Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Phân tích chiến lược Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.13 KB, 30 trang )

Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
BÀI THẢO LUẬN
Môn: Quản trị chiến lược
Đề tài: Phân tích chiến lược Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB)
I. Giới thiệu về NHTM ACB
 Logo:
 Tên pháp định : Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu
 Tên quốc tế : Asia Commercial Bank
 Tên viết tắt : ACB
 Trụ sở chính : 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3, Tp. HCM
 Điện thoại : : 84.8.3929 0999
 Fax : 84.8.3839 9885
 Webside : www.acb.com.vn
 Email :
 Ngân hàng TMCP Á Châu đã được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP do
NHNNVN cấp ngày 24/04/1993, Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP. Hồ
Chí Minh cấp ngày 13/05/1993. Ngày 04/06/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động. Với
ngành nghề kinh doanh chính (SBU):
 Huy động vốn ngắn, trung và dài hạn theo các hình thức tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi
thanh toán, chứng chỉ tiền gửi; tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư; nhận vốn từ các tổ chức tín
dụng trong và ngoài nước; Cho vay ngắn, trungvà dài hạn; chiết khấu thương phiếu, công
trái và giấy tờ có giá; đầu tư vào chứng khoán và các tổ chức kinh tế;
 Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng;
 Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc;
 Thanh toán quốc tế, bao thanh toán;
 Môi giới và đầu tư chứng khoán; lưu ký, tư vấn tài chính doanh nghiệp và bào lãnh
phát hành;
 Cung cấp các dịch vụ về đầu tư, quản lý nợ và khai thác tài sản, cho thuê tài chính
và các dịch vụ ngân hàng khác.
 Tầm nhìn chiến lược:
- Ngay từ ngày đầu hoạt động, ACB đã xác định tầm nhìn là trở thành ngân hàng


thương mại cổ phần bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam
vào thời điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp
vừa và nhỏ” là một định hướng rất mới đối với ngân hàng Việt Nam, nhất là một ngân
hàng mới thành lập như ACB.
Lớp: L1005SMGM0111
1
Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
- ACB đã hình dung Tầm nhìn 2015, theo đó ACB sẽ phấn đấu trở thành một trong ba
tập đoàn tài chính- ngân hàng hàng đầu và hoạt động có hiệu quả ở Việt Nam , với hai
trụ cột kinh doanh là ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư.
 Sứ mạng kinh doanh: Sứ mạng kinh doanh của ACB được thể hiện thông qua khẩu
hiệu: “ Ngân hàng Á Châu- ngân hàng của mọi nhà”
- Triết lý kinh doanh: Tăng trưởng bền vững, quản lý rủi ro hiệu quả, duy trì khả năng
sinh lời cao và chỉ số tài chính tốt, đầu tư chiều sâu vào con người và xây dựng văn hóa
công ty lành mạnh.
- Mục tiêu: Ngân hàng Á Châu luôn phấn đấu là ngân hàng thương mại bán lẻ hàng
đầu Việt Nam, hoạt động năng động, sản phẩm phong phú, kênh phân phối đa dạng, công
nghệ hiện đại, kinh doanh an toàn hiệu quả, tăng trưởng bền vững, đội ngũ nhân viên có
đạo đức nghề nghiệp và chuyên môn cao.
 Kết quả hoạt động kinh doanh của ACB:
B1.BẢNG KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA ACB
(Đơn vị tính : tỷ đồng)
Chỉ tiêu 2008 2009 30/9/2010
Vốn điều lệ 6.356 7.814 9.377(từ
11/11/2010)
Tổng tài sản 105.306 168.000 177.944
Tổng vốn huy động 75.113 108.992 123.963
Tổng dư nợ 34.833 62.358 80.481
Lợi nhuận trước thuế 2.561 2.838 2.000
Lợi nhuận sau thuế 2.210 2201 1.488

