Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

trình bày những vấn đề chung nhất về lãi suất và chính sách lãi suất đồng thời phân tích chính sách lãi suất việt nam thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.11 KB, 29 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
ãi suất không chỉ là một phạm trù kinh tế mang tính chất tổng hợp,
đa dạng và phức tạp mà đây còn là một trong những công của chính
sách tiền tệ, rất nhạy cảm và có ảnh hởng mạnh mẽ tới sự phát triển và ổn
định kinh tế của một quốc gia. Lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc
đẩy sản xuất và lu thông hàng hoá phát triển và ngợc lại.
L
Sau hơn mời năm đổi mới, chính sách lãi suất của Việt Nam đã góp
phần thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia đồng thời đ-
ợc đổi mới mạnh mẽ, thận trọng và từng bớc phù hợp với từng giai đoạn.
Tuy nhiên, vẫn còn có những tồn tại, hạn chế trong chính sách lãi suất.
Thực tiễn khách quan đòi hỏi phải có một sự đổi mới sâu rộng trong
việc sử dụng công cụ lãi suất cho phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện
thực hiện của thị trờng tiền tệ trong nớc. Vì thế, xây dựng một chính sách
lãi suất hiệu quả trên cơ sở phù hợp với tiến trình hội nhập của đất nớc vừa
đảm bảo sự định hớng của Nhà nớc đang là bài toán đặt ra cho các nhà
hoạch định chính sách. Do đó có thể thấy, nghiên cứu về chính sách lãi suất
và định hớng đổi mới và hoàn thiện lãi suất có ý nghĩa thực tiễn cao.
Trong khuôn khổ một đề án, em xin trình bày những vấn đề chung
nhất về lãi suất và chính sách lãi suất đồng thời phân tích chính sách lãi suất
Việt Nam thời gian qua ,nhận rõ xu thế phát triển của chính sách lãi suất, từ
đó đa ra đề xuất góp phần hoàn thiện chính sách lãi suất.
Do còn hạn chế về trình độ cũng nh về kiến thức thực tế nên đề án
của em còn nhiều sai sót. Em rất mong sẽ nhận đợc sự chỉ bảo, góp ý của
các thày cô giáo, đặc biệt là thày giáo Đàm Viết Huệ để bài viết này hoàn
chỉnh hơn.
Phần i
Lý luận chung về
1
lãi suất và chính sách lãi suất


1. Lãi suất trong cơ chế thị trờng.
1.1. Lãi suất và một số loại lãi suất.
1.1.1. Khái niệm.
Trong nền kinh tế thị trờng, lãi suất là một trong những biến số kinh tế
vĩ mô đợc quan tâm và theo dõi chặt chẽ. Trong kinh doanh, hiện tợng thừa
thiếu vốn tạm thời thờng xuyên xảy ra đối với các chủ thể kinh tế. Với t
cách trung gian tài chính, hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng ra đời
thu hút mọi khoản tiền nhàn rỗi, cung ứng cho nền kinh tế dới nhiều hình
thức, đẩy mạnh quá trình vận động, luân chuyển của đồng tiền, góp phần
điều hoà và phân bổ hợp lý nguồn vốn trong nền kinh tế.
Khi nghiên cứu về t bản, Mác đã kết luận: lãi suất cũng là phần giá
trị thặng d đợc tạo ra do kết quả bóc lột lao động làm thuê và bị bọn t bản
- chủ ngân hàng chiếm đoạt. Vì thế, lãi suất là giá cả của một số tiền vay.
Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ của Keynes lại cho
rằng: lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thởng cho "sở
thích chi tiêu t bản ". Lãi suất do đó còn đợc gọi là công trả cho sự chia li
với của cải tiền tệ.
Còn Samuelson, đại diện cho trờng phái trọng tiền đứng trên giác độ
chi phí, coi lãi suất là chi phí cơ hội của việc giữ tiền.
Cho dù lãi suất đợc hiểu theo khái niệm nào thì về bản chất, lãi suất
là tỷ lệ % của phần tăng thêm so với phần vốn vay ban đầu, là giá cả của
quyền đợc sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà ngời sử dụng
trả cho ngời sở hữu nó.
1.1.2. Phânloại lãi suất
.
1.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng: có 3 loại.
- Lãi suất tín dụng ngắn hạn: áp dụng đối với các khoản tín dụng có
thời hạn dới 1 năm.
- Lãi suất tín dụng trung hạn: áp dụng với các khoản tín dụng có thời
hạn từ 1 năm tới 3 hoặc 5 năm, tuỳ theo quy định của từng nớc.

2
- Lãi suất tín dụng dài hạn: áp dụng với các khoản tín dụng dài hạn,
thời hạn trên 5 năm.
1.1.2.2. Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất.
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền
tệ tại thời điểm nghiên cứu.
- Lãi suất thực: là lãi suất đã đợc điều chỉnh theo những biến đổi của
lạm phát.
i
r
= i
n
-
e

Vì đợc điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi vì lạm phát nên lãi
suất thực phản ánh một cách chính xác chi phí của quan hệ tín dụng.
1.1.2.3. Căn cứ vào sự ổn định của lãi suất.
- Lãi suất cố định: là lãi suất đợc áp dụng cố định trong suốt thời hạn
vay.
- Lãi suất thả nổi là lãi suất có thể thay đổi lên xuống, có thể báo trớc
hoặc không báo trớc.
1.1.2.4. Căn cứ vào phơng pháp tính.
- Lãi suất đơn: là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suốt kỳ
hạn vay.
I = n *i *Co
Trong đó : I: Số tiền lãi.
n : số thời kỳ gửi vốn.
i : lãi suất
Co: vốn gốc

Hình thức lãi suất này thờng áp dụng cho các khoản tín dụng ngắn
hạn và việc trả nợ đợc thực hiện một lần khi đến hạn.
- Lãi suất kép : là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu t lại của lợi tức
thu đợc trong khoảng thời gian sử dụng tiền vay
C = Co (1 + i )
n

Trong đó : C: Số tiền thu đợc theo lãi gộp sau n kỳ
Co: Số vốn gốc
i: Lãi suất
3
n: Số thời kỳ gửi vốn
- Lãi suất hoàn vốn: là lãi suất cân bằng giá trị hiện tại của tiền thu
nhập nhận đợc trong tơng lai theo một công cụ nợ với giá trị hôm này của
công cụ đó.
1.1.2.5. Căn cứ vào loại hình tín dụng : Lãi suất đợc chia làm 4 loại.
- Lãi suất tín dụng thơng mại: áp dụng trong quan hệ mua bán chịu
giữa các doanh nghiệp
L
stdtm
= 100%
Giá của hàng hoá bán chịu giá cả hàng hoá bán trả
ngay
____________________________________________________________________________
Giá cả hàng hoá bán chịu
- Lãi suất tín dụng ngân hàng : áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng
với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay trong
hoạt động tái cấp vốn của NHTW đối với các NHTM và trong quan hệ giữa
các ngân hàng với nhau trên thị trờng liên ngân hàng.
Trong khái niệm lãi suất tín dụng ngân hàng ngời ta phân biệt:

