và Sinh học. Yêu cầu của ban khoa học xã hội và nhân văn là nâng
cao đối với bốn bộ môn: Văn học, Lịch sử, Địa lý và Ngoại ngữ.
Đối với một trường, việc giảng dạy, học tập theo mấy ban, là ban nào

tuỳ thuộc sự lựa chọn của hiệu trưởng/ hội đồng nhà trường sau khi báo cáo
và được giám đốc sở giáo dục và đào tạo đồng ý. Đối với những trường chọn
ban cơ bản thì để tăng cường khả năng lựa chọn của học sinh, nhà trường có
thể có tổ chức thực hiện các chương trình tự chọn đối với các môn học được
nâng cao ở hai ban: Ban khoa học tự nhiên (và toán), Ban khoa học xã hội và
ngoại ngữ.
* Mục tiêu của giáo dục trung học phổ thông đến năm 2015 là: Thực hiện
phổ cập giáo dục trung học cơ sở; thu hút 99% trẻ em trong độ tuổi 11-15 đi
học trung học cơ sở, 50% trẻ em trong độ tuổi 15-18 đi học trung học phổ
thông; giảm tỷ lệ lưu ban, bỏ học; bảo đảm tất cả học sinh đều được học một
ngoại ngữ liên tục từ lớp 6 đến lớp 12.
1.1.5. Giáo dục nghề nghiệp - trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
Mục tiêu giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức
và kỹ năng nghề nghiệp, có đạo đức và lương tâm, có ý thức kỷ luật và tác
phong công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho người lao động có thể tìm việc
làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Giáo dục nghề nghiệp có ba trình độ đào tạo: sơ cấp, trung cấp và cao
đẳng. Đào tạo trình độ sơ cấp thực hiện trong thời gian dưới một năm; đào tạo
trình độ trung cấp và cao đẳng thực hiện trong thời gian từ một đến ba năm tuỳ
theo đặc điểm, yêu cầu nghề nghiệp và trình độ của người học ở đầu vào.
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm các trường trung cấp chuyên nghiệp
thuộc quyền quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường dạy nghề và các
trung tâm dạy nghề thuộc quyền quản lý của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội. Theo thống kê năm 2006, trong cả nước có 1.688 cơ sở dạy nghề phân bố ở
tất cả các tỉnh, bao gồm 236 trường dạy nghề (tăng gấp đôi so với năm 1998),
404 trung tâm dạy nghề và trên 1.000 các lớp dạy nghề
18
. Trong hệ thống các
trường dạy nghề, ngoài các trường công lập, có trường tư thục, trường có vốn đầu
tư của nước ngoài và trường của quân đội để thực hiện việc dạy nghề cho bộ đội

xuất ngũ. Về các trường trung học chuyên nghiệp (thuộc quyền quản lý của Bộ
Giáo dục và Đào tạo), mặc dầu nhiều trường mạnh lần lượt chuyển thành trường
cao đẳng nhưng trong 5 năm (từ 2001 đến 2005) tổng số các trường trung học
chuyên nghiệp vẫn tăng. Cụ thể, năm học 2001 có 253 trường đến năm học 2005
có 285 trường, với 283.335 học sinh. Trong đó, có 238 trường công lập và 47
trường tư thục; có trường thuộc các bộ và có trường thuộc địa phương, mỗi tỉnh
trung bình có từ 3 đến 5 trường (trừ 3 tỉnh mới thành lập).
* Mục tiêu phát triển của giáo dục nghề nghiệp đến năm 2015 là:
- Thiết lập hệ thống đào tạo nghề nghiệp thực hành đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, chú trọng đào tạo nghề ngắn hạn và đào tạo công nhân lành
1
nghề, đội ngũ kỹ thuật viên và cán bộ chuyên môn ở trình độ cao đẳng từ những
người tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề.
- Thu hút 30% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học các trường
trung cấp và 10% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào học các cao đẳng
nghề.
1.1.6. Giáo dục đại học
Giáo dục đại học đào tạo bốn trình độ: cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến
sĩ. Cụ thể:
- Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ 2-3 năm, đối với người
tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp
nghề; 1-2 năm đối với người tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành;
- Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ 4-6 năm đối với người tốt
nghiệp trung học phổ thông hoặc trung cấp; từ 2
1
/
2
- 4 năm đối với người tốt
nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ 1
1

