Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

tăng cường công tác quản lý nợ xấu tại nhno& ptnt việtnam – chi nhánh quận cẩm lệ, đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.51 KB, 60 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI 2
1.1 Những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng của NHTM 2
1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng 2
Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi
nhánh Quận Cẩm Lê, Đà Nẵng 53
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu 54
LỜI MỞ ĐẦU
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, phản ánh
hoạt động đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang
lại thu nhập lớn nhất song cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số NHTMCP đã coi chính sách
mở rộng tín dụng là một giải pháp để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Nhưng
không thể đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, tìm cách
lách rào kiểm soát, thông tin sai lệch… mà vẫn phải thực hiện đúng quy trình tín dụng
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 1/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
để giảm tỷ lệ nợ xấu, tránh tổn thất cho ngân hàng. Nhất là trong bối cảnh khủng
hoảng nền kinh tế toàn cầu, mà khởi nguồn là cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ, thì
những tác động của nó lên nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập càng sâu và rộng với
nền kinh tế thế giới nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng là không hề
nhỏ. Những khoản cho vay không thu hồi được cả gốc và lãi đúng thời hạn càng lớn,
tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, đã có
lúc đe dọa tới tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Do vậy, quản lý nợ xấu, hạn
chế nợ xấu phát sinh và xử lý nợ xấu đã phát sinh là một yêu cầu cấp thiết, có vai trò
quan trọng trong toàn bộ hoạt động quản lý của ngân hàng.
Trong một thời gian thực tập ngắn tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh tại


Quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng, được tìm hiểu về hoạt động của Sở, nhất là hoạt động tín
dụng, em đã chọn đề tài: “Tăng cường công tác quản lý nợ xấu tại NHNo&PTNT
Việt Nam – Chi nhánh quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại NHNo&PTNT – Chi nhánh quận
Cẩm Lệ, Đà Nẵng
Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại NHNo&PTNT – Chi
nhánh tại quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng
Em xin cảm ơn TS. Đoàn Gia Dũng và các anh chị phòng Nghiệp vụ kinh
doanh – Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam tại quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng đã giúp đỡ
em hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ XẤU CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Quan hệ tín dụng ra đời và tồn tại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá
trình hoàn vốn để giải quyết hiện tượng dư thừa, thiếu hụt vốn diễn ra thường xuyên
giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
Một cách khác, tín dụng (credit) là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá
trị (tài sản) từ người sở hữu sang người sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định;
khi đến hạn, người sử dụng phải hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 2/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Như vậy, phạm trù tín dụng có ba nội dung chính là: tính chuyển nhượng tạm thời một
giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.
Tín dụng có nhiều loại, như tín dụng nhà nước, tín dụng doanh nghiệp, tín
dụng cá nhân và tín dụng ngân hàng. Trong đó, tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển
nhượng tài sản (vốn) giữa ngân hàng với các chủ thể khác trong nền kinh tế; trong mối

quan hệ này, ngân hàng vừa giữ vai trò là người đi vay (con nợ) và vai trò là người cho
vay (chủ nợ). Đây là quan hệ tín dụng gián tiếp mà người tiết kiệm, thông qua vai trò
trung gian của ngân hàng, thực hiện đầu tư vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn
trong nền kinh tế.
Từ phân tích trên, ta đi đến khái niệm: Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng
thỏa thuận để khách hàng sử dụng một tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu (tái chiết khấu), cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Phân biệt tín dung và cho vay: Bất kỳ sự chuyển giao quyền sử dụng tạm thời
(có hoàn trả) về tài sản đều phản ánh quan hệ tín dụng; mối quan hệ tín dụng này lại
được thể hiện được thể hiện dưới các hình thức: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và cho
thuê tài chính. Như vậy, nội dung tín dụng là rộng hơn nội dung cho vay, tuy nhiên
trong hoạt động tín dụng, thì cho vay (tín dụng bằng tiền) là hoạt động quan trọng nhất
và chiếm tỷ trọng lớn nhất tại các NHTM. Chính vì vậy, thuật ngữ tín dụng và cho vay
thường được dung đan xen và thay thế cho nhau.
1.1.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
1.1.2.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Có 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng cso thời hạn đến 1 năm và được sử dụng
để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp, phục vụ nhu cầu tiêu
dùng cá nhân và hộ gia đình.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5
năm và sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới trang
thiết bị, mở rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ có thời hạn thu hồi vốn
nhanh. Tín dụng trung hạn còn là nguồn quan trọng hình thành nên vốn lưu động
thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp mới thành lập.
- Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, đáp ứng cho nhu
cầu đầu tư dài hạn như; xây dựng cơ bản (nhà xưởng, dây chuyền sản xuất…), xây
dựng cơ sở hạ tầng ( đường xá, cảng biển, sân bay…), cải tiến và mở rộng sản xuất có
quy mô lớn. Do thời hạn đầu tư thường kéo dài, nên tín dụng dài hạn thường áp dụng

hình thức giải ngân nhiều lần theo tiến độ dự án. Nhìn chung tín dụng dài hạn có rủi ro
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 3/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
rất lớn, bởi vì thời hạn càng dài, thì những biến động không thể dự tính có thể xảy ra
lớn hơn.
1.1.2.2. Căn cứ vào bảo đảm tín dụng:
Có 2 loại:
- Tín dụng có bảo đảm: là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có người
bảo lãnh thứ ba. Hình thức tín dụng này áp dụng đối với những khách hàng không đủ
uy tín, khi vay vốn phải có tài sản đảm bảo hoặc có bảo lãnh. Tài sản bảo đảm hoặc
bảo lãnh của người thứ ba là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu dự phòng
khi nguồn thu chính (dòng tiền) của con nợ thiếu hụt, tạo áp lực buộc con nợ phải trả
nợ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
- Tín dụng không có bảo đảm: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp
hay không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Loại tín dụng này áp dụng cho những
khách hàng mới, có hệ số tín nhiệm không cao.
1.1.2.3. Căn cứ vào mục đích sử dụng tín dụng:
Có 4 loại:
- Tín dụng bất động sản: đây là các tài khoản tín dụng đầu tư vào bất động
sản, bao gồm:
+ Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai.
+ Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cở sở dịch vụ, trang trại và
bất động sản ở nước ngoài.
- Tín dụng công thương nghiệp: đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh
nghiệp để trang trải các chi phí như mua hàng hóa, nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả
tiền lương.
- Tín dụng nông nghiệp: đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động
nông nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn
nuôi gia súc.