+ Lãi suất tiền gửi
+ Lãi suất chiết khấu
+ Lãi suất tái chiết khấu
+ Lãi suất liên ngân hàng
+ Lãi suất cơ bản
-Lãi suất tín dụng nhà nớc: áp dụng khi Nhà nớc đi vay của các chủ
thể khác nhau trong xã hội dới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái
phiếu. Loại lãi suất này có thể do Nhà nớc ấn định căn cứ vào lãi suất tiền
gửi tiết kiệm ngân hàng, và các yếu tố khác nh sự biến động của lạm phát,
nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nớc hoặc đợc hình thành thông qua hoạt
động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Nhà nớc.
-Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho ngời tiêu
dùng vay phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng này
thờng cao hơn lãi suất tín dụng ngân hàng và lãi suất tín dụng Nhà nớc.
1.2. Vai trò của lãi suất trong cơ chế thị trờng.
4
Lãi suất có vai trò và ảnh hởng to lớn tới sự phát triển và ổn định kinh
tế của một quốc gia. Lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản
xuất và lu thông hàng hoá phát triển và ngợc lại. Vì thế, việc hoạch định
chính sách lãi suất phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định, đảm bảo lãi
suất thoả mãn các yêu cầu mà nền kinh tế đặt ra.
Trong nền kinh tế thị trờng, ngời đi vay cũng nh ngời cho vay có thể
là các doanh nghiệp, các cá nhân, hộ gia đình, chính phủ hoặc ngời nớc
ngoài. Đối với ngời đi vay, lãi suất tạo nên chi phí, làm giảm lợi nhuận của
ngời vay. Còn với ngời cho vay, lãi suất chính là thu nhập của họ. Vì thế lãi
suất đóng vai trò to lớn trong các quyết định của các chủ thể kinh tế. Thông
qua những quyết định của các chủ thể kinh tế, lãi suất ảnh hởng đến sự phát
triển cũng nh cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
Trớc hết, lãi suất là công cụ đợc sử dụng nhằm phân phối hiệu quả và
hợp lý các nguồn lực trong nền kinh tế. Bởi lãi suất chính là phần thu nhập

cho những khoản tiền tiết kiệm hoặc cho vay để đáp ứng vốn cho nền kinh
tế. Khi đầu t vào một ngành hoặc một dự án nào đó, chúng ta đều phải quan
tâm đến lợi tức thu đợc so với chi phí ban đầu , làm sao để thu đợc lợi
nhuận . Có thể nói lãi suất là tín hiệu, là căn cứ cho sự phân bố hiệu quả các
nguồn lực khan hiếm trong xã hội. Thông qua lãi suất, các doanh nghiệp và
các cá nhân, các tác nhân trong nền kinh tế có thể đa ra những phơng án
đầu t tối u nhất.
ở góc độ vĩ mô, lãi suất trở thành công cụ điều tiết nền kinh tế. Lãi
suất thị trờng do quan hệ cung cầu trên thị trờng tiền tệ ấn định. Đến lợt nó,
lãi suất tác động trở lại đối với hành vi tiêu dùng, đầu t, từ đó tác động lên
tổng cầu.
Khi cung tiền tệ tăng lên, lãi suất cân bằng trong vĩ mô giảm xuống,
giá trái phiếu tăng lên do giá trị hiện tại của thu nhập tơng lai có giá trị hơn
gây ra hiệu ứng của cải và làm dịch chuyển hàm tiêu dùng lên trên. Tiêu
dùng sẽ tăng ở mỗi mức thu nhập. Tín dụng tiêu dùng tăng lên do khả năng
tín dụng và khả năng trả nợ vay tín dụng tăng lên.
Đầu t, kể cả đầu t bản và vốn cố định vốn luân chuyển hàng tồn kho
đều có mối liên hệ mật thiết tới lãi suất. Khi giá của t liệu sản xuất cho một
5
dự án tăng, nghĩa là lợi nhuận dự tính giảm xuống, đầu t giảm xuống và ng-
ợc lại.
Nh vậy có thể nói một sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động tới các yếu
tố của tổng cầu, thông qua đó động tổng cầu và các biến số kinh tế vĩ mô
quan trọng khác. Trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế lãi suất có
xu hớng tăng do cung cầu quỹ cho vay tăng. Ngợc lại, giai đoạn suy thoái,
lãi suất có xu hớng giảm xuống.
Rõ ràng chính sách lãi suất phù hợp là cần thiết cho sự phát triển lành
mạnh của nền kinh tế.
2. Nguyên tắc hình thành lãi suất.
2.1. Nguyên tắc bảo toàn vốn.

Lãi suất đợc coi là giá cả của quyền sử dụng vốn trong một thời
hạn nhất định mà ngời sử dụng trả cho ngời sở hữu nó. Nếu nh lãi suất đối
với ngời đi vay là một khoản chi phí thì lãi suất tạo nên thu nhập đối với ng-
ời cho vay. Tuy nhiên, trong nền kinh tế, ngời vay. Lợi ích thực tế mà ngời
cho vay đợc hởng là lãi suất thực. Nghiên cứu và tìm hiểu về lãi suất, nhà
Kinh tế học I.Fisher đã chỉ ra đợc mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát.
l
n
= i
r
+
e

Trong đó: l
n
: lãi suất thực tế
i
n
: lãi suất danh nghĩa

e
: lạm phát dự tính
Vì thế bảo toàn vốn là nguyên tắc đầu tiên khi hình thành lãi suất
nhằm bảo đảm quyền lợi của ngời cho vay. Có nghĩa lãi suất danh nghĩa
phải ít nhất bằng tỷ lệ lạm phát dự tính(i
n

e
). Sự bảo đảm này cho phép
ngời cho vay có thể bù đắp đợc sự biến động rủi ro về giá mà lạm phát gây

ra, bảo toàn vốn kinh doanh cho vay.
2.2. Nguyên tắc bảo đảm tỷ lệ khuyến khích về thu nhập hợp lý cho
ngời gửi tiền và các tổ chức tín dụng.
Khi đem tiền cho vay, ngời cho vay không chỉ kỳ vọng khoản vốn của
mình đợc bảo toàn mà còn phải sinh lời. Phần thực tế mà ngời cho vay đợc
6
hởng này là lãi suất thực. Nguyên tắc này đòi hỏi i
r
> 0. Điều này chính là
lãi suất danh nghĩa mà ngời cho vay nhận đợc phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát.
Việc đảm bảo có lãi là hợp lý vì nó phù hợp lợi ích ngời gửi tiền. Đối với
ngời gửi tiền lãi suất thực là thu nhập, là sự trả công cho họ cho sự tạm xa
rời của cải của họ. Đối với các tổ chức tín dụng cho vay, lãi suất thực này
đảm bảo lợi tích cho ngời gửi tiền, trang trải các chi phí nghiệp vụ, bù đắp
những rủi ro trong hoạt động tín dụng thơng mại và lợi nhuận ngân hàng.
Do đó:Lạm phát < lãi suất tiền gửi < lãi suất cho vay.
2.3. Lãi suất phải đảm bảo mục tiêu tăng trởng kinh tế.
Nguyên tắc này hình thành trên cơ sở coi lãi suất là đòn bẩykinh tế. Điều
kiện của nguyên tắc này là : tỷ lệ lạm phát < lãi suất tiền gửi < lãi suất cho
vay < tỷ suất lợi nhuân bình quân của nền kinh tế
Điều kiện lãi suất cho vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân chỉ ra lãi
suất cho vay của ngân hàng phải nhỏ hơn mức lợi nhuận bình quân của các
ngành sản xuất vật chất trong nền kinh tế. Có nh vậy mới bảo đảm các tổ
chức kinh tế sau khi thu đợc lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh, ngoài việc
trả nợ ngân hàng sẽ còn lại một khoản lợi nhuận đảm bảo cho tái mở rộng
sản xuất.
Ngoài ra, lãi suất có thời hạn vay mợn càng dài thì càng cao do có
mức độ rủi ro cao hơn.
Đây là những nguyên tắc cơ bản để xác định mức lãi suất hợp lý. vai
3. Một số quan điểm hình thành chính sách lãi suất.