/
2
- 2 năm đối với người tốt nghiệp
cao đẳng cùng chuyên ngành;
- Đào tạo trình độ thạc sĩ thực hiện từ 1-2 năm đối với người tốt nghiệp
đại học;
- Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm đối với người tốt
nghiệp đại học; từ 2-3 năm đối với người có bằng thạc sĩ.
Mục tiêu giáo dục của cấp đại học là đào tạo sinh viên thành những
người có phẩm chất chính trị, có đạo đức và ý thức phục vụ nhân dân, có
kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào
tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các cơ sở giáo dục đại học của nước ta gồm:
- Các trường cao đẳng (junior college);
- Các trường đại học (university), trong đó có đại học gồm nhiều
trường thành viên (colleges), có đại học chỉ có các khoa;
- Các học viện;
Theo thống kê năm 2006, cả nước có 322 trường đại học, cao đẳng với
1.53.846 sinh viên; trong đó có 275 trường công lập với 1.310.375 sinh viên và
193.471 sinh viên. Về đào tạo sau đại học có gần 150 cơ sở với 38.461 học viên
cao học và 4.518 nghiên cứu sinh. Tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân là 179.
* Mục tiêu phát triển của giáo dục đại học đến năm 2020 là:
- Mở rộng quy mô đào tạo, đạt tỷ lệ 200 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2010
và 450 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020, trong đó có 70-80% sinh viên theo học
các chương trình nghề nghiệp - ứng dụng và khoảng 40% sinh viên thuộc các
trường ngoài công lập.
- Bảo đảm đến năm 2010 đạt 40% giảng viên đại học, cao đẳng có trình độ
thạc sĩ và 25% có trình độ tiến sĩ; tỉ lệ sinh viên/giảng viên của cả hệ thống giáo
dục đại học không quá 20.
- Áp dụng các phương thức và công nghệ quản lý hiện đại trong các cơ sở

giáo dục đại học, đặc biệt là áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông; hình
thành trung tâm dữ liệu quốc gia về đào tạo và nghiên cứu khoa học, và hệ thống
thư viện điện tử.
- Nâng cao rõ rệt quy mô và hiệu quả của các hoạt động khoa học công
nghệ trong các trường đại học. Các trường đại học lớn phải là các trung tâm
nghiên cứu khoa học mạnh của cả nước. Nguồn thu từ các hoạt động khoa học -
công nghệ, sản xuất và dịch vụ đạt khoảng 15% tổng nguồn thu của các trường.
Nhà nước dành hơn 1% ngân sách để các trường đại học thực hiện nhiệm vụ
nghiên cứu khoa học.
- Bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của nhà trường về tất cả các
mặt. Bảo đảm vai trò quản lý của nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã
hội đối với các hoạt động của nhà trường.
1.1.7. Giáo dục thường xuyên
Trong suốt một thời gian dài, nhân dân ta kiên trì tiến hành công cuộc
chống nạn mù chữ, phát triển giáo dục người lớn (lúc đầu là giáo dục bình dân,
rồi giáo dục bổ túc và ngày nay là giáo dục thường xuyên). Kết quả là hàng chục
triệu người đã thoát khỏi nạn mù chữ. Hàng triệu người, thông qua các lớp bổ túc
văn hoá và các khoá đào tạo tại chức mà tiếp tục mở mang sự hiểu biết, vươn tới
ánh sáng của tri thức.
Ngày nay, giáo dục thường xuyên có chức năng giúp mọi người vừa làm
vừa học, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm
việc làm và tự tạo việc làm, thích nghi với đời sống xã hội.
Trong phạm vi chức năng, giáo dục thường xuyên có các chương trình sau:
- Chương trình xoá mù chữ và sau xoá mù chữ;
- Chương trình giáo dục cập nhật kiến thức, kỹ năng, chuyển giao công
nghệ theo yêu cầu của người học;
- Chương trình đào tạo, đào tạo lại và nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ;
- Chương trình giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân.