- Tín dụng tiêu dùng: đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân, hộ gia đình
để mua sắm hàng hóa tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà di động và trang thiết bị trong
nhà…
1.1.2.4. Căn cứ vào chủ thể vay vốn:
Có 4 loại:
- Tín dụng doanh nghiệp (tín dụng bán buôn): gọi là bán buôn vì những doanh
nghiệp thường vay với những khoản có giá trị lớn.
- Tín dụng cá nhân, hộ gia đình (tín dụng bán lẻ): gọi là bán lẻ vì những cá
nhân thường vay với những khoản vay có giá trị nhỏ nhằm vào mục đích tiêu dùng.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 4/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính: đây là các khoản tín dụng cấp cho các
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. Những
khoản đi vay này trở thành nguồn vốn của ngân hàng đi vay, nên chúng ta có thể dùng
để trả nợ hay cho vay lại.
1.1.2.5. Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay:
Có 3 loại:
- Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
vay định kỳ thành nhưng khoản bằng nhau. Loại tín dụng này áp dụng cho những
khoản vay lớn và có thời hạn dài.
- Tín dụng trả một lần: là loại tín dụng mà khách hàng chỉ hoàn trả vốn gốc và
lãi vay một lần khi đến hạn. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay nhỏ và
có thời hạn ngắn.
- Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại tín dụng mà khách hàng có thể hoàn
trả nợ vay bất cứ khi nào. Loại tín dụng này thường áp dụng cho những khoản vay
thấu chi, thẻ tín dụng.
1.1.2.6. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng:
Có 3 loại:
- Tín dụng bằng tiền: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tiền. Tín

dụng bằng tiền gọi là cho vay.
- Tín dụng bằng tài sản: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tài sản.
Hình thức tín dụng này chính là cho thuê tài chính.
- Tín dụng bằng uy tín: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng uy tín.
Hính thức tín dụng này chính là bão lãnh ngân hàng.
1.1.2.7. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng:
Có 2 loại:
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức tín dụng, trong đó ngân hàng cấp vốn trực
tiếp cho khách hàng có nhu cầu vay vốn, đồng thời khách hàng hoàn trả nợ vay trực
tiếp cho ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua trung gian như: tín
dụng ủy thác, tín dụng thông qua tổ chức đoàn thể.
1.1.2.8. Tín dụng khác.
Bao gồm các khoản tín dụng chưa được phân loại ở trên (ví dụ như tín dụng
kinh doanh chứng khoán).
1.1.3. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 5/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp tín
dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả
và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc, lãi) đúng thời hạn.
Thứ hai: Tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn. Ngân hàng là
trung gian tài chính “đi vay để cho vay”, nên mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều
phải có thời hạn, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động. Để xác định thời hạn
cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của mình và
quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Nếu ngân hàng có nguồn vốn dài hạn ổn
định, thì có thể cấp được nhiều tín dụng dài hạn; ngược lại, nếu nguồn vốn không ổn
định và kỳ hạn ngắn, mà cấp nhiều tín dụng dài hạn thì sẽ gặp rủi ro thanh khoản. Mặt
khác, thời hạn cho vay phải phù hợp với kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì

người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu ngân hàng xác định thời hạn vay nhỏ
hơn kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay, thì khách hàng không có đủ nguồn để trả
nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn
hơn kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay, thì khách hàng không có đủ nguồn để trả
nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn
hơn kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn không đúng mục
đích, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Thứ ba: Tín dụng phải trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Nếu không có sự
hoàn trả thì không được coi là tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho
vay (giá trị gốc), nghĩa là ngoài việc hoàn trả giá trị gốc, khách hàng phải trả cho ngân
hàng một khoản lãi, đây chính là giá của quyền sử dụng vốn vay. Khoản lãi phải luôn
luôn là một số dương, có như vậy mới bù đắp được chi phí hoạt động và tạo ra lợi
nhuận cho ngân hàng, phản ánh đúng bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ tư: Tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng. Việc thu hồi
tín dụng phụ thuộc không những vào bản thân khách hàng, mà còn phụ thuộc vào môi
trường hoạt động, ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như biến động về giá cả, tỷ giá,
lạm phát… Khi khách hàng gặp khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi, dẫn đến
khó khăn trong việc trả nợ, điều này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro tín dụng.
Thứ năm: Tín dụng phải trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Quá trình xin
vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như: Hợp đồng tín
dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo đảm tiền vay, bảo lãnh…, trong đó bên đi vay
phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn.
Từ các đặc điểm trên cho thấy, tín dụng ngân hàng phải bảo đảm được hai
nguyên tắc cơ bản sau:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 6/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
- Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã cam kết trong hợp
đồng.