3.1. Quan điểm của trờng phải cổ điển.
Có nhiều quan điểm khác về chính sách lãi suất. Trờng phái cổ điển
với các đại biểu là NW Senior, Bond, Baweck, Masshall cho rằng lãi suất là
yếu tố tự động bình quân theo quy luật cung cầu vốn - tiền tệ trên thị trờng
thông qua cơ chế điều chỉnh của NHTW và hệ thống NHTM .
Trên cơ sở này, mức cầu tiền tệ trong nền kinh tế trong các thời kỳ
khác nhau sẽ đợc thoả mãn một cách tự nhiên. Khi nền kinh tế tăng trởng
cao, dự trữ của NHTM đã đợc huy động hết cho đầu t trong khi nền kinh tế
vẫn còn cầu về tín dụng cao, NHTW sẽ cung cấp tiền cho hệ thống NHTM
một lợng tiền cung ứng cần thiết cho nền kinh tế theo sự vận hành của quy
luật tối đa hoá lợi nhuận. Các chủ thể kinh tế thoát khỏi tình trạng kẹt vốn
7
cho đầu t. Sự gia tăng của mức cần tiền đợc nguồn tiền tự nhiên đáp ứng sẽ
không gây sức ép đối với lãi suất tín dụng vì ngân hàng sẽ không phải quá
hao tổn sức lự c cho việc huy động tiền gửi cho đầu t trung và dài hạn.
Hạn chế của lý thuyết cổ điển là đã coi lãi suất nh là nhân tố tạo ra sự
cân bằng giữa nhu cầu đầu t và tiết kiệm, là giá cả đơn thuần của đầu t và
coi nhẹ vai trò điều tiết của Nhà nớc.
Lý thuyết lãi suất có xu hớng bình quân tự nhiên của trờng phái tự do
cổ điển có ảnh hởng tới nhiều nớc phơng Tây vào thế kỷ 19.
3.2. Quan điểm của trờng phái Keynes.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 M.Keynes đã phê
phán quan điểm của trờng phái lãi suất tự động bình quân và chủ trơng
Nhà nớc phải tham gia điều tiết lãi suất và tăng chi tiêu chính phủ khi cần
thiết vào các chơng trình mà nền kinh tế t nhân không thể đảm nhận để kích
thích sự tăng trởng một cách liên tục.
Trờng phái này cho rằng, hạ lãi suất tín dụng luôn là đòn bẩy cho sự
phát triển. Keynes lập luận : thay vì gia tăng huy động vốn bằng biện pháp
thu hút ký thác, NHTW có thể làm gia tăng khối lợng tiền tệ để cung ứng
cho đầu t trong những thời kỳ mà mức cầu tiền tệ tăng cao bằng cách phát

hành thêm giấy bạc hoặc giảm dự trữ bắt buộc đối với NHTM. Tổng khối l-
ợng tiền tệ gia tăng sẽ làm giảm sức ép của mức cầu tiền tệ cho đầu t và làm
giảm lãi suất tín dụng. Lãi suất hạ làm hiệu quả của t bản sẽ đợc nâng cao
kích thích các doanh nghiệp, mở rộng đầu t (trung và dài hạn) tạo sức bật
cho tăng trởng kinh tế.
T tởng của Keynes ảnh hởng tới nền kinh tế Châu Âu và Bắc Mỹ cho
đến thập niên 80. Những năm 80 đến đầu những năm 90 là thời kỳ thoái bộ
của học thuyết hạ lãi suất của Keynes. Lợng cung tiền tệ d thừa đã dẫn tới
tình trạng lạm phát giá cả. Lúc đó lãi suất thấp không còn ý nghĩa trong huy
động tiết kiệm và kích thích đầu t. T tởng này đã quá đề cao vai trò của Nhà
nớc mà coi nhẹ tính thị trờng của lãi suất khiến cho lãi suất cha thật sự linh
hoạt.
3.3. Quan điểm trờng phái chính hiện đại.
8
Những năm 60-70 của thế kỷ 20, hình thành nên kinh tế học truờng
phái chính hiện đại và giữ vai trò thống trị ở Mỹ và Tây Âu đến nay. Đại
diện tiêu biểu cho trờng phái này là Samuelson.
Trong nền kinh tế hỗn hợp, một mức lãi suất tín dụng thực (sau khi đã
trừ đi tỉ lệ lạm phát) thấp là đầu mốc của quá trình tăng trởng kinh tế, kích
thích đầu t, vai trò đòn bẩy kinh tế của lãi suất đợc đề cao. Tuy nhiên Nhà
nớc phải kiểm tra lợng cung tiền tệ thông qua ấn định dự trữ và phát hành
để tạo thành một hỗ trợ vững chắc cho chính sách lãi suất thấp có hiệu quả.
4. Vấn đề tự do hoá lãi suất.
4.1. Tự do hoá lãi suất là gì?
Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính. ở
đây, lãi suất đợc tự do biến động, phản ứng theo các lực lợng cung cầu
vốn trên thị trờng, mức tiết kiệm thu nhập, chi tiêu cá nhân và những nhân
tố khác, loại bỏ những áp đặt hành chính lên sự hình thành lãi suất, cho
phép các ngân hàng tự chủ trong ấn định các mức lãi suất của mình.
Khi đó NHTW tác động vào lãi suất chủ yếu dựa trên các công cụ

kiểm soát tiền tệ gián tiếp ảnh hởng nh nghiệp vụ thị trờng mở, tái chiết
khấu, hợp đồng mua lại và một phần dựa vào áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
4.2. Tính tất yếu của tự do hoá lãi suất.
. Tự do hoá tài chính mà hạt nhân là tự do hoá lãi suất đang ngày
càng tỏ rõ những u điểm của nó.
Trớc hết, khi lãi suất đợc tự do hoá theo cung cầu về vốn, nó làm cho nguồn
vốn trong nền kinh tế đợc phân bố hợp lý và hiệu quả. Tự do hoá lãi suất
đem lại khả năng phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm cho hàng ngàn
ngời vay cạnh tranh nhau, đáp ứng đúng thị hiếu của họ, đồng thời đảm bảo
thu hút tiền gửi của hàng triệu ngời gửi với chi phí hợp lý, phù hợp với mục
tiêu của cả ngân hàng và khách hàng gửi tiền. Điều này sẽ không thể có đợc
trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát trực tiếp. Bởi cũng giống nh nhiều hình
thức kiểm soát kinh tế khác trong hệ thống XHCN, kiểm soát lãi suất không
có lợi cho cạnh tranh. Các tổ chức tín dụng kém hiệu quả có thể đợc bảo vệ
từ sức ép tự do cạnh tranh. Mặc khác, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức
là khó khăn lớn gắn với kiểm soát lãi suất. Cả hai loại rủi ro này đều có xu
hớng nâng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng. Lựa chọn đối nghịch chỉ ra
9
khả năng kiểm soát lãi suất sẽ hấp dẫn nhiều doanh nghiệp chấp nhận rủi
ro; nhiều doanh nghiệp lành mạnh sẽ bị loại ra khỏi thị trờng tín dụng do
không sẵn sàng trả mức lãi suất cao nh các doanh nghiệp đang khó khăn rủi
ro đạo đức phát sinh khi cơ chế kiểm tra giám sát yếu các hoạt động cho
vay của ngân hàng, trong trờng hợp ngời vay ngận đợc sự bảo trợ ngầm từ
Chính phủ. Do đó, lãi suất tự do sẽ kích thích cho tăng trởng tài chính, cải
tiến và thay đổi cơ cấu mà Chính Phủ hoặc không thể quản lý hoặc chậm
thu kết quả.
Mặt khác, một vấn đề đặt ra là hiện nay các doanh nghiệp đòi hỏi hạ
lãi suất trong khi ngân hàng muốn duy trì lãi suất hiện tại.Tự do hoá lãi suất
sẽ làm lãi suất sẽ biến động linh hoạt theo sự phản ứng của thị trờng tạo ra
sự cạnh tranh lành mạnh. Giảm thiểu những tranh luận xã hội trong giới tài