Hệ thống tổ chức thực hiện giáo dục thường xuyên gồm các trung tâm giáo
dục thường xuyên cấp tỉnh, các trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện và
các trung tâm học tập cộng đồng. Đồng thời các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục đại học cũng tham gia thực hiện chương trình giáo dục
thường xuyên.
Trong năm học 2008-2009, tính chung cả nước có 66 trung tâm giáo dục
thường xuyên cấp tỉnh, 583 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện, 24
trường bổ túc văn hoá, 1.300 trung tâm tin học, ngoại ngữ và 10.997 trung tâm
học tập cộng đồng ở xã (thuộc địa bàn nông thôn).
* Mục tiêu của giáo dục thường xuyên đến 2015 là:
- Nâng cao kết quả xoá nạn mù chữ, tăng tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi
15-35;
- Mở rộng cơ hội học tập cho người lớn, người lao động, giúp mọi người
tiếp cận và thụ hưởng các chương trình bồi dưỡng, nâng cao hiểu biết, khả năng
lao động và chất lượng cuộc sống
- Phấn đấu để mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên phủ kín các địa bàn
trong cả nước.
1.2. Khái quát hệ thống giáo dục Singapore
Nước Cộng hòa Singapore là quốc gia nhỏ nhất Đông Nam Á với diện tích
chỉ khoảng 710 km
2
và dân số khoảng trên 4,8 triệu người. Vốn là một làng chài
cá ở phía nam quần đảo Mã Lai, Singapore trở thành thuộc địa của Anh từ thế kỷ
19, giành quyền tự trị vào năm 1959 và trở thành quốc gia độc lập thuộc Khối
thịnh vượng chung từ năm 1965. Chính vì vậy tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến ở
đảo quốc này.
Quá trình phát triển giáo dục Singapore tính từ 1959 đến nay được chia ra
làm nhiều giai đoạn với những phương châm cải cách giáo dục riêng. Các giai
đoạn cải cách giáo dục ở Singapore có thể được chia thành 4 giai đoạn như sau:
- Giáo dục để tồn tại (1959-1978);

- Giáo dục lấy hiệu quả làm động lực (1979-1996);
- Giáo dục lấy năng lực làm động lực (1997-2005);
- Giáo dục lấy đổi mới làm động lực (từ 2006).
Những giai đoạn khác nhau không tách rời mà tạo thành một chuỗi liên
tục, thời điểm chỉ có ý nghĩa đánh dấu cho thuận tiện.
Mục đích của nền giáo dục chính thống ở Singapore là trang bị cho thanh
thiếu niên những kỹ năng kiếm sống, có giá trị đạo đức lành mạnh, và khi trưởng
thành trở thành những con người có trách nhiệm và những công dân trung thành.
Quá trình học tập nhằm nuôi dưỡng những tố chất tốt nhất của mỗi trẻ, giúp cho
từng em phát huy tối đa tiềm năng của mình.
Hiện nay, hệ thống học tập chủ yếu là tập trung giám sát khoảng 165
trường tiểu học (trường công và trường được chính phủ hỗ trợ), 156 trường trung
học, 12 trường hỗn hợp đào tạo, 7 trường độc lập, 13 trường cao đẳng và 1
trường dự bị đại học tập trung. Giáo dục tiểu học là bắt buộc, với tất cả trẻ em từ
6 tuổi. Các em được hưởng 10 năm giáo dục miễn phí: 6 năm ở bậc tiểu học và 4
năm ở bậc trung học. Giáo dục sau trung học chuyên về học thuật được đưa vào
các trường cao đẳng và một trường dự bị đại học tập trung, trong khi đào tạo trực
tiếp chuẩn bị cho thế giới việc làm được giao cho các cơ sở và các trường đào tạo
thuộc Viện Giáo dục Kỹ thuật và 5 trường kỹ thuật bách nghệ. Hiện nay ở
Singapore có 4 trường đại học. Hệ thống trường học ở Singapore được xây dựng
nhằm khuyến khích học sinh hoàn chỉnh ít nhất 10 năm giáo dục cơ sở trước khi
bước vào thế giới việc làm.
1.2.1. Giáo dục tiểu học
Ở bậc tiểu học học sinh học qua giai đoạn cơ bản trong 4 năm, từ lớp 1 đến
lớp 4, và học qua giai đoạn định hướng trong 2 năm từ lớp 5 đến lớp 6. Để phát
huy tối đa tiềm năng của mỗi cá nhân, trước khi bước vào giai đoạn định hướng,
học sinh chính thức được sắp xếp lớp theo năng lực học tập.
1.2.2. Giáo dục trung học
Ở bậc trung học, học sinh lựa chọn 3 chương trình học (Đặc
biệt/Nhanh/Bình thường) được thiết kế phù hợp với năng lực và sở thích của mỗi