1.1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng
- Đối với nền kinh tế:
Thứ nhất: Vai trò kinh tế cơ bản của tín dụng ngân hàng là luân chuyển vốn từ
những ngưới (cá nhân, hộ gia đinh, công ty và chính phủ) có nguồn vốn thặng dư (do
tiêu dung ít hơn thu nhập) đến những người thiếu hụt (do chi tiêu vượt quá thu nhập).
Nhu cầu vay vốn không chỉ để đầu tư kinh doanh mà còn để thỏa mãn nhu cầu tiêu
dùng trước mắt. Tại sao việc luân chuyển vốn từ người tiết kiện sang người sử dụng
vốn lại quan trọng với nền kinh tế? Câu trả lời là vì những người tiết kiệm thường
không đồng thời là những người có cơ hội đầu tư sinh lời cao. Như vậy, nếu không có
ngân hàng, thì việc luân chuyển vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế sẽ ách tắc.
Chính vì vậy, kênh luân chuyển vốn qua ngân hàng có ý ngĩa rất lớn trong việc thúc
đẩy tính hiệu quả của nền kinh tế.
Thứ hai: Tín dụng ngân hàng không giới hạn chỉ trong chức năng truyền thống
là luân chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu mà còn giúp phân bổ hiệu quả các nguồn
lực tài chính trong nền kinh tế. Thông qua tín dụng ngân hàng mà vốn từ những người
thiếu các dự án đầu tư hiệu quả được chuyển tới những người có các dự án đầu tư hiệu
quả hơn nhưng thiếu vốn. Kết quả là kinh tế tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và năng
suất lao động cao.
Thứ ba: Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những ngành, nghề, khu vực
kinh tế trọng điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề đó, hình thành nên cơ
cấu hiện đại hợp lý và hiệu quả.
Thứ tư: Tín dụng ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết thị
trường, kiểm soát giá trị đồng tiền và thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa
các nước.
Thứ năm: Tín dụng ngân hàng mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước
thông qua thuế thu nhập và lãi từ ủy thác đầu tư vốn của chính phủ.
Thứ sáu: Tín dụng ngân hàng là kênh truyền tải vốn tài trợ của nhà nước đến
nông nghiệp, nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị và xã hội.
- Đối với khách hàng:
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời về số lượng và chất lượng vốn

cho khách hàng. Với các ưu điểm như an toàn, thuận tiện, nhanh chóng, dễ tiếp cận và
có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, tín dụng ngân hàng thỏa mãn được nhu
cầu đa dạng của khách hàng.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 7/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Thứ hai: Tín dụng ngân hàng giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh
doanh, doan nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả năng tài chính
để trang trải cho các chỉ tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống…
Thứ ba: Tín dụng ngân hàng ràng buộc trách nhiệm khách hàng phải hoàn trả
vốn gốc và lãi trong thời hạn nhất định như thỏa thuận. Do đó, buộc khách hàng phải
nổ lực, tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng vốn vay hiệu quả, đẩy nhanh quá
trình tái sản xuất, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho
ngân hàng.
- Đối với ngân hàng
Thứ nhất: Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng tài sản có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng (từ 70 đến 90%).
Mặc dù tỷ trọng của hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân
hàng vẫn luôn là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng.
Thứ hai: Thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng đa dạng hóa được danh
mục tài sản có, giảm thiểu rủi ro.
Thứ ba: Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình
dịch vụ khác, như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn…
1.2. Những vấn đề cơ bản về nợ xấu:
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Theo định nghĩa của ngân hàng Trung ương Liên minh Châu Âu
Nợ xấu trong các NHTM gồm
- Những khoản nợ không thể thu hồi được :
+ Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ để đòi
bồi thường từ nợ.

+ Người mắc nợ bỏ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ.
+ Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc
không thể tìm được người mắc nợ.
+ Những khoản nợ mà khách nợ đã chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài
sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
- Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng
Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ
trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để trả và lãi hoặc gốc có thời hạn
thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi được đầy đủ
như:
+ Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng
phần còn lại không thể được đền bù cho khoản nợ, hoặc những khoản nợ trong đó tài
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 8/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
sản được chuyển để thanh toán nhưng giá trị còn lại không đủ trang trải toàn bộ khoản
nợ cho ngân hàng
+ Những khoản nợ mà người mắc nợ khó có thể trả nợ và yêu cầu được gia hạn nợ
nhưng không đền bù được trong thời gian thoả thuận
+ Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế chấp ở
Ngân hàng không được chấp thuận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ không có
khả năng trả nợ Ngân hàng đầy đủ
+ Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi
hoàn ít hơn dư nợ.
1.2.1.2. Theo định nghĩa của Phòng thống kê – Liên Hợp Quốc
Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê - Liên hợp quốc, “về cơ bản một
khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các
khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo
thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do
chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.

Như vậy, nợ xấu về cơ bản được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90
ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của Chuẩn mực kế
toán quốc tế (IAS) đang được áp dụng phổ biến hiện hành trên thế giới.
Một định nghĩa mới về nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)
và IAS 39 vừa được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế cho ra đời và được khuyến
cáo áp dụng ở một số nước phát triển vào đầu năm 2005. Về cơ bản IAS 39 chỉ chú
trọng đến khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày
hoặc chưa quá hạn. Phương pháp để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường
là phương pháp phân tích dòng tiền tương lai hoặc xếp hạng khoản vay (khách hàng).
Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết, nhưng việc áp dụng thực tế gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy, nó đang được Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế chỉnh sửa
lại.
Ví dụ ở Nhật Bản, theo báo cáo của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) tại
cùng thời điểm 2003 nếu áp dụng cách đánh giá nợ xấu theo định nghĩa về “Khoản
vay, tại Luật Tái cơ cấu tài chính” là 35,3 ngàn tỷ Yên, nhưng theo định nghĩa “Đánh
giá khoản vay” tương tự IAS 39 thì nợ xấu lên tới 90,1 ngàn tỷ Yên.
1.2.1.3. Theo định nghĩa của NHNN Việt Nam
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc
NHNN Việt Nam về việc ban hành “Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng”, Quyết
định số 18/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam ngày 25/04/2007 về
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 9/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng
dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban
hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005, việc xác định, phân
loại nợ xấu của các TCTD đã bước đầu theo sát với thông lệ quốc tế (phân loại căn cứ
vào thực trạng khách hàng chứ không chỉ căn cứ vào thời gian quá hạn của khoản cấp
tín dụng). Theo đó, các TCTD có thể thực hiện xác định, phân loại các khoản nợ dựa