chính khi xem xét tính hợp lý hay bất hợp lý của lãi suất áp đặt đồng thời
buộc NHTW thay đổi t duy làm việc chuyển sang sử dụng các công cụ điều
hành gián tiếp.
Hơn nữa, trong xu thế phát triển chung Toàn cầu hoá và Quốc tế hoá
của nhân loại, Việt Nam không thể đặt mình ngoài cuộc. Trong quá trình
này hội nhập và phát triển kinh tế mà điển hình là toàn cầu hoá tài chính,
chiếm vai trò chủ đạo. Sự phát triển vợt bậc của khoa học, công nghệ hiện
đại, sự nỗ lực hết mình của các quốc gia trẻ trong cạnh tranh và thu hút vốn
tăng làm cho luồng vốn quốc tế vận động mạnh mẽ linh hoạt từ nớc này qua
nớc khác tự do hơn. Điều này cho phép nhiều quốc gia trẻ có thể tận dụng
đợc nguồn vốn quốc tế, trình độ tiên tiến của các nớc đi trớc cho quá trình
phát triển kinh tế xã hội của mình. Đây là cơ hội lớn cho mỗi quốc gia
nhng đồng thời tự do hoá tài chính đem lại nhiều vấn đề đáng quan tâm
khác nh : khả năng xói mòn và suy giảm hiệu quả của việc thực thi Chính
sách tiền tệ thông qua các công cụ điều hành trực tiếp.Vì thế sử dụng các
công cụ tiền tệ gián tiếp đã và đang đợc Chính phủ các nớc sử dụng nh là
công cụ định hớng thị trờng và tiến tới tự do hoá tài chính.
Bên cạnh đó, tự do hoá cho phép hệ thống ngân hàng tự chủ hơn, dẫn
tới lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay đổi do tự do hoá tài
chính tác động tới các doanh nghiệp và hộ gia đình khiến họ thay đổi hành
vi tiết kiệm và đầu t của mình theo hớng có lợi cho tăng trởng kinh tế. Tăng
10
lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, thay thế cho nguồn vốn
vay nớc ngoài tài trợ cho đầu t. Nguồn tiết kiệm nội địa này đợc truyền tải
thông qua hệ thống Tài chính Ngân hàng chính thức. Tiết kiệm trong nớc
tăng lên và mức lãi suất cao hơn dẫn tới mở rộng đầu t và tăng hiệu quả đầu
t.
Nh vậy, tự do hoá không chỉ là vấn đề mang tính thời đại mà còn là
tất yếu. Tự do hoá lãi suất là cần thiết cho bất cứ quốc gia nào mong muốn
phát triển nền kinh tế của nớc mình một cách lành mạnh.

4.3. Các loại hình tự do hoá lãi suất.
Trong cơ chế tự do hoá lãi suất, nếu Nhà nớc hoàn toàn không can
thiệp đến hệ thống lãi suất thị trờng thì đó là cơ chế lãi suất tự do hoá hoàn
toàn( thả nổi hoàn toàn).
Nếu Nhà nớc có tham gia can thiệp gián tiếp theo một định hớng xác
định thì đó đợc coi là cơ chế tự do hoá có sự điều tiết.
4.4. Kinh nghiệm một số nớc đi trớc và một số tác động tiêu cực
của Tự do hoá lãi suất.
Từ thập niên 70, xu hớng chung của thế giới là bãi bỏ lãi suất ấn định
có tính chất hành chính để chuyển sang lãi suất thả nổi. Nhiều nớc phát
triển và đang phát triển đã từng bớc thực hiện các bớc để Tự do hoá lãi suất
hệ thống tài chính.
Thực thế cho thấy kiểm soát lãi suất đã làm giảm vai trò trung gian
tài chính, hình thành và phát triển nhanh các thị trờng tài chính phi chính
thức và các tổ chức phi ngân hàng làm cho các nguồn taì chính không đợc
chuyển tải tới các hoạt động có hiệu quả nhất. Tự do hoá tài chính, đặc biệt
là tự do hoá lãi suất là bớc đi quan trọng góp phần huy động nguồn lực
thông qua hệ thống tài chính chính thức, nâng cao hiệu quả của hệ thống tài
chính, góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế. Quá trình này chịu tác động
bởi nhiều yếu tố, phụ thuộc vào điểm xuất phát và hoàn cảnh quốc tế của
mỗi nớc trong từng giai đoạn.
Xem xét quá trình này ở Malaysia, từ 1981 nớc này đã cho phép các
ngân hàng thơng mại tự xác định mức lãi suất cơ bản của mình dựa trên cơ
sở chi phí thực tế. Nhng ngay sau đó NHTW Malaysia đã nhận thấy trong
điều kiện thị trờng tiền tệ cha thực sự phát triển quyết định trên có thể dẫn
tới khả năng cạnh tranh quá mức giữa các ngân hàng, đe doạ sự an toàn của
hệ thống ngân hàng thơng mại. Năm 1987, Malaysia đã chuyển sang điều
11
hành lãi suất theo hớng vừa đảm bảo sự phối hợp chỉ đạo của NHTW, vừa
đảm bảo quyền tự chủ trong một khuôn khổ nhất định cho các ngân hàng

thơng mại. Nhờ đó lãi suất đợc quản lý theo sự biến động linh hoạt của thị
trờng, vừa đảm bảo an toàn cho sự hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Nhật Bản, bên cạnh lãi suất có tính chất định hớng là lãi suất chiết
khấu, NHTW Nhật đã áp dụng một số lãi suất có sự điều tiết đợc xây dựng
trên cơ sở lãi suất chiết khấu và lãi suất cơ bản trở thành sàn lãi suất cho
vay nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống. Ngoài ra, một số loại lãi suất khác
nh lãi suất thị trờng liên ngân hàng, lãi suất thị trờng mở đợc xác định tự do
tuỳ thuộc cung cầu về vốn trên thị trờng.
Một số nớc khác nh Anh, Mỹ lãi suất đợc điều hành theo cơ chế tự do
hoá hoàn toàn. Lãi suất công bố hoàn toàn dựa trên cung cầu về vốn trên thị
trờng tiền tệ, đặc biệt là chú trọng lãi suất chào hàng trên thị trờng tiền tệ
liên ngân hàng nh LIBOR, SIBOR, PIBOR Những nớc này, thị trờng tài
chính tiền tệ rất phát triển. Một sự biến động nào trên thị trờng tài chính
tiền tệ cũng có thể đa NHTW can thiệp với đầy đủ các công cụ và chế tài
sắc bén
Bên cạnh những khả năng tích cực do tự do hoá lãi suất mang lại, một
số quốc gia bên con đờng tự do hoá tài chính gặp phải một số nguy cơ.
Chẳng hạn nh ở Argentina, Chi Lê, Urugoay lãi suất thực đã tăng lên ở mức
rất cao. Sự tăng lên này không những không khuyến khích đầu t, làm giảm
tốc độ tăng trởng kinh tế mà còn dẫn tới sự phá sản hàng loạt doanh nghiệp,
khủng hoảng hệ thống tài chính và bất ổn vĩ mô. Trong điều kiện thị trờng
tài chính còn kém phát triển, tự do hoá lãi suất có thể khuyến khích NHTM,
đặc biệt là các NHTM CP chấp nhận những khoản cho vay có rủi ro cao.
Đồng thời loại bỏ kiểm soát đối với cán cân vốn trong bối cảnh kinh tế bất
ổn làm cho lãi suất tăng lên và gây ra khả năng phá giá đồng bản tệ, từ đó
làm các luồng vốn quốc tế đổ vào nhiều làm tăng áp lực lạm phát, giảm
hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Tóm lại, những tác động bên trong và bên ngoài đòi hỏi tự do hoá lãi
suất phải thận trọng. Tự do hoá lãi suất phải đợc tiến hành từng bớc, gắn
liền với đổi mới toàn bộ nền kinh tế và tự do trong các lĩnh vực khác, đồng

thời củng cố hành lang pháp lý, nâng cao trình độ quản lý nền kinh tế.
12
Phần II.
thực trạng Về lãi suất ở Việt Nam
1. Thực trạng thị trờng vốn tiền tệ.
Việt Nam với số dân gần 80 triệu hứa hẹn một tiềm lực vốn lớn. Tuy
nhiên, mặc dù tiềm lực vốn trong dân có nhiều nhng vốn huy động cho phát
triển kinh tế- xã hội của Việt Nam, đặc biệt là vốn cho đầu t trung và dài
hạn còn là một vấn đề lớn.
Theo báo cáo của tổng cục thống kê và Bộ kế hoạch và đầu t, tỷ lệ
ngời gửi tiền ở nớc ta năm 1998 chiếm 17% dân số. Vẫn còn bộ phận lớn
vốn còn nằm lại trong dân c tồn tại dới các hình thức phi kinh tế dới dạng
vàng, ngoại tệ dự trữ: 44%, đất đai và nhà ở: 20%. Chỉ có khoảng 19% tổng
nguồn vốn trong dân c đợc đầu t và mang tính tự phát kinh tế hộ gia đình.
Điều này cho thấy sức hút của các NHTM và các TCTD cha đủ mạnh.
Những năm gần đây, yêu cầu của quá trình CNH HĐH đòi hỏi
một nguồn vốn lớn. Xuất phát từ nhu cầu đó, Nhà nớc đã mở rộng các hình
thức huy động vốn trong dân c thông qua hàng loạt các hình thức tiết kiệm
ngắn hạn và dài hạn với lãi suất tơng đối phù hợp với sự biến động của thị
trờng cùng với sự tăng cờng hoạt động của các thị trờng tiền tệ. Nhờ đó tốc
độ dù mức độ huy động vốn thông qua hoạt động của hệ thống NH &
TCTD có tăng lên. Tuy nhiên nhìn chung, vốn vẫn còn ứ đọng trong dân c
với số lợng lớn dới hình thức phi kinh tế.
Thị trờng tài chính tiền tệ còn thật sự cha phát triển. Thị trờng liên
ngân hàng ra đời từ 1993 nhng hoạt động một cách yếu ớt và thiếu hiệu quả.
Đặc biệt kể từ 1996 đến nay, tình trạng sử dụng vốn tín dụng lẫn nhau giữa
các TCTD hầu nh không đáng kể. Mặt khác, các giao dịch phần lớn mang
tính một chiều và hình thành nên hai nhóm khách hàng chủ yếu: các ngân
hàng cho vay là các NHTMQD và các ngân hàng đi vay là các ngân hàng n-
ớc ngoài và các NHTMCP. Kèm theo đó lãi suất cũng chỉ đợc công bố một