ROE(LN trước thuế/Vốn
CSH bình quân)
36,7% 31,8%
ROA( LN trước thuế/TTS
bình quân)
2,6% 2,1%
(Nguồn : Báo cáo tài chính hợp nhất ACB năm 2008,2009,và đến 30/9/2010)
Nhận xét: Qua kết quả hoạt động của ACB trong 3 năm, ta thấy ACB có sự phát triển bùng
nổ, vượt bậc qua từng năm :
Lớp: L1005SMGM0111
2
Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
- Tổng tài sản không ngừng tăng lên với tốc độ tăng đáng nể: Năm 2009 tổng tài sản
tăng 59,5% so với năm 2008. Trong 9 tháng đầu năm 2010 tổng tài sản tăng 5,9% so
với cả năm 2009
- Huy động vốn là một hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ACB.Tốc độ tăng
trưởng huy động vốn ở mức cao. Trong 9 tháng đầu năm 2010 tổng vốn huy động
tăng 13,7% so với cả năm 2009
- Các chỉ tiêu: vốn điều lệ, tổng dư nợ cũng tăng lên qua từng năm
- Trong năm 2009 tổng lợi nhuận trước thuế tăng 10,8% so với năm 2008 tuy nhiên
lợi nhuận sau thuế lại giảm do ACB đã hết thời hạn được giảm 50% thuế suất.
Với các chỉ số tài chính trên ta có thể thấy phần nào vị thế của ngân hàng ACB trong
ngành ngân hàng Việt Nam.
II.Phân tích môi trường kinh doanh của NHTM ACB
2.1 Phân tích môi trường bên ngoài :
2.1.1 Ngành kinh doanh của ACB
Năm 2006, 2007 tốc độ tăng trưởng của các ngân hàng thương mại đang trong giai đoạn
phát triển với tốc độ cao thì khủng hoảng kinh tế xảy ra, nên năm 2008, 2009 các ngân
hàng đều gặp khó khăn lớn.
Hai mảng hoạt động chính là tín dụng và huy động vốn của ngành ngân hàng tăng trưởng

mạnh mẽ, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng tín dụng và tiền gửi cao hơn nhiều so với tốc độ
tăng GDP thực tế.
B2.Bảng tăng trưởng TD, TG, GDP
Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tăng
trưởng
tín
dụng
22 28 42 32 25 54 22 38
Tăng
trưởng
tiền
gửi
19 26 32 32 37 50 26 29
Tăng
trưởng
GDP
7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.46 6.23 5.2
(Nguồn IMF, NHNN)
Lớp: L1005SMGM0111
3
Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
Ngoài hai mảng hoạt động truyền thống là tín dụng và huy động vốn, mảng hoạt động dịch
vụ cũng có sự phát triển mạnh.
Dù quy mô hoạt động tăng trưởng mạnh mẽ nhưng theo một số kết quả thống kê, các chỉ
tiêu tín dụng/GDP, huy động/GDP của Việt Nam vẫn thấp hơn các nước trong khu vực,
điều này cho thấy khả năng còn tiếp tục tăng trưởng trong tương lai của ngành ngân hàng.
Kết luận: Dựa trên tốc độ phát triển của ngành ngân hàng hiện tại, chúng ta có thể nhận
thấy đây là một ngành kinh doanh khá hấp dẫn, đang có nhu cầu phát triển rất nhanh, thu
hút sự chú ý của doanh nghiệp.

2.2.3 Tác động của môi trường vĩ mô
Nhân tố kinh tế :
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới tiếp tục được thực hiện toàn diện và
sâu sắc hơn. Kinh tế tăng trưởng nhanh, năm năm qua GDP tăng bình quân 7.5%, kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội năm năm tới đã được Quốc hội thông qua, phấn đấu sớm đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Về kinh tế, dự kiến tốc độ tăng GDP trung bình giai
đoạn 2011-2015 là 7 - 7.5%/ năm. Với tốc độ tăng trưởng đó, tới năm 2015 GDP bình quân
trên đầu người của Việt nam sẽ đạt gần 2.000 USD, tăng 1,7 lần năm 2010. Khi đó nước ta
sẽ vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp để ghi tên mình vào nhóm nước
có thu nhập trung bình. Với GDP đầu người đó nước ta đồng thời đã taọ được điều kiện để
bước vào giai đoạn “cất cánh” – giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2008 đã tác động đến tất cả các lĩnh vực
kinh tế - xã hội, trong đó có hoạt động của các Ngân hàng thương mại (NHTM). Đối với
các NHTM, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức mua đồng tiền giảm
xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư và thực hiện các
dich vụ ngân hàng.
Việt Nam hiện vẫn còn là một nền kinh tế có quy mô không lớn. Tỷ lệ tiết kiệm trong
thu nhập còn thấp. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển lớn trong khi khả năng cung tiền vẫn hạn
chế từ hoạt động tiền gửi, 75% số tiền gửi đều ngắn hạn trong khi số còn lại có thời gian
chỉ từ 1-5 năm. Điều này tạo nên sự phụ thuộc vào nguồn cung tiền của ngân hàng nhà
Lớp: L1005SMGM0111
4
Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
nước và quy mô của bản thân ngân hàng. Như vậy để tăng khả năng chủ động và đảm bảo
khả năng phát triển đòi hỏi ngân hàng phải lựa chọn giữa các chính sách như ra tăng quy
mô thông qua các đợt tăng vốn hay tập trung thu hút nguồn tiền gửi bằng việc tăng cường
dịch vụ khách hàng.
Cho đến nay thị trường tài chính hiện vẫn chưa hoàn thiện. Quá trình mở cửa tạo ra
những phân khúc thị trường mới, những dịch vụ và sản phẩm tài chính mới nhưng cùng lúc
đó thì vẫn thiếu các chế tài và luật lệ chi tiết khiến sự kiểm soát của chính phủ trong ngành