trên phương pháp phân loại nợ định lượng hoặc định tính thành 05 nhóm nợ: nợ nhóm
1 (nợ đủ tiêu chuẩn), nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý), nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nợ
nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Tương ứng với mỗi
nhóm nợ, NHNN quy định tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với từng nhóm nợ như
sau: Nhóm 1 là 0%; Nhóm 2 là 5%; Nhóm 3 là 20%; Nhóm 4 là 50% và Nhóm 5 là
100%, riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, TCTD trích lập dự
phòng cụ thể theo khả năng tài chính của TCTD.
Đồng thời, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà
nước cũng quy định: “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới
tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”.
1.2.2. Phân loại nợ xấu:
Các tiêu chí để phân loại nợ xấu cụ thể như sau:
Trích Điều 6, Điều 7, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
* Phân loại nợ theo phương pháp định lượng:
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 ở trên; các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi
do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; các khoản nợ
khác được phân loại vào nhóm 3.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2;
các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4.
Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần
thứ 2 quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ cơ cấu
lại thời hạn trả nợ lần thứ 3 trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; các
khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5.
* Phân loại nợ theo phương pháp định tính:

SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 10/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Nhóm 3 - Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được TCTD
đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nhóm 4 - Nợ nghi ngờ bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá là khả năng
tổn thất cao.
Nhóm 5 - Nợ có khả năng mất vốn bao gồm các khoản nợ được TCTD đánh giá
là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Tóm lại, nợ xấu theo thông lệ quốc tế và theo chuẩn mực ở Việt Nam đều có đặc
điểm chung đó là các khoản nợ đã quá hạn trả nợ gốc/lãi trên 90 ngày và/hoặc các
khoản nợ mà TCTD có lý do chắc chắn để đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ
gốc và lãi khi đến hạn.
1.2.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu
- Tổng số nợ xấu: Đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ
khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó, nợ
không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu. Và
như vậy, nó chưa phản ánh một cách chính xác số nợ cho vay không có khả năng thu
hồi của ngân hàng
- Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ
rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cho biết cứ 100 đơn vị tiền tệ khi ngân hàng cho vay thì
có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi hoặc
không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng
rủi ro càng cao. Nếu như tỷ lệ này lớn hơn 7% thì ngân hàng bị coi là có chất lượng tín
dụng yếu kém, còn nếu nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng tín dụng tốt, các
khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính chỉ số này được đo
tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh hoàn toàn chính xác chất lượng tín
dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các chỉ số này phản ánh

chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những
chỉ tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ
này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này cho biết quỹ dự phòng rủi ro có
khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các khoản
nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các
thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh koanh của ngân hàng và ngược
lại.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 11/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Ngoài ra tùy theo tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng hoặc quốc gia trong từng
thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ xấu
nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.
1.2.4. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu:
1.2.4.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng
Nợ xấu làm giảm doanh thu của ngân hàng, làm giảm hình ảnh của ngân hàng đối với
khách hàng, tác động rất tiêu cực đối với hoạt động của cả hệ thống. Do vậy, dự báo
nợ xấu phát sinh từ các dấu hiệu định tính và định lượng là một công việc có ý nghĩa
quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Đó là:
- Sự đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hàng.
- Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra trong tương lai, ví dụ
như sáp nhập.
- Cho vay do khách hàng hứa duy trì một khoản tiền lớn trong ngân hàng.
- Không xác định rõ kế hoạch hoàn trả đối với từng khoản cho vay.
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ.
- Do cạnh tranh có thể cấp tín dụng cho khách hàng để họ khởi chạy sang ngân
hàng khác dù biết khoản vay có thể dẫn đến rủi ro.
- Cơ cấu tín dụng không hợp lý, cho vay tập trung vào một số lĩnh vực nóng
trong nền kinh tế như đầu tư vào bất động sản…

1.2.4.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng
Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách
hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng hóa, thu hồi công nợ chậm hơn dự
tính.
Việc thanh toán tiền không đúng kế hoạch. Người vay tiền liên tục trả nợ không
đúng hạn. Kì hạn của khoản vay liên tục bị thay đổi, khách hàng luôn yêu cầu được gia
hạn nợ.
Các số liệu và tài liệu cần thiết cung cấp cho ngân hàng không được kê khai
chính xác và nộp không theo kế hoạch. Các tài liệu quan trọng phải nộp cho ngân hàng
như: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
thuyết minh báo cáo tài chính… liên tục bị trì hoãn một cách bất thường. Số liệu kê
khai, hay số liệu về doanh thu và dòng tiền thực tế bị nghi ngờ là có sự chênh lệch khá
lớn so với mức dự kiến khi khách hàng xin vay.
Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản đảm bảo thấp hơn so với
khi định giá cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, hay bán, trao đổi
hoặc bị mất.
Những thay đổi bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 12/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Những thay đổi trong cơ cấu vốn của người vay (tỷ lệ nợ/ vốn chủ sở hữu), khả
năng thanh toán.
Hoạt động kinh doanh của khách hàng thua lỗ trong một hay nhiều năm liên
tục, đặc biệt thể hiện qua các chỉ số ROA, ROE hay thu nhập trước thuế và lãi vay
(EBIT).
Những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong số dư
tiền gửi của khách hàng.
1.2.5. Tác động của nợ xấu:
1.2.5.1. Đối với ngân hàng thương mại
Nợ xấu ảnh hưởng hầu hết tới các hoạt động của NHTM, thậm chí số dư nợ xấu

lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng.
Trước hết, nợ xấu làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Nợ xấu hạn chế khả
năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của NHTM. Khi nợ xấu
tăng cao, thu nhập của ngân hàng giảm, thậm chí không còn lợi nhuậ do không thu hồi
được nợ, lại phát sinh thêm chi phí trích lập dự phòng, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và
các chi phí khác liên quan.
Thứ hai, nợ xấu sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao,
vượt quá giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế thì uy tín của NHTM trong nước và
quốc tế giảm sút nghiêm trọng.
Thứ ba, nợ xấu làm ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán và kế hoạch kinh
doanh của ngân hàng. Hoạt động chủ yếu của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay. Nếu
các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn, không thu
hồi được hoặc thu hồi không đầy đủ nợ gốc và lãi đã cho vay. Trong khi đó, ngân hàng
vẫn phải thanh toán đầy đủ, đúng hạn đối với các khoản tiền gửi. Sự mất cân đối trên
ảnh hưởng rất lớn tới tính thanh khoản của ngân hàng và ảnh hưởng đến kế hoạch kinh
doanh của ngân hàng.
Thứ tư, nợ xấu làm cản trở quá trình hội nhập của các NHTM. Nợ xấu tác động
trực tiếp tới khả năng tài chính của NHTM khi phân tích đánh giá tình hình tài chính
hoạt động ngân hàng, là yếu tố bất lợi trong cạnh tranh, trong quá trình hội nhập và
phát triển.
1.2.5.2. Đối với nền kinh tế
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế. Vì thế nợ xấu của NHTM
ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế tác động
gián tiếp thông qua mối quan hệ hữu cơ: Ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế. Theo
đó, nợ xấu làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển của nền kinh tế. Khả năng khai thác và đáp ứng vốn, khả năng cung
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 13/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
ứng các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế sẽ bị hạn chế khi nợ xấu phát sinh. Mặt

khác, nợ xấu phát sinh do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu
quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển
nền kinh tế do vốn ứ đọng, sản xuất kinh doanh bị đình trệ.
1.3. Quản lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại
1.3.1. Sự cần thiết quản lý nợ xấu tại các NHTM
Quản lý nợ xấu không chỉ là việc xử lý như thế nào khi đã có nợ xấu phát sinh
mà nó bao gồm quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách quản lý
và kinh doanh tín dụng của ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả
và phát triển bền vững; trong đó tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn
chế phát sinh nợ xấu, đi kèm với việc xử lý các khoản Nợ xấu đã phát sinh nhằm phù
hợp đối với mục tiêu trong từng giai đoạn của mỗi ngân hàng
1.3.2. Nội dung quản lý nợ xấu của NHTM
1.3.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh:
Theo Quyết định (QĐ) 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc
NHNN về việc ban hành Quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí
rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD và Quyết định số 18/2007/QĐ-
NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Quyết định 493, nợ xấu chiếm tỷ lệ khoảng từ 2 - 5% là một tỷ lệ chấp nhận được.
Để có được một tỷ lệ nợ xấu thấp, NHTM cần tập trung vào các biện pháp ngăn chặn
nợ xấu xuất hiện dưới đây.
- Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng
Ngân hàng phải tiến hành hoạt động thẩm định đối với dự án vay, khách hàng
vay trước khi cho vay, trong cho vay và sau khi cho vay. Ngân hàng dùng các biện
pháp để kiểm tra tính khả thi và sinh lợi của dự án, kiểm tra khả năng tài chính của
khách hàng đi vay, theo dõi thường xuyên tình hình hoạt động của dự án sau khi giải
ngân để từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về khả năng thu hồi vốn, cả gốc và lãi
từ dự án. Khi đến kì hạn trả nợ, nếu nhận thấy khách hàng cố tình chây ỳ, lừa đảo,
không có thiện ý hoàn trả nợ… thì ngân hàng phải tiến hành thu nợ. Còn nếu khách
hàng có thiện ý trả nợ nhưng gặp khó khăn tạm thời thì ngân hàng có thể tiến hàng các
biện pháp hỗ trợ khách hàng như giảm lãi suất, gia hạn nợ, tiếp tục cho vay để khách

hàng thu lợi nhuận trả ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế
rủi ro phải phù hợp với khả năng huy động vốn và kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn
hệ thống.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 14/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Yêu cầu các tổ chức tín dụng phân tích, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong
từng quy trình nghiệp vụ để triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn rủi
ro, đồng thời rà soát, lựa chọn cán bộ có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức để
thực hiện các hoạt động nghiệp vụ; có cơ chế uỷ quyền, quy định trách nhiệm đối với
cán bộ phụ trách và tác nghiệp. Theo chức năng nhiệm vụ của mình, các đơn vị thuộc
Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo, kiểm soát, xây dựng hệ
thống cảnh báo rui ro để nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát thị trường ngoại hối,
phát hiện kịp thời những rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp xử lý thích hợp.
Hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo, kiểm soát, xây dựng hệ thống cảnh báo để
nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát thị trường; đẩy nhanh việc xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật
Đôn đốc các TCTD ban hành quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối thiểu đối
với hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu áp dụng trong hệ thống của mình. Đánh giá toàn
diện về mức độ rủi ro trong thanh toán và áp dụng công nghệ thông tin để đề xuất và
triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa rủi ro; Tiếp tục ban hành sửa đổi, hoàn
chỉnh chế độ kế toán cho phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế…
- Xây dựng chiến lược hoạt động hợp lý
Chiến lược hoạt động của ngân hàng một mặt phải đảm bảo khả năng sinh lời,
mang lại thu nhập cho ngân hàng, mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngân
hàng xây dựng và triển khai các sản phẩm, dịch vụ truyền thống và hiện đại phục vụ
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Trong
hệ thống các hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng, hoạt động mang
lại hơn 70% thu nhập cho ngân hàng, ngân hàng phải xác định mức độ rủi ro tối đa,