chiều nên thị trờng thiếu tính chuyên nghiệp. Kinh doanh vốn ở một số
NHTM cha mang tính thị trờng, độ nhạy của lãi suất đối với thị trờng tiền tệ
liên ngân hàng còn rất thấp. Thị trờng mở và thị trờng chứng khoán mới chỉ
đi vào hoạt động đợc hơn một năm. Nhìn chung trên thị trờng mở, các
13
TCTD vẫn cha tham gia thờng xuyên vào các phiên giao dịch mà chủ yếu là
các NHTMQD do có nhiều lợi thế hơn nhờ vay đợc với giá rẻ so với các
NHTMCP. Hàng hoá trên thị trờng mở vẫn còn cha phong phú, chỉ dừng lại
tập trung ở tín phiếu NHTW và tín phiếu KBNN. Giao dịch trên thị trờng
chứng khoán mặc đã có những biểu hiện sôi động hơn kể từ phiên giao dịch
đầu tiên song nhìn chung khối lợng giao dịch vẫn nhỏ.
Một vấn đề không thể bỏ qua khi nhắc tới đặc điểm thị trờng tài chính
Việt Nam chính là tính không đồng nhất. Lãi suất có sự phân biệt khá rõ
xuất phát từ tình trạng nhu cầu tín dụng khác nhau giữa các vùng khác
nhau.
Những đặc điểm trên đây có vai trò khá quan trọng đối với NHNN
trong quá trình thực hiện vai trò quản lý vĩ mô, thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia, trong đó có chính sách lãi suất.
2. Chính sách lãi suất ở Việt Nam.
2.1. Chính sách lãi suất Việt Nam từ sau đổi mới đến nửa đầu
năm 2000.
Việt Nam hiện nay đang trên con đờng thị trờng hoá và hớng ngoại nền
kinh tế. Tốc độ và sự thành công trong các chính sách kinh tế phục vụ tăng
trởng phụ thuộc quan trọng vào sự điều tiết và cân đối vĩ mô của chính phủ.
Để điều tiết và định hớng nền kinh tế, Nhà nớc không thể không nắm lâý
công cụ lãi suất và kiểm soát lợng cung tiền tệ. Những chính sách khác
nhau đợc đa ra vào những thời điểm khác nhau đã có những tác động to lớn
tới nền kinh tế.
Chính sách lãi suất của Nhà nớc ta mời năm qua đã đợc đổi mới
mạnh mẽ, thận trọng và từng bớc phù hợp với từng giai đoạn. Đánh giá lại

quá trình đổi mới chính sách lãi suất thời gian qua là để giúp chúng ta hình
dung rõ nét những thành công và hạn chế, từ đó rút ra đợc những kinh
nghiệm cho một chính sách lãi suất mới thích hợp hơn trong tơng lai.
Có thể nói, trớc 1986, nớc ta thực sự cha tồn tại một chính sách lãi
suất theo đúng nghĩa. Một biểu lãi suất đ ợc quy định rất chi tiết theo quyết
định 85/QĐ-NH(10.1982) đợc cố định trong nhiều năm là kết quả của việc
áp dụng gần nh nguyên mẫu mô hình cũ của Liên Xô. Thậm chí, có nhiều
14
loại cho vay với mức lãi suất giống hệt Liên Xô. Điều này dờng nh hết sức
vô lý song lại rất logic trong điều kiện kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ.
Giai đoạn 1986-1989, chính sách lãi suất có những bớc đột phá đầu
tiên với quyết định 125/QĐ- NH trên cơ sở sửa đổi và thay thế một số mức
lãi suất đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong t tởng chỉ đạo điều hành chính
sách lãi suất của Việt Nam. Lãi suất đợc công nhận nh là một công cụ điều
tiết vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, nguyên tắc hình thành lãi suất
bị vi phạm nghiêm trọng, đẩy lãi suất thời kỳ này luôn trong trạng thái âm.
Biểu lãi suất đợc quy định quá chi tiết, tỷ mỉ, gây khó khăn phức tạp cho
việc thực hiện. Thực tế, chính sách lãi suất trong giai đoạn này ở tình trạng
chung là: cả ngời gửi tiền, ngân hàng và doanh nghiệp đều lỗ. Những khoản
lỗ này đợc Nhà nớc bù đắp cho ngành Ngân hàng và các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh bằng hai hình thức : phát hành tiền và vay nợ nớc ngoài
càng làm cho tình trạng khó khăn hơn.
Từ tháng 10.1986 đến tháng 7.1987, mặc dù NHTW đã ba lần điều
chỉnh lãi suất nhng chính sách lãi suất vẫn cha thực sự là một công cụ hữu
hiệu của chính sách tiền tệ.
Tháng 3.1989, quyết định số 39/HĐBT đã công nhận những nguyên
tắc hình thành lãi suất, chủ động chuyển lãi suất âm qua lãi suất dơng. Để
thu hút tiền thừa trong lu thông, kiềm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi
suất ngân hàng, NHTW đã nâng lãi suất huy động lên mức rất cao trong
một thời gian ngắn( lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn là 9%/ tháng,kỳ 3 tháng

là 12%/ tháng).
Từ 1992 trở đi, lãi suất thực sự bớc sang giai đoạn mới. Quyết định
ngày 1.6.1992 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc ban hành đã đảm bảo cho
lãi suất thực tế dơng, lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất tiền gửi. Có
thể nói, việc chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dơng có tác dụng quan
trọng, xoá bỏ tình trạng bao cấp tín dụng trớc đây, tạo điều kiện cho các
ngân hàng thơng mại thực sự chuyển sang kinh doanh có hiệu quả, có chiến
lợc huy động vốn mạnh mẽ với phơng châm ngân hàng đi vay để cho
vay , đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân c và các
tổ chức kinh tế.
15
Năm 1994, NHNN chủ trơng hạ lãi suất nhng không thực hiện đợc.
Giai đoạn này, NHNN vừa áp dụng lãi suất trần ( cho vay) vừa áp dụng lãi
suất thoả thuận.
Trần lãi suất cho vay đối doanh nghiệp nhà nớc là 1,8%/ tháng, đối
với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 2,1%/ tháng. Trờng hợp ngân
hàng không huy động đủ vốn cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành
kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì đợc áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất
huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/ tháng và cho
vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, có khoảng 30% đến 60% tổng d nợ lúc bấy giờ từ các
khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận, mà phần lớn là cho vay đối với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân với lãi suất phổ biến là
2,3% đến 3,5% / tháng. Với cơ chế này, lãi suất đã đợc tự do hoá một phần.
Tuy nhiên, lãi suất thoả thuận này có mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay
và lãi suất huy động từ 0,1% đến 0,7 % tạo cho các ngân hàng thơng mại
lợi nhuận khá cao. Nguồn vốn của các ngân hàng thơng mại tuy có tăng nh-
ng chủ yếu là tăng vốn ngắn hạn làm cho một số ngân hàng thơng mại
quốc doanh thừa vốn ngắn hạn trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn của
nền kinh tế còn thiếu nghiêm trọng. Đặc biệt, việc giảm lãi suất cho vay