trở nên hạn chế. Điều này làm ra tăng rủi ro thị trường và gây ảnh hưởng không tốt đến sự
phát triển lành mạnh của các ngân hàng
Nhân tố công nghệ :
Tính chất toàn cầu của ngân hàng đặt ra nhu cầu về chia sẻ thông tin cô cùng phức tạp.
Đầu tư và hỗ trợ về công nghệ thông tin là đòi hỏi tất yếu để ngân hàng có thể liên kết được
mạng lưới rộng lớn của mình và đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Vì thế, các ngân
hàng phải luôn đầu tư, phát triển các công nghệ mới nhất để đáp ứng kịp với nền kinh tế
ngày một phát triển.
Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và
đang chuyển đổi sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống
dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín
dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút riền tự động ATM, cho phép khách
hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ. Máy thánh toán tiền POS được lắp đặt
ở các bách hoá và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hoá
dịch vụ bằng giấy, và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách
nhanh chóng trên toàn thế giới.
Công nghệ thông tin đã mang đến cho hệ thống ngân hàng những giải pháp kinh doanh
mềm dẻo. Các ngân hàng đua nhau đưa ra các dịch vụ hiện đại, thân thiện, tạo ra những lợi
ích nhỏ nhất để giữ khách hàng. Trước đây, 85 – 90% lãi của ngân hàng là từ tín dụng, chủ
yếu là từ tín dụng ngắn hạn. Nhưng hiện nay, tín dụng dài hạn chiếm tỷ trọng cao trong các
khoản tín dụng nên sẽ ảnh hưởng nhiều hơn đến thu nhập của ngân hàng. Tình thế này buộc
ngân hàng phải thu phí từ các dịch vụ, làm sao để khách hàng trả tiền nhưng không thấy
tiếc. Trước đây, người tiêu dùng phải đến ngân hàng để giao dịch, giờ thì chỉ cần một chiếc
điện thoại là có thể thanh toán và nhận kết quả từ ngân hàng
Nhân tố luật pháp – chính trị :
Năm 2009, Theo khảo sát toàn cầu về mức độ yên bình, Việt Nam đứng thứ 39 trên
tổng số 144 nước, được đánh giá cao về sự thân thiện với người nước ngoài và nguy cơ xảy
ra khủng bố thấp. Chỉ số hòa bình toàn cầu (Global Peace Index), do Viện Hòa bình Kinh tế
Lớp: L1005SMGM0111
5

Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
tại Australia phối hợp với Đơn vị tình báo kinh tế thực hiện - xếp hạng 144 quốc gia về
mức độ yên bình - theo định nghĩa là không có bạo lực.
Các yếu tố thể chế - luật pháp là yếu tố có ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh.
Các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ
ngành nào. Như vậy, ngành ngân hàng Việt Nam, tất nhiên, sẽ phải bắt buộc tuân theo chế
độ luật pháp tại Việt Nam. Nó sẽ phải tuân theo chính sách thuế, các đạo luật liên quan và
đặt biệt chịu sự điều tiết trực tiếp của NHNN Việt Nam.
Việc Việt Nam gia nhập, ký hết các hiệp định với WTO, đã tạo ra không ít những cơ
hội và thách thức to lớn cho các ngân hàng. Hội nhập quốc tế sẽ nâng cao tính cạnh tranh
và kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng sẽ khuyến khích tạo ra những ngân hàng có
quy mô lớn, tài chính lành mạnh và kinh doanh hiệu quả, các ngân hàng kinh doanh yếu
kém sẽ bị đào thải hoặc phải vươn lên, nếu muốn tồn tại. Hội nhập cũng tạo điều kiện thuận
lợi cho các ngân hàng trong nước thâm nhập vào thị trường quốc tế, mở cơ hội cho ngành
ngân hàng thực hiện các cuộc trao đổi, hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực hoạch định chính
sách tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, giám sát phòng ngừa rủi ro, lĩnh vực thanh toán và
phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới. Vì thế uy tín và vị thế của hệ thống NHVN
sẽ được nâng lên, ít nhất là trên thị trường khu vực. Điều này thực sự tạo cho hệ thống
NHVN nói chung và các NHTMCP nói riêng nhiều cơ hội để từng bước nâng cao hiệu quả
điều hành và phát triển vững mạnh.
Nhân tố văn hoá – xã hộ i: .
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hoá và các yếu tố xã hội đặc
trưng, và những yếu tố này là đặc điểm cho người tiêu dùng tại cá khu vực đó. Các doanh
nghiệp phải hiểu rõ các đặc điểm này để khai thác và sử dụng phù hợp các vấn đề văn hoá -
xã hội, về các nhóm khách hàng, quy mô, tỷ lệ tăng dân số, cấu trúc độ tuổi, tôn giáo và
ngôn ngữ… của quốc gia đó trong các chiến lược kinh doanh doanh của công ty.
Về văn hóa, Việt Nam có một nền văn hóa rất đa dạng, phong phú và giàu bản sắc bởi
đó là sự giao thoa văn hóa của 54 sắc tộc cùng tồn tại trên lãnh thổ. Bên cạnh đó, văn hóa
Việt Nam còn chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cùng với nền văn minh
lúa nước của người dân Đông Nam Á.

Việt Nam là một nước có nhiều tôn giáo, theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ Việt
Nam năm 2005, hiện có gần 10 triệu tín đồ Phật giáo, 5,5 triệu tín đồ Công giáo, 2,4 triệu
tín đồ đạo Cao Đài, 1,3 triệu tín đồ đạo Hòa Hảo, 1 triệu tín đồ Tin Lành và 60.000 tín đồ
Hồi giáo. Ngoài ra, một số người Chăm ở Nam Trung Bộ có theo đạo Bà la môn.
Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận những giao thoa văn hoá của các nền văn hoá
khác vào quốc gia. Sự giao thoa này sẽ thay đổi tâm lý tiêu dùng, lối sống, và tạo ra triển
Lớp: L1005SMGM0111
6
Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
vọng phat triển với ngành. Từ đó các NHTM có thể tận dụng để phát triển các sản phẩm,
dịch vụ mới để thu hút, lôi kéo các khách hàng. Điều kiện văn hóa – xã hội có nhiều thuận
lợi cho ngành ngân hàng phát triển.
Về dân số, Việt Nam hiện có hơn 85 triệu người, trong đó hơn 75% là dân số trẻ. Lớp
trẻ đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành thị trường ngân hàng bán lẻ, tuy nhỏ bé
nhưng đang rất phát triển tại Việt Nam. So với thế hệ trước, người trẻ tuổi không ngại vay
tiền ngân hàng và có xu hướng thích sử dụng kênh phân phối sản phẩm theo kiểu điều
khiển từ xa. Theo kết quản nghiên cứu 13.000 khách hàng của các ngân hàng trong khu vực
thì khoảng cách về sở thích và thói quen tiêu dùng giữa 2 thế hệ ở Việt Nam có độ khác
biệt rõ ràng hơn hẳn so với 11 nước châu Á khác.
Tuy nhiên, thói quen sử dụng tiền mặt của đại bộ phận dân cư Việt Nam là rào cản lớn
cho việc phát triển dịch vụ và sản phẩm ngân hàng. Các ngân hàng cần phải vượt qua thách
thức này để mở rộng, phát triển các hoạt động của mình.
2.2.4 Đánh giá cường độ cạnh tranh.
Nguy cơ từ các ngân hàng mới
Đe doạ gia nhập mới là đe doạ từ các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh trong cùng
ngành kinh doanh của ACB, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định
gia nhập ngành. Đây là đe doạ cho các doanh nghiệp hiên tại. Các doanh nghiệp hiện tại cố
gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn gia nhập ngành bởi vì càng nhiều doanh nghiệp
trong cùng một ngành kinh doanh thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn, thị trường và lợi nhuận
sẽ bị chia sẻ, vị trí của doanh nghiệp sẽ thay đổi. Mức độ thuận lợi và khó khăn cho việc