giới hạn tỷ lệ nợ xấu. Rủi ro luôn đi kèm với hoạt động của bất kì một ngân hàng nào,
chúng ta có thể làm hạn chế tổn thất của chúng, chứ không thể ngăn ngừa chúng xuất
hiện. Hoạt động ngân hàng nằm trong giới hạn rủi ro, đó là một thành công lớn của
ngân hàng.
Bất kể ngân hàng nào, phải xây dựng cho mình danh mục tài sản với các rủi ro
có thể chấp nhận được và danh mục nguồn vốn với chi phí hợp lý, phù hợp với khả
năng thanh khoản của ngân hàng và thực tế ngành kinh tế,vùng kinh tế và cả nền kinh
tế. Ngân hàng đưa ra những sản phẩm, dịch vụ thu hút khách hàng với các chính sách
về lãi suất, phí, khách hàng… hợp lý trên cơ sở nghiên cứu kỹ khách hàng và thị
trường.
Ngân hàng phải xác định và tận dụng lợi thế của mình trong việc xác định chiến
lược hoạt động ngắn hạn và cả trung dài hạn đồng thời hạn chế những mặt còn hạn chế
trong nội tại ngân hàng. Tập trung hoạt động vào những điểm mạnh, khai thác thị
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 15/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
trường dựa trên những ưu điểm của mình để không ngừng mở rộng mạng lưới phân
phối, chiếm lĩnh thị phần, nâng cao sức cạnh tranh với các đối thủ. Chỉ có thể thì chiến
lược mới phát huy hiệu quả, đem lại nguồn thu cho ngân hàng, hình ảnh ngân hàng
được nhiều cá nhân, tổ chức biết đến.
Ngân hàng cũng có thể triển khai các hoạt động bằng cách kết hợp với các ngân
hàng, các định chế tài chính khác để cùng nhau khai thác khách hàng, khai thác ngành
và vùng kinh tế, khai thác thị trường dựa trên những lợi thế sẵn có của mỗi bên.
Chiến lược hoạt động có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động ngân hàng.
Nó xuyên suốt trong toàn hệ thống, là cương lĩnh hoạt động của tất cả cán bộ, công
nhân viên, là kim chỉ nam dẫn đường cho từng bước đi của ngân hàng. Chính vì vậy,
chiến lược hoạt động phải xây dựng một cách hợp lý, khoa học và thực tế.
- Triển khai công cụ kiểm soát rủi ro mới.
Ngân hàng phải tiến hành phân loại khách hàng, chấm điểm tín dụng với từng
đối tượng khách hàng dựa trên các tiêu chí định tính cũng như định lượng. Đa phần

các ngân hàng đều có tiêu chí xếp loại và phân loại nợ theo nhóm khách hàng để phân
tích và đánh giá rủi ro tín dụng
Ngân hàng cũng có thể kiểm soát tín dụng bằng giới hạn tín dụng, giải ngân
kèm chứng từ hàng hóa… để hạn chế tổn thất trong cho vay. Triển khai các công cụ
kiểm soát mới đồng thời làm chi phí hoạt động của ngân hàng tăng lên, nhưng sẽ làm
giảm tổn thất mà các rủi ro mang lại. Các tổn thất này lớn hơn chi phí hoạt động của
các công cụ này thì sẽ mang lại lợi nhuận, hiệu quả cho chính ngân hàng.
1.3.2.2. Xử lý nợ xấu:
- Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và tái cơ cấu lại nợ
Đối với các khoản nợ xấu của khách hàng là doanh nghiệp, sau khi phân tích
thực trạng tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu đánh giá khách hàng có khả
năng phát triển để thanh toán nợ xấu cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ áp dụng biện
pháp cấu trúc lại hay tái cơ cấu doanh nghiệp.
Tái cơ cấu doanh nghiệp là quá trình thực hiện tái cơ cấu hoạt động sản xuất
kinh doanh, tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp có hiện trạng kinh doanh, tài chính kém
nhưng có khả năng phục hồi. Việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp được thực hiện
giữa các bên có liên quan: nhà đầu tư, nhà kinh doanh, ngân hàng cho vay nợ với mục
đích cao nhất là hồi sinh, tăng giá trị cho doanh nghiệp.
Nói chung, đề xuất xử lý nợ xấu theo giải pháp cấu trúc lại chỉ được áp dụng
cho các khoản nợ thuộc nhóm 3 và nhóm 4 và đối với các khách hàng được quyết định
tiếp tục duy trì quan hệ. Khi đã có quyết định tiếp tục duy trì quan hệ với đối tượng
khách hàng này, khoản nợ có thể được quản lý thông qua việc giám sát chặt chẽ, nhằm
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 16/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
đảm bảo rằng bên vay thực thi các hành động cần thiết để cải thiện tình hình của họ và
sửa chữa sai sót. Đặc biệt, trong trường hợp không trả được nợ lần đầu, ngân hàng cần
có hành động kiên quyết để thuyết phục khách hàng trong việc thực thi các biện pháp
cứng rắn để củng cố vị thế của khách hàng. Ngân hàng duy trì mối quan hệ chặt chẽ
với khách hàng để giám sát quá trình xử lý nợ. Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể áp