ngắn hạn xuống 1,25% / tháng và khống chế chênh lệch tối đa (0,35%)
khiến nhiều ngân hàng thơng mại, đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp,
doanh nghiệp và nông dân còn gặp nhiều khó khăn.
Từ thực tế này, quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28.12.1995 đã chấm
dứt việc định ra các mức lãi suất cụ thể để, tạo điều kiện cho các ngân hàng
chủ động, linh hoạt hơn trong xác định lãi suất.
Năm 1996, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất ba lần và hai lần sau
đó vào 1998.
16
(Đơn vị : % / tháng)
Quyết định
điều chỉnh
Thời điểm Trần lãi suất cho
vay ngắn hạn
Trần lãi suất cho
vay trung và dài hạn
191/QĐ-NH1 15/07/1996 1.6 1,65
255/QĐ-NH1 27/08/1996 1,50 1,55
266/QĐ-NH1 27/09/1996 1,25 1,35
197/QĐ-NH1 28/06/1997 1,00 1,25
39/QĐ-NH1 17/01/1998 1,20 1,25
Lãi suất cho vay năm 1996 đã đợc điều chỉnh theo hớng giảm mạnh
đã giúp cho các doanh nghiệp giảm đợc chi phí và giá thành trong việc vay
vốn cho sản xuất kinh doanh, đồng thời mạnh dạn hơn trong thực hiện các
dự án cho vay, đầu t phát triển và đổi mới công nghệ.
Tuy nhiên, trớc khi NHNN chính thức công bố lãi suất trần, các ngân
hàng thơng mại đã tiến hành điều chỉnh hạ thấp lãi suất cho vay để tăng c-
ờng thu hút khách hàng. Hiện tợng này diễn ra âm thầm, tự phát nhng
không kém phần quyết liệt và tập trung ở các thành phố, đô thị lớn, nơi hệ
thống ngân hàng phát triển mạnh. Điều này đã dẫn tới tình trạng lãi suất ở

khu vực nông thôn, nơi cần nhiều sự giúp đỡ, lại cao hơn. Đây chính là một
trong những bất cập đòi hỏi chính sách lãi suất cần phải đợc xem xét.
Năm 1997, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất theo hớng giảm dần và
đạt mức thấp nhất vào tháng 7.1997 với mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn
là 1%/ tháng nhằm tiếp tục khuyến khích sản xuất. Tuy nhiên, các ngân
hàng lúc này lại không tán thành mức lãi suất này vì trong điều kiện khủng
hoảng tiền tệ cần phải nâng lãi suất tiền gửi lên cao hơn các nớc công
nghiệp phát triển để chống lại làn sóng rút tiền gửi để mua ngoại tệ
mạnh(USD). Đồng thời, nhằm phòng ngừa khủng hoảng trong toàn bộ hệ
thống ngân hàng, các ngân hàng trong nớc đã phải giữ nguyên lãi suất.
Thậm chí, đã có lúc lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và lãi suất cho vay chỉ chênh
lệch nhau từ 0,05%/ tháng tới 0,1%/ tháng gây ra tình trạng lỗ về tín dụng.
Năm 1998, hệ thống ngân hàng thực sự phải đối mặt với những hệ
quả nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á. áp lực làm giảm
giá của đồng Việt Nam không chỉ biểu hiện ở những tác động hữu hình, nh
17
tình trạng xấu đi nhanh chóng của hoạt động đối ngoại, mà còn biểu hiện ở
tâm lý lo sợ về sự phá giá của đồng Việt Nam nối tiếp theo làn sóng phá
giá mạnh đang diễn ra đối với nhiều đồng tiền châu á tạo ra những bất ổn
trên thị trờng ngoại hối. Tỷ giá trên thị trờng liên ngân hàng luôn ở mức
trần trong khi thị trờng tự do luôn biến động cao hơn cả trần. Hơn nữa,
những tác động xấu của sự sụp đổ tập đoàn Epco- Minh Phụng đã tạo ra
một dòng rút tiền mạnh mẽ gây ra một sự rối loạn buộc các ngân hàng phải
nhanh chóng tìm các nguồn vay nóng. Kết quả là đã làm cho chi phí tăng
lên.
Vì thế, duy trì kiểm soát chính sách lãi suất là cần thiết trong điều
kiện khi mà NHNN vẫn cha có đủ các công cụ cần thiết và hữu hiệu để có
thể kịp thời điều chỉnh. Với việc thực hiện kiểm soát lãi suất, NHNN đã hạn
chế phần nào dòng dịch chuyển của nguồn tiền thông qua các hoạt động
tăng lãi suất tín dụng ngắn hạn cho vay bằng VNĐ từ 1%/ tháng lên 1,2%/

tháng, cho vay trung và dài hạn từ 1,1%/ tháng lên 1,25%/ tháng và nâng lãi
suất tái cấp vốn cho các TCTD từ 0,9%/ tháng lên 1,1%/ tháng(quyết định
40/1998/QĐ ngày 17.1.1998).
Mặc dù có một số u điểm nhất định song vẫn tồn tại những áp lực
làm giảm lãi suất cho vay nh nền kinh tế ít nhiều chịu ảnh hởng của cơn bão
tiền tệ nên tăng trởng chậm lại, khả năng cạnh tranh của hàng hoá kém, vốn
tự có của doanh nghiệp nhỏ, chênh lệch giữa trần lãi suất cho vay trung và
dài hạn với trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,05%/ tháng cha đủ bù đắp rủi
ro và kích thích các TCTD mở rộng cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên khả
năng giảm lãi suất cho vay này là không khả thi.
Từ 11.9.1998, quyết định số 309/1998/QĐ-NHNN1 điều chỉnh trần
lãi suất cho vay bằng đồng Đôla Mỹ giảm từ 8,5%/ năm xuống 7,5%/ năm
cho phù hợp với lãi suất SIBOR, LIBOR hiện hành đồng thời quy định lại
lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại các TCTD.
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện quản lý và điều hành chính sách
lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các
TCTD. Trần lãi suất năm 1999 đợc NHNN điều chỉnh liên tục cho phù hợp
với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu vốn tín dụng, góp phần thực hiện giải
pháp kích cầu đầu t của Chính Phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín
18
dụng. Đây đợc coi là năm lãi suất đợc điều chỉnh nhiều nhất và có xu hớng
giảm dần và tiếp tục kéo dài tới năm 2000.
(Đơn vị: %/ tháng)
Quyết định điều
chỉnh
Thời điểm Trần lãi suất cho
vay ngắn hạn
Trần lãi suất cho
vay trung, dài hạn
01/1999/CT-NH1 17.1.1999 1,2 1,25

184/1999/QĐ-NH1 29.5.1999 1,15 1,15
266/1999/QĐ-NH1 30.7.1999 1,05
05/1999/CT-NH1 9.1999 0,95 0,95
383/1999/QĐ-NH1 10.1999 0,85 0,85
Trong liên tục hai năm 1999-2000, lạm phát âm xuất hiện làm cho
trần lãi suất giảm liên tục. Thậm chí, có đợt NHNN còn quy định buộc các
NHTM giảm cả lãi suất d nợ cho vay khiến cho các NHTM chịu rủi ro lãi
suất. Chênh lệch lãi suất cho vay và huy động rất nhỏ. Mặt khác, do mức độ
điều chỉnh lãi suất của NHNN tơng đối lớn nên d nợ tín dụngkhông có động
cơ tăng mặc dù lãi suất đã giảm mạnh bởi khách hàng kỳ vọng ở khả năng
lãi suất tiếp tục giảm, ngay cả một số TCTD cũng đã tạm ngừng huy động
vốn có kỳ hạn(loại 6 tháng và 9 tháng) với lý do tơng tự đã tạo nên tình
trạng đóng băng vốn số lợng lớn. Nền kinh tế vẫn tiếp tục rơi vào trạng thái
trì trệ và hạ lãi suất lúc này là cần thiết. Để giải toả nguồn vốn ứ đọng này,
các NHTM có nguồn vốn d thừa đã tận dụng triệt để phơng châm thà cho
vay với lãi suất thấp tới mức 0,4%/ tháng còn hơn để vốn chết tại NHNN để
hởng lãi suất 0,1%/ tháng. Giữa các ngân hàng dần hình thành nên thế
cạnh tranh bằng lãi suất cho vay. Mặc dù lãi suất cho vay của các NHTM
giảm xuống từ 0,15 tới 0,2%/ tháng so với quy định của NHNN nhng tốc
độ tăng tín dụng tới tận nửa đầu năm 2000 vẫn cha thực sự có ý nghĩa.
Trong bốn tháng đầu năm 2000 vốn huy động tăng 12,3% trong khi d nợ tín
dụng chỉ tăng 5,8%. Tín dụng chỉ đợc đâỷ mạnh từ cuối quý 2 năm 2000
khi các ngân hàng tiếp tục hạ lãi suất cho vay và nhu cầu vốn của nền kinh
tế tăng lên. Mức huy động VNĐ cho kỳ hạn 12 tháng thời kỳ này là 0,5%/
tháng đối với các NHTMQD và từ 0,55 đến 0,57%/ tháng đối với các
19
NHTMCP. Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế đợc các NHTM
duy trì ở mức 0,1 đến 0,15%/ tháng.
Lúc này cơ chế trần lãi suất tín dụng tỏ ra không còn thích hợp với
môi trờng Việt Nam. Nền kinh tế vĩ mô biến động liên tục mặc dù đã có