gia nhập ngành của các đối thủ cạnh trạnh tiềm ẩn phụ thuộc phẩn lớn vào hàng rào lối vào
một ngành kinh doanh. Nếu các ngân hàng mới gia nhập thị trường thì mức độ cạnh tranh
sẽ càng lúc càng gia tăng. Tuy nhiên rào cản gia nhập mới của ngành cũng đang bắt đầu ra
tăng, chủ yếu gồm yêu cầu vốn tối thiểu (trên 3000 tỉ đồng), các quy định thành lập ngân
hàng mới và kiểm soát thành lập từ phía chính phủ. Yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu sẽ hạn
chế sự hình thành các ngân hàng quy mô nhỏ, một loại hình khá phát triển khi mà thị
trường mới hình thành. Các quy định thành lập hiện nay cũng đang được hoàn thiện theo
chiều hướng chặt chẽ nghiêm ngặt hơn
Theo cam kết WTO thì lộ trình mở cửa ngành ngân hàng là 7 năm. Và tất yếu là ngành
ngân hàng sẽ có sự thay đổi cơ bản khi mà các tổ chức tài chính nước ngoài có thể nắm giữ
cổ phần của các ngân hàng Việt Nam hay sự xuất hiện của các ngân hàng 100% vốn nước
ngoài. Với những lợi thế như cơ sở hạ tầng dịch vụ hơn hẳn, dịch vụ khách hàng chuyên
nghiệp, công nghệ tốt hơn, có mạng lưới rộng khắp toàn cầu và có nhiều lựa chọn hơn do
được làm từ đầu các ngân hàng này sẽ tạo ra một áp lực lớn đến với các ngân hàng trong
Lớp: L1005SMGM0111
7
Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
nước. Trong khi đó theo đánh giá thì các ngân hàng Việt Nam chưa tạo được điểm khác
biệt về chiến lược sản phẩm, dịch vụ. Như vậy sự thâm nhập của các ngân hàng mới trong
tương lai có thể gây ảnh hưởng lớn tới bản thân các ngân hàng hiện tại nếu không có một
chính sách phù hợp.
Còn theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định chung về hợp tác thương mại dịch vụ
(AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN, Việt Nam phải gỡ bỏ hoàn toàn các quy định về
khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân hàng nước ngoài
từ năm 2008.
Khi nhìn vào con số các ngân hàng nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt Nam và
các ngân hàng nước ngoài có vốn cổ phần trong các ngân hàng thương mại nội địa, số ngân
hàng 100% vốn nước ngoài nhất định sẽ còn tăng lên trong tương lai.
Các ngân hàng nước ngoài là vậy, rào cản cho sự xuất hiện của cá ngân hàng có nguồn gốc
nội địa đang được nâng cao lên sau khi Chính phủ tạm ngừng cấp phép thành lập ngân hàng