dụng các phương pháp:
Thứ nhất, điều chỉnh kỳ hạn nợ: Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ thông thường được
thực hiện thông qua việc hoãn hoặc/ và giảm khối lượng nợ gốc phải thanh toán của kỳ
hạn trả nợ, nhưng không được giảm tổng số dư nợ phải trả. Nếu được sử dụng một
cách cẩn thận, việc điều chỉnh kỳ hạn nọ là một hình thức được chấp nhận khi thực
hiện tái cơ cấu lại nợ.
Thứ hai, gia hạn nợ: Đây là phương án tránh áp lực trả nợ cho khách hàng để hỗ
trợ khách hàng tiếp tục kinh doanh. Ngân hàng cũng có thể xem xét cấp thêm tín dụng
giúp khách hàng vượt qua khó khăn đồng thời tạo khả năng thu hồi các khoản nợ
trước. Đây không phải là biện pháp tốt vì nó mang tính mạo hiểm cao.
Thứ ba, giảm, miễn một phần nợ lãi vay phải trả: Giải pháp này có thể được
xem xét áp dụng tùy thuộc vào thiện chí trả nợ vay của khách hàng và tuân thủ theo
các quy định hiện hành của Nhà nước và của từng ngân hàng. Việc giảm, miễn lãi đối
với khách hàng coi như sự hy sinh một phần doanh thu của ngân hàng để có thể tận thu
hồi được nguồn vốn đã cho vay.
- Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu – Biến nợ thành chứng khoán
Hiện nay, một kỹ thuật mới trong công tác xử lý nợ xấu đang được áp dụng
rộng rãi trên thế giới là chứng khoán hóa các khoản nợ. Một cách đơn giản, chứng
khoán hóa là quá trình tập hợp và tái cấu trúc các tài sản thiếu tính thanh khoản nhưng
lại có thu nhập bằng tiền cao trong tương lai như các khoản phải thu, các khoản nợ rồi
chuyển đổi chúng thành trái phiếu và đưa ra giao dịch trên thị trường tài chính. Chứng
khoán hóa các khoản nợ là chuyển đổi một tập hợp có chọn lọc các khoản vay có thế
chấp của ngân hàng mà trước đó không có thị trường thứ cấp để giao dịch thành các
chứng khoán khả mại, có thể bán trên thị trường thứ cấp. Ngân hàng có thể dùng kỹ
thuật này để xử lý các khoản nợ xấu của mình nhưng cần có sự phát triển mạnh mẽ của
thị trường chứng khoán cùng giao dịch mua bán nợ. Đối mặt với áp lực rủi ro tín dụng
và yêu cầu tăng vốn chủ sở hữu, công cụ quản lý rủi ro chứng khoán hóa các khoản
cho vay đã giúp ngân hàng hạn chế một cách có hiệu quả rủi ro tín dụng.
Công nghệ chứng khoán hóa hấp dẫn nhiều ngân hàng, bởi vì thông qua đó mà
ngân hàng có thể rút ngắn được thời gian xử lý nợ xấu, tăng khả năng thanh khoản của

SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 17/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
tài sản, cung cấp một phương tiện tài trợ mới, giảm được các chi phí có tính chất thuế
cũng như tăng thu nhập từ thuế.
Trước hết, nó giúp bổ sung, làm đa dạng hóa hàng hóa giao dịch trên sàn, giúp
mở rộng quy mô thị trường. Chứng khoán hóa mở ra thêm một kênh huy động vốn cho
các doanh nghiệp, mở cơ hội tiếp cận thị trường vốn và làm giảm chi phí tài trợ lẫn tối
ưu hóa việc sử dụng vốn. Chứng khoán hóa tạo ra một nguồn tài trợ vốn dài hạn và có
hiệu quả thông qua việc có thể được phát hành với kỳ hạn dài hơn các loại tài sản liên
kết so với các khoản nợ của ngân hàng hoặc các loại tín phiếu. Ngoài ra, chứng khoán
hóa còn là phương thức giúp làm tăng thu nhập của các tổ chức phát hành và là công
cụ đa dạng hóa rủi ro tốt nhất
Bên cạnh những tích cực mà chứng khoán hóa mang lại, còn có những rủi ro đi
kèm, đó là: Công bố thông tin không bảo vệ được, những hạn chế của định mức tín
nhiệm, các tài sản không giống như mong đợi, dữ liệu giao dịch không sẵn có, nhược
điểm của chế độ báo cáo sản phẩm phái sinh và sản phẩm thu nhập cố định, tính thanh
khoản yếu của công cụ nợ
- Xử lý tài sản đảm bảo, đòi nợ bên bảo lãnh
Đối với những khoản nợ xấu không thể cơ cấu lại nợ, khách hàng không có khả
năng phát triển, chây ỳ trong việc trả nợ… NHTM chủ động xử lý các tài sản đảm bảo
nợ vay kể cả là bất động sản bao gồm đất đai, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định
đoạt của ngân hàng theo các hình thức sau:
+ Bên bảo đảm trực tiếp bán tài sản cho người mua.
+ NHTM trực tiếp bán tài sản cho người mua.
+ Bán thông qua tổ chức đấu giá.
NHTM nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được
bảo đảm. Trong trường hợp này, việc quyết định nhận tài sản để sử dụng thay thế thực
hiện nghĩa vụ phải thực hiện theo thủ tục mua tài sản của NHTM.
NHTM nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ: người thứ ba trong trường hợp