những cải thiện đáng ghi nhận, song cha thực sự ổn định. NHNN nhiều lần
điều chỉnh trần lãi suất cho vay không hẳn xuất phát từ việc chủ động điều
hành chính sách lãi suất mà là chạy theo mặt bằng lãi suất chung của các
ngân hàng. Điều này chứng tỏ công cụ điều hành lãi suất của NHNN bằng
trần lãi suất đối với các TCTD không còn phát huy vai trò cơ sở điều chỉnh
lãi suất trên thị trờng nữa mà cần thiết phải có một cợ chế mới phù hợp hơn.
2.2 Chính sách lãi suất hiện nay.
2.2.1 Giải pháp tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của Nhà nớc đối với
Việt Nam hiện nay.
Tự do hoá lãi suất nh đã nói ở trên đợc xác định là bớc đi tất yếu của
Việt Nam trên con đờng hội nhập thế giới. Tuy nhiên, tự do hoá lãi suất đối
với Việt Nam thời điểm này cha phải là thích hợp. Giải pháp đối với Việt
Nam hiện nay chính là từng bớc thực hiện các bớc đi đầy đủ và cần thiết để
tiến tới tự do hoá lãi suất, trớc mắt thực hiện tự do hoá lãi suất có sự điều
tiết của Nhà nớc.
2.2.1.1 Thế nào là tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của Nhà nớc.
Tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của Nhà nớc là hình thức mà lãi suất
trên thị trờng đợc tự do biến động theo tơng quan cung cầu về vốn trên thị
trờng, NHNN tham gia vào cơ chế điều chỉnh lãi suất chỉ khi cần thiết nhằm
thực hiện những mục tiêu của chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián
tiếp là lãi suất tái chiết khấu.
ở đây, hành vi tái chiết khấu này có tác dụng cung ứng nguồn vốn
cho các ngân hàng thơng mại thông qua vai trò ngời cho vay cuối cùng của
NHTW. Lãi suất chiết khấu tác động và có ý nghĩa hớng dẫn lãi suất thị tr-
ờng thông qua cơ chế: Trong trờng hợp cần hạn chế khả năng mở rộng tín
dụng của hệ thống ngân hàng, NHTW có thể nâng lãi suất tái chiết khấu
buộc các ngân hàng thơng mại phải tăng dự trữ để tránh phải vay với lãi
suất cao khi xuất hiện sự thiếu hụt khả năng thanh toán. Đồng thời, để bù
đắp chi phí do việc phải tăng dự trữ , các NHTM tăng lãi suất cho vay và cứ
20

thế lãi suất thị trờng sẽ tăng lên. Trong trờng hợp ngợc lại, NHTW có thể
điều chỉnh lãi suất chiết khấu theo hớng giảm. Bên cạnh đó, NHTW có thể
công bố lãi suất hình thành trên cơ sở lãi suất tham khảo trên thị trờng liên
ngân hàng làm cơ sở cho các NHTM và các TCTD hoạch định lãi suất kinh
doanh.
2.2.1.2 Cơ sở cho tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của Nhà nớc ở Việt
Nam hiện nay.
Đi lên từ một nớc có xuất phát điểm thấp, thị trờng tài chính còn sơ
khai, Việt Nam còn có rất nhiều việc phải làm trên con đờng hội nhập và
phát triển.
Kinh nghiệm của các nớc đi trớc đã cho thấy, việc nới lỏng dần hoạt
động quản lý lãi suất có xu hớng làm lãi suất thực tăng khiến luồng vốn
quốc tế đổ vào ồ ạt. Sự lên giấ của đồng bản tệ cùng với gánh nặng lãi suất
tăng lên gây ra những khó khăn nhất định đối với doanh nghiệp và các ngân
hàng bởi chi phí vốn lớn trong khi tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh
tế không thể gia tăng cùng với tốc độ tăng lãi suất thực.
Chỉ trong những điều kiện nhất định, một nền kinh tế với cơ sở hạ
tầng hiện đại, một nền tài chính lành mạnh, nền kinh tế có khả năng cạnh
tranh cùng với môi trờng pháp lý đồng bộ và hoàn chỉnh thì mới có thể hạn
chế đợc những tác động trên khi tự do hoá lãi suất. Trớc mắt, Việt Nam cần
tiến hành tự do hoá lãi suất trong một khuôn khổ nhất định, có sự định hớng
của Nhà nớc. Điều này là hoàn toàn hợp lý.
Trớc hết, do đặc điểm thị trờng tài chính Việt Nam còn thiếu cân đối
và đồng bộ. Tình trạng thiếu thông tin cũng nh các sản phẩm hàng hóa của
thị trờng tài chính, đặc biệt ở khu vực nông thông và miền núi còn khá phổ
biến. Các loại thị trờng nh thị trờng tiền tệ liên ngân hàng, thị trờng mở mới
chỉ đợc hình thành vài năm trở lại đây hoạt động vẫn còn hết sức dè dặt và ít
nhiều mang tính hành chính.
Thứ hai, hệ thống ngân hàng thơng mại của Việt Nam còn nhiều bất
cập, biểu hiện ở quy mô hoạt động tín dụng còn bị hạn chế, trình độ quản lý

và đội ngũ cán bộ còn cha đáp ứng tốt yêu cầu khách quan cũng nh sự phát
triển và ứng dụng công nghệ mới trong ngân hàng.
21
Bên cạnh đó, các công cụ của chính sách tiền tệ của NHTW còn bị
hạn chế, nhiều công cụ mới chỉ ở thời kỳ đầu thử nghiệm. Việc xoá bỏ quản
lý trực tiếp bằng lãi suất đòi hỏi phải xây dựng và phát triển các công cụ
điều hành gián tiếp.
Ngoài ra, ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam còn cha thực sự vững
chắc. Một thời gian dài nền kinh tế rơi vào tình trạng thiểu phát, đầu t giảm
sút.
2.2.1.3 Tác động tích cực khi thực thi tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của
nhà nớc.
Chính sách lãi suất mới sẽ khiến cho các NHTM có thêm tính tự chủ
trong hoạt động của mình. Trên cơ sở tính toán và mục tiêu kinh doanh, mỗi
ngân hàng sẽ đẩy mạnh sử dụng u thế của lãi suất và các lợi thế vốn có
nhằm kiếm tìm thị trờng, thúc đẩy các hoạt động cho vay, thực hiện kinh
doanh có hiệu quả. Đồng thời, thông qua đó lợi ích của ngời gửi tiền và cho
vay đợc đề cao và đợc bảo vệ một cách tích cực hơn.
Khi đó, cùng với tác động của các công cụ gián tiếp của chính sách
tiền tệ, thị trờng, đặc biệt là thị truờng tài chính, trở nên có hiệu quả, phù
hợp với các quy luật khách quan.
2.2.2 Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản.
Chính thức kể từ ngày 5.8.2000, NHTW ấn định lãi suất cơ bản, lãi
suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu.
2.2.2.1 Nội dung chủ yếu
Theo luật NHNN Việt Nam, lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN
công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh(Điều 9). Theo đó, lãi suất cơ bản đợc hình thành trên cơ sở NHNN
tham khảo lãi suất của một nhóm các ngân hàng.
Đặc thù của lãi suất cơ bản là tính chất đợc điều hành và tác động