mới từ tháng 8 – 2008. Ngoài các quy định về vốn điều lệ, quãng thời gian phải liên tục có
lãi, các ngân hàng mới thành lập còn bị giám sát chặt bởi Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên
điều đó sẽ không thể ngăn cản những doanh nghiệp, có đủ điều kiện, tham gia vào ngành
ngân hàng một khi Chính phủ cho phép thành lập ngân hàng trở lại.
Rào cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc thị trường, thị trường mục tiêu mà
các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến, giá trị thương hiệu cũng như cơ sở khách hàng, lòng
trung thành của khách hàng mà các ngân hàng đã xây dựng được. Những điều này đặc biệt
quan trọng bởi vì nó sẽ quyết định khả năng tồn tại của một ngân hàng đang muốn gia nhập
vào thị trường Việt Nam.
Nhìn vào ngành ngân hàng Việt Nam cũng như thế giới đang bị bao trùm bởi khủng
hoảng kinh tế, rào cản gia nhập khá cao khiến cho nguy cơ xuất hiện ngân hàng mới trong
tương lai gần là khá thấp. Nhưng một khi kinh tế thế giưới hồi phục cộng với sự mở cửa
của ngành ngân hàng theo cam kết với WTO và các tổ chức khác, sự xuất hiện của các ngân
hàng mới là một điều gần như chắc chẵn.
Đe dọa từ các sản phẩm thay thế
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn có khá nhiều
sự lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các hình thức bảo hiểm, đàu tư
vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất. Đó là chưa kể các hình
thức không hợp pháp như “chơi hụi”. Không phải lúc nào lãi suất ngân hàng cũng hấp dẫn
người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời điểm này, giá vàng đang sốt, tăng giảm đột biến trong
ngày, trong khi đo la Mỹ ở thị trường tự do cũng biến động thì lãi suất tiết kiệm của đa số
các ngân hàng chỉ ở mức 7–8 % một năm.
Lớp: L1005SMGM0111
8
Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
Việc đầu tư chứng khoán, mang lại lơi nhuận rất cao cho người đầu tư trong thời gian
ngắn, nhưng khả năng sinh lợi thu được cũng đi đôi với tỷ lệ rủi ro mà nhà đầu tư chấp
nhận. Tuy nhiên, nó luôn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư, với tỷ lệ thanh khoản cao.
Thêm vào đó, hiện nay thị trường bất động sản cũng là nơi thu hút đông đảo các nhà đầu tư
dài hạn. Kênh đầu tư bất động sản vẫn luôn đem lại nguồn lợi nhuận cao, và đầu tư an toàn

nếu nhà đầu tư khôn ngoan trong quyết định đầu tư của mình.
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không cao lắm do đối
tượng khách hàng này cần sự rõ ràng các chứng từ, hoá đơn trong các gói sản phẩm và dịch
vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà xảy ra trong quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ thì đối
tượng khách hang này thường chuyển sang ngân hàng khác vì những lý do trên thay vì tìm
tới các dịch vụ ngoài ngân hàng.
Đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt tại nhà hoặc nếu
có tài khoản thì khi có tiền lại rút hết ra để sử dụng. Các cơ quan chính phủ và doanh
nghiệp trả lương qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc đẩy các phương thức thanh toán
không dùng tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài chính cho mỗi người dân. Nhưng các địa
điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng, khu mua sắm sang trọng,
những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm.
Quyền lực của các nhà cung cấp.
Nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là những khách hàng đầu
tư cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty chịu trách nhiệm về hệ thống hoặc bảo
trì máy ATM. Hiện tại ở Việt Nam, các ngân hàng thường tự đầu tư trang thiết bị và chọn
cho mình những nhà cung cấp riêng tuỳ theo điều kiện. Điều này góp phần giảm quyền lực
của nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể cung cấp cho cả một thị trường lớn mà phải
cạnh tranh với các nhà cung cấp khác. Tuy nhiên khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào
đầu tư hệ thống, ngân hàng sẽ không muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn kém, điều này
lại làm tăng quyền lực của nhà cung cấp thiết bị đã trúng thầu.
Việc sống còn của các ngân hàng dựa trên đồng vốn huy động được của khách hàng.
Nếu không còn thu hút được dòng vốn của khách hàng thì ngân hàng tất nhiên sẽ bị đào
thảỉ. Trong khi đó nguy cơ thay thế của ngân hàng ở Việt Nam, đối với khách hàng tiêu
dùng là khá cao. Với chi phí chuyển đổi thấp, khách hàng gần như không mất mát gì nếu
muốn chuyển nguồn vốn của mình ra khỏi ngân hàng và đầu tư ở một nơi khác.
.
Quyền lực của khách hàng.
Lớp: L1005SMGM0111
9

Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
Sự kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực của khách hàng có lẽ là việc các
ngân hàng quyết định thu phí sử dụng ATM trong khi người tiêu dùng không đồng thuận.
Trong vụ việc này, ngân hàng và khách hàng ai cũng có lý lẽ của mình nhưng rõ ràng nó đã
ảnh hưởng không ít đến mức độ hài lòng và lòng tin của khách hàng. Nhưng ta có thể thấy
được quyền lực thương lượng của khách hàng trong đó tương đối thấp, quyết định của ngân
hàng chịu ảnh hưởng rất ít.
Quyền lực của các khách hàng trong ngành ngân hàng: Khách hàng là những cá nhân
có quyền lực thương lượng tương đối thấp. Còn khách hàng là các tổ chức, các quỹ tương
đối lớn, ảnh hưởng mạnh đến doanh thu của ngân hàng, dĩ nhiên họ nắm trong tay quyền
lực thương lượng tương đối cao với ngân hàng đã đầu tư.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện tại trong ngành
Theo thống kê hiện nay, Việt nam có 5 ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng
chính sách, ngân hàng phát triển; 6 ngân hàng liên doanh; 39ngân hàng thương mại cổ
phần;5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài.. Dân số nước ta hiện nay ước khoảng 86 triệu
người, GDP khoảng 65 tỷ USD
So sánh với một số nước trên thế giới :hiện Thái Lan có 65 triệu dân với 30 ngân hàng,
trong đó có 17 ngân hàng nước ngoài; Malaysia có 24 triệu dân với 32 ngân hàng, gồm 14
ngân hàng nước ngoài; Indonesia có 215 triệu dân với 160 ngân hàng, gồm 29 ngân hàng
ngoại. Đây là những quốc gia có trình độ phát triển tương đồng với Việt nam. Còn ở những
nước phát triển phương Tây, ở Pháp có 897 ngân hàng với 60 triệu dân; Italia với 58 triệu
dân và 787 ngân hàng; Bồ Đào Nha khoảng 10 triệu dân và 197 ngân hàng. Đây là những
nước phát triển, số lượng các ngân hàng vẫn có đất sống trong khuôn khổ hạn hẹp.
Như vậy, có một sự tương đồng nhất định giữa số lượng các ngân hàng Việt nam so với các
nước trong khu vực. Còn với các nước phát triển, số lượng các ngân hàng tại đây vượt trội.
Mặc dù vậy, sự so sánh này chỉ mang tính tương đối vì mỗi một quốc gia có một lịch sử
phát triển khác nhau, có thói quen tiêu dùng khác nhau, khả năng tiếp cận và sử dụng
những công nghệ mới khác nhau, nhưng quan trọng nhất là tốc độ phát triển kinh tế và nhu
cầu vốn cho tăng trưởng cũng rất khác nhau.
Với dân số khoảng 86 triệu người hiện nay (nước đông dân thứ 13 trên thế giới) và

tốc độ phát triển kinh tế hàng năm bình quân khoảng 7% (thuộc hàng cao nhất châu Á).
Mặc dù, qui mô GDP còn nhỏ, đa số người dân sống ở vùng nông thôn, mức sống còn
thấp… nhưng tiềm năng cho ngành ngân hàng Việt nam là vô cùng to lớn và chưa được
khai thác hết.
Ngoài ra để đánh giá áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng hiện hữu, thì ta cần xem xét
nhiều yếu tố trong đó gồm: quy mô giữa các ngân hàng, xem xét các ngân hàng có quy mô
tương đối ngang nhau hay không; vấn đề tăng trưởng của nền kinh tế, nền kinh tế tăng
trưởng thấp gây áp lực cạnh tranh giành giật thị phần..v.v…
Lớp: L1005SMGM0111
10
Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
Sau gần 20 năm hoạt động, số lượng và quy mô các ngân hàng thương mại đã tăng lên đáng
kể, mạng lưới chi nhánh các ngân hàng rộng khắp đất nước. Cuộc chậy đua giành thị phần
huy động và thị phần tín dụng diễn ra bao năm nay với ưu thế vẫn thuộc về khối ngân hàng
TMQD. Tuy nhiên, xét về hiệu quả hoạt động, các ngân hàng TMQD chưa thể bì kịp các
đối thủ NH TMCP. Cuối năm 2008, ROE trung bình các NH TMCP ở khoảng 20%, ROA
2% trong khi các NH TMQD có ROA thường dưới 1% và ROE 8 – 15 %. (Nguồn: theo
MHBS).
Về thị phần tiền gửi và cho vay
Từ việc xem xét thị phần tiền gửi, cho vay cũng như quy mô tổng tài sản, vốn điều lệ, ta
thấy số lượng các ngân hàng là khá lớn song có sự chênh lệch rõ ràng về quy mô giữa các
ngân hàng, có thể nhận định một điều rằng: áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng hiện hữu
là ổn định, song có xu hướng gia tăng giữa khối NH TMQD và Nh TMCP. Các ngân hàng
TMCP với khả năng tạo ra tỷ suất sinh lợi cao hơn sẽ ngày càng chiếm lĩnh thị phần hoạt
động của ngành ngân hàng.
Mặt khác, áp lực cạnh tranh trên thị trường tài hính tăng lên khi các ngân hàng con 100%
vốn nước ngoài đã và đang đẩy mạnh chiến lược phát triển tại Việt Nam. Việc thu hút
nguồn tiền nhàn rỗi vào ngân hàng là không dẽ dàng, chi phí huy động vốn nhiều khả năng
sẽ gia tăng. Các yều tố này sẽ gây áp lực cho những ngân hàng đặt chỉ tiêu lợi nhuận cao.
Các ngân hàng VIệt Nam có ưu thế về số lượng trên thị trường, mạng lưới chi nhánh và