học sinh. Các em phải học 4 đến 5 năm giáo dục trung học với mức độ quan
trọng về chương trình khác nhau. Đa số học sinh theo chương trình học đặc biệt
hoặc nhanh trong khi số còn lại theo chương trình học bình thường.
1.2.3. Giáo dục sau trung học và giáo dục đại học
Hệ thống giáo dục sau trung học và đại học của Singapore gồm các trường
cao đẳng, các học viện tập trung, các viện giáo dục kỹ thuật, các trường kỹ thuật
bách nghệ và các trường đại học.
Sau khi hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp trung học (GCE), học sinh đạt trình
độ “0” và có thể vào học chương trình dự bị đại học 2 năm ở các trường cao
đẳng hoặc 3 năm tại các học viện tập trung tùy theo kết quả thi.
Viện Giáo dục kỹ thuật (ITE) là một trường sau bậc trung học nằm trong
hệ thống các trường cao đẳng nhằm trang bị cho học sinh tốt nghiệp trung học và
người lớn các kỹ năng và kiến thức kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu về nhân lực cho
các ngành. ITE cung cấp nhiều chương trình đào tạo: đào tạo cơ bản toàn phần,
các chương trình thực tập cho học sinh tốt nghiệp trung học, giáo dục và đào tạo
thường xuyên cho công nhân.
Các trường kỹ thuật bách nghệ có xu hướng đào tạo kỹ năng thực hành với
các ngành học như cơ khí, kinh doanh, kế toán, hàng hải, chăm sóc sức khỏe,
công nghệ sinh học, thiết kế phương tiện kỹ thuật số, khoa học ứng dụng, thiết kế
sản phẩm và truyền thông.
Ngoài ra có các trường đại học tổng hợp có xu hướng đào tạo nghiên cứu.
Riêng việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên cũng như cung cấp các chương trình
giáo dục khác được thực hiện tại Học viện giáo dục quốc gia thuộc Đại học Công
nghệ Nanyang. Sau khi có được bằng hoặc Chứng chỉ tại các trường này sinh
viên mới có thể học lên các bậc sau đại học.
Sơ đồ 1.2. Hệ thống giáo dục Singapore
CHƯƠNG 2
SO SÁNH 3 CHỈ SỐ (TỶ LỆ BIẾT CHỮ Ở NGƯỜI LỚN, TỶ LỆ ĐI HỌC
ĐẠI HỌC, TỶ LỆ NGƯỜI THOẢ MÃN VỚI CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC)

NĂM 2013 GIỮA VIỆT NAM VỚI SINGAPORE
2.1. Bảng số liệu và biểu đồ so sánh 3 chỉ số (tỷ lệ biết chữ ở người lớn,
tỷ lệ đi học đại học, tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng giáo dục) năm 2013
giữa Việt Nam với Singapore.
Nước
Tỷ lệ biết chữ
ở người lớn ALR
(Adult Literacy
Rate)
Tỷ lệ đi học đại học
TEGER
(Tertiary Education
Gross Enrolment Ratio)
Tỷ lệ người thoả mãn
với chất lượng giáo
dục SEQ
(Satisfaction with
Education Quality)
Hạng Tỷ lệ
(%)
Hạng Tỷ lệ
(%)
Hạng Tỷ lệ
(%)
Việt Nam 59/154 93.2 91/171 22.3 15/145 80.4
Singapo 44/154 96.1 18/171 71.0 2/145 91.8
(Nguồn: Human Development Report 2013).
Bảng 2.1. Bảng số liệu so sánh 3 chỉ số (tỷ lệ biết chữ ở người lớn, tỷ lệ đi học
đại học, tỷ lệ người thoả mãn với chất lượng giáo dục) năm 2013
giữa Việt Nam với Singapore.


Biểu đồ 2.1. So sánh 3 chỉ số (tỷ lệ biết chữ ở người lớn, tỷ lệ đi học đại học, tỷ lệ
người thoả mãn với chất lượng giáo dục) năm 2013
giữa Việt Nam với Singapore.

×