trực tiếp lên lãi suất thị trờng. Lãi suất cơ bản không tự hình thành trên thị
trờng tiền tệ, do NHNN công bố và có ý nghĩa bắt buộc các tổ chức tín
dụng chấp hành.
Quyết định 243/2000/QĐ-NHNN1 quy định:
22
Đối với lãi suất cho vay bằng VNĐ, NHNN bỏ quy định trần lãi suất
cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng, chuyển sang xác định
và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ phần trăm biên độ dao động trên cơ sở
tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thờng của các ngân hàng thơng
mại áp dụng đối với khách hàng có uy tín trong việc trả nợ, có rủi ro thấp.
Lãi suất cho vay và huy động của các tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ
bản.
Lãi suất tiền gửi tối đa = Lãi suất cơ bản+Tỷ lệ phần trăm
Lãi suất cơ bản công bố chính thức đầu tiên đối với VNĐ là
0,75%/tháng, biên độ dao động là 0,3%/ tháng đối với tín dụng ngắn hạn và
0,5%/ tháng đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn.
Mới đây, do những biến động trên thị trờng quốc tế và trong n-
ớc, lãi suất cơ bản của Việt Nam biến động theo chiều hớng giảm,
sau một thời gian dài ổn định ở mức 0,75%/ tháng. Trong hai tháng 8
và 9 năm nay, lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 0,65%/ tháng.
Tiếp tục đà giảm này, ngày 28.9.2001 lãi suất cơ bản đợc công bố
chính thức giảm xuống còn 0.6%/ tháng cho phù hợp với quan hệ
cung cầu tín dụng. Bên cạnh những nguyên nhân trong nớc còn có
nguyên nhân xuất phát từ việc NHTW Mỹ liên tục hạ lãi suất của
đồng Đôla làm cho mức lãi suất này xuống thấp kỉ lục khiến cho lãi
suất của VNĐ cũng chịu ảnh hởng
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, đồng Đôla Mỹ giai đoạn từ
5.2000 tới 5.2001, các NHTM sử dụng cơ chế lãi suất linh hoạt phù hợp với
thị trờng quốc tế nhng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nớc. Lãi suất cho vay
ngắn hạn đợc quy định không vợt quá lãi suất SIBOR kỳ hạn 3

tháng+1%/năm; cho vay trung và dài hạn không vợt quá lãi suất SIBOR
+2,5%/năm. Đối với các ngoại tệ khác, NHTW cho phép các NHTM tự xem
xét quyết định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trờng
quốc tế và cung cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ trong nớc.
Sau một thời gian thực hiện, mặc dù cơ chế điều hành lãi suất ngoại
tệ nói trên đã phần nào tạo đợc điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng
ấn định lãi suất huy động, tăng khả năng huy động và cho vay bằng ngoại tệ
nhng cơ chế này vẫn còn nhiều tồn tại. Thực tế là có chịu tác động của cung
23
cầu vốn trong nớc nhng lãi suất đồng Đôla Mỹ chỉ thực sự chịu sự chi phối
của NHTW Mỹ và thị trờng quốc tế. Do đó sự can thiệp của các quốc gia
vào lãi suất này thờng không có hiệu lực. Sau một loạt những điều chỉnh
của NHTW Mỹ kể từ đầu năm 2001( 9 lần ) làm cho lãi suất Đôla Mỹ trên
thị trờng giảm xuống thấp cha từng có đã chứng minh rõ điều này. Nhận
thức rõ vấn đề này, ngày 21.5.2001 NHNN đã ra thông báo 420 quy định
thay đổi cơ chế điều hành lãi suất ngoại tệ, theo đó cho phép các tổ chức tín
dụng ấn định lãi suất cho vay bằng Đôla Mỹ theo thoả thuận với khách
hàng trên cơ sở lãi suất thị trờng quốc tế và cung cầu ngoại tệ trong nớc.
2.2.2.2 Ưu điểm của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản.
Việc đa lãi suất cơ bản vào hoạt động là một bớc tiến mới trong quá
trình tự do hoá lãi suất ,thúc đẩy sự ổn định và tăng trởng kinh tế, làm tăng
tính cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD.
Với việc sử dụng lãi suất cơ bản, NHNN đã thật sự nới lỏng cơ chế
điều hành lãi suất, không gây ra những áp đặt lãi suất quá cứng nhắc nh tr-
ớc mà đã xem xét đến những tín hiệu thị trờng đồng thời không hề buông
lỏng vai trò quản lý của mình. Cơ chế lãi suất này cho phép tạo ra một sự
hài hoà giữa hai vấn đề thị trờng và sự quản lý của Nhà nớc, tạo ra đợc
hành lang phù hợp cho một môi trờng cạnh tranh lành mạnh. Nó cho phép
các tổ chức tín dụng phát huy tính tự chủ,năng động sáng tạo trong xác
định lãi suất kinh doanh cho mình dao động xung quanh lãi suất cơ bản

theo một biên độ dao động nhất định. Nó tạo điều kiện cho TCTD và
khách hàng gửi, vay vốn có thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định
hoặc lãi suất có điều chỉnh linh hoạt, có lợi cho các bên, khuyến khích
TCTD mở rộng huy động và cho vay vốn trung và dài hạn. Một số ngân
hàng không thể sử dụng u thế quy mô, tiềm lực tài chính, địa bàn hoạt
động để cạnh tranh quá mức cho phép. Con đờng cạnh tranh mang tính
chiến lợc lâu dài của các tổ chức tín dụng chỉ có thể là không ngừng nâng
cao chất lợng phục vụ và chuyên môn hóa nghiệp vụ, tối thiểu hoá chi phí,
nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong điều kiện kinh tế, thị trờng tiền tệ hiện nay, cơ chế lãi suất mới
không làm tăng mặt bằng lãi suất thị trờng,tạo điều kiện cho các TCTD huy
động vốn ở trong và ngoài nớc ở mức cao để đảm bảo vốn cho tăng trởng tín
dụng có chất lợng, đáp ứng yêu cầu của chủ trơng kích cầu, thúc đẩy tăng
trởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam.
24
Đồng thời làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất
ngoại tệ linh hoạt hơn, phản ánh chính xác hơn cung cầu về vốn, ngoại tệ;
tạo cơ sở cho NHNN khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trờng.
2.2.2.3 Những bất cập của điều hành lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản qua hơn một năm đi vào thực hiện cũng đã bộc lộ
những một số những điểm còn cha phù hợp.
Trớc hết, lãi suất cơ bản vẫn còn mang tính áp đặt hành chính. Bởi
một thực tế là cung cách điều hành lãi suất cơ bản hiện nay vẫn cha có sự
khác biệt là mấy so với cơ chế trần lãi suất trớc kia, thực chất mới chỉ là
thay đổi cách tính.
Mặt khác, lãi suất cơ bản hoạt động bớc đầu đã tạo ra sự không thống
nhất về lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn tạo nên một sự cạnh tranh
không bình thờng giữa các NHTM và cácTCTD trên cùng một địa bàn hoạt
động. Nói chung, lãi suất huy động của các NHTMCP thờng cao hơn các
NHTMQD. Một số NHTM lại sử dụng lãi suất nh là một công cụ cạnh

tranh giành lấy khách hàng, làm cho các NHTMCP, vốn nhỏ bé hơn về tiềm
lực tài chính, rơi vào tình trạng khó khăn. Hơn nữa, biên độ dao động quá
rộng không có lợi cho ngời vay vốn, nhất là ở các địa bàn ít có môi trờng
cạnh tranh.
Trên đây là một số bất cập mà NHNN cần xem xét để có kế hoạch
khắc phục, từ đó có thể đa ra những biện pháp hữu hiệu đẩy nhanh quá trình
tiến tới thực hiện một phần và hoàn toàn tự do hoá lãi suất ở Việt Nam.

25

×