thế chấp quyền đòi nợ, Công ty bảo hiểm trong trường hợp thế chấp quyền thụ hưởng
tiền bảo hiểm nhân thọ, hoặc từ bên thứ ba có nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo đảm.
Trong trường hợp này, vẫn phải thoả thuận và có cam kết bằng văn bản của bên bảo
đảm về quyền truy đòi lại bên bảo đảm nếu không thu hoặc thu không đủ từ bên thứ
ba vì bất kỳ lý do nào.
Mặc dù biện pháp này là không mong muốn do việc phát mại tài sản đảm bảo
hoặc đòi nợ bên bảo lãnh thường rất phức tạp với nhiều thủ tục, tốn nhiều thời gian,
khả năng thu hồi đầy đủ nợ thường không cao, song ngân hàng vẫn buộc phải thực
hiện để thu hồi vốn. Cho đến nay, đây là một trong số các biện pháp thu hồi vốn có
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 18/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
hiệu quả nhất cho các ngân hàng, đặc biệt các khoản nợ do cơ sở pháp lý chưa đầy đủ,
khách hàng lừa đảo ngân hàng…
- Bán các khoản nợ
Biện pháp này được ngân hàng sử dụng đối với khoản nợ không có tài sản đảm
bảo hoặc không muốn mất thời gian đòi nợ. Ngân hàng sẽ chuyển quyền đòi nợ cho
một tổ chức tín dụng hoặc tổ chức, cá nhân khác có chức năng theo quy định để sớm
thu hồi vốn của mình. Khi bán các khoản nợ xấu, ngân hàng thường chấp nhận bán với
giá thấp hơn giá trị khoản nợ để thu hồi vốn nhanh và tránh ảnh hưởng tới những
khoản nợ còn lại. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, bên cạnh việc nhanh chóng
đưa ra các khoản nợ xấu ra khỏi bảng tổng kết tài sản, các ngân hàng thường thành lập
một tổ chức có tính chuyên môn cao gọi là Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
(AMC). Công ty này sẽ tiếp nhận các khoản nợ và thực hiện mua bán tiếp theo.
AMC ra đời trước tiên nhằm phục vụ nhu cầu quản lý nợ và khai thác tài sản
của ngân hàng, làm lành mạnh và minh bạch hóa tình hình tài chính, đảm bảo kinh
doanh an toàn và bền vững của ngân hàng. Công ty có đầy đủ chức năng của một công
ty xử lý nợ, bao gồm: tiếp nhận, quản lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản bảo đảm nợ
vay liên quan đến các khoản nợ để xử lý, thu hồi vốn nhanh nhất; Hoàn thiện hồ sơ có
liên quan đến các khoản nợ theo quy định của pháp luật trình các cơ quan có thẩm

quyền cho phép Ngân hàng xóa nợ cho khách hàng; Chủ động bán các tài sản bảo đảm
nợ vay thuộc quyền định đoạt của ngân hàng thương mại theo giá thị trường; Cơ cấu
lại nợ tồn đọng; Xử lý các tài sản bảo đảm nợ vay; Mua bán, xử lý nợ tồn đọng của các
đơn vị khác theo quy định của pháp luật,… Bên cạnh đáp ứng nhu cầu về xử lý nợ xấu
của chính ngân hàng, AMC sẽ sử dụng các kỹ năng chuyên sâu của mình để phục vụ
nhu cầu xử lý nợ và tài sản tồn đọng của các doanh nghiệp khác, giúp nguồn vốn trong
nền kinh tế lưu chuyển thông thoáng hơn, thay đổi diện mạo mới về cách thức giải
quyết nợ thuộc toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam và đóng góp vào sự phát triển của
nền kinh tế.
- Bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro
Quỹ dự phòng rủi ro được trích lập từ nguồn lợi nhuận của các NHTM nhằm để
bù đắp những tổn thất trong hoạt động kinh doanh. NHTM phải phân loại các khoản
nợ xấu xem loại nào thì được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro. Dự phòng rủi ro được
tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của TCTD.
Những trường hợp được xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro là khi khách hàng vay
vốn, bên được bảo lãnh vay vốn, bên được hưởng dịch vụ thanh toán là những tổ chức
bị phá sản, giải thể hoặc cá nhân bị chết, mất tích hoặc không thực hiện được các nghĩa
vụ nợ thuộc nhóm 5 – nợ có khả năng mất vốn.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 19/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Do tính chủ động cao nên biện pháp này được các ngân hàng vận dụng tối đa
nhằm xử lý nợ xấu nhanh chóng. Thực chất của biện pháp này là ngân hàng sử dụng
nội lực của mình để khắc phục gánh nặng nợ xấu nên ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Việc sử dụng quá nhiều biện pháp này làm giảm thu nhập của
ngân hàng trong khi vốn cho vay vẫn không thu hồi được. Vì vậy, ngân hàng nên chú
trọng vào các biện pháp thu hồi nợ có tính triệt để hơn.
- Sự trợ giúp của Chính phủ
Đối với những khoản nợ xấu phát sinh do các khoản vay theo chính sách của
Chính phủ, các ngân hàng phải trông chờ vào nguồn bù đắp từ ngân sách nhà nước.

Thực chất các khoản vay theo chính sách có thể coi như khoản vay có bảo lãnh của
bên thứ 3 là Chính phủ. Do vậy, khi ngân hàng không thể thu hồi được nợ từ khách
hàng thuộc đối tượng này thì Chính phủ phải đứng ra giải quyết cho ngân hàng. Chính
phủ có thể sử dụng ngân sách mua toàn bộ nợ xấu của NHTM để xử lý dần trong một
số năm nhằm giải thoát cho các NHTM không bị sa lầy vào khủng hoảng nợ xấu, giúp
ngân hàng tập trung vào hoạt động kinh doanh. Biện pháp này có hạn chế là thủ tục,
trình tự xử lý phức tạp, kéo dài, có sự tham gia của nhiều cơ quan chức năng, không
thể áp dụng thường xuyên vì ngân sách có hạn, việc xử lý một khối lượng lớn nợ xấu
rất tốn kém làm giảm ngân sách đầu tư cho các lĩnh vực khác, gây ảnh hưởng toàn bộ
nền kinh tế.
1.3.3. Quản lý nợ xấu theo chức năng của nhà quản trị
Như chúng ta được biết thì nợ xấu là một phần trong rủi ro tài chính của ngân
hàng, theo lý thuyết về rủi ro và quản trị rủi ro thì:
“Rủi ro trong kinh doanh là các sự cố xảy ra ngẫu nhiên không mong muốn và
có hạicho công việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Cần phân biệt ba trường hợp:
xác định (khi xác suất xảy ra sự kiện bằng 1), rủi ro (khi xác suất xảy ra sự kiện bé
hơn 1) và bất định (khi không xác định được xác suất xuất hiện sự cố).Quản trị rủi ro
là mức độ mà trong đó người ra quyết định