phòng giao dịch nằm rải rác khắp mọi miền đất nước. Đồng thời, các ngân hàng Việt Nam
hiểu rõ được các đặc tính về kinh doanh, sản xuất, tiêu dùng, thị hiếu, tâm lý,… của người
Việt Nam. Trong khi đó, ngân hàng 100% vốn nước ngoài mới chỉ được phép thành lập từ
tháng 04/2007, số lượng còn ít, mạng lưới chỉ tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà
Nội. Do đó các ngân hàng trong nước có thể tận dụng ưu thế này để nhanh chóng chiếm lấy
thị phần của mình trên khắp địa bàn đất nước trước khi thị trường bão hoà.Song, các ngân
Lớp: L1005SMGM0111
11
Môn : Quản trị chiến lược Nhóm 06
hàng nước ngoài lại có tiềm lực tài chính mạnh mẽ, kinh nghiệm lâu đời cùng cơ chế quản
trị tốt.
2.2.5Mô thức đánh giá tổng hợp các nhân tố bên ngoài( EFAS):
B3.Mô thức EFAS
Các yếu tố bên ngoài Mức độ quan trọng
của các yếu tố
Xếp loại Số điểm quan
trọng
Cơ hội
Tiềm năng của thị trường lớn 0.15 4 0.6
An ninh chính trị và nền kinh tế Việt
Nam tăng trưởng ổn định
0.1 4 0.4
Pháp luật, chủ chương và định hướng
nhà nước về ngành ngân hàng
0.1 4 0.4
Hệ thống hợp tác quốc tế mở ra cơ hội
cho ngành ngân hàng hiện đại hóa hệ
thống
0.1 3 0.3
Thực hiện hiệp định thương mại Việt-

Mỹ, các cam kết WTO sẽ tác động rất
lớn đến thị phần của ngân hàng
0.1 3 0.3
Khoa học công nghệ thông tin có tốc độ
phát triển nhanh chóng
0.1 3 0.3
Thách thức
Cạnh tranh mạnh mẽ của các ngân hàng 0.1 3 0.3
Thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh
toán phổ biến
0.08 2 0.16
Phát triển nhanh và mạnh mẽ của các
thị trường
0.1 3 0.3
Tỷ lệ tiết kiệm thấp 0.07 3 0.21
Tổng cộng 1 3.27
=> Qua bảng đánh giá các yếu tố môi trường, tổng số điểm qua trọng bằng 3.27 cho thấy
các chiến lược của ACB tận dụng khá hiệu quả các cơ hội hiện có như tiềm năng thị
trường, an ninh ổn định chính trị, nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định và hạn chế khá
tốt các ảnh hưởng tiêu cực của các mối đe dọa bên ngoài.Tuy nhiên, nền kinh tế tiền mặt
vẫn là thách thức lớn cho ACB nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung.
2.3 Phân tích môi trường bên trong:
2.3.1 Sản phẩm chủ yếu :
Danh mục sản phẩm của ACB rất đa dạng: Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu VND và ngoại tệ;
Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VND và ngoại tệ; Phát hành thẻ tín dụng, thẻ ATM;
Chuyển tiền trong và ngoài nước; Thanh toán xuất nhập khẩu….
Lớp: L1005SMGM0111
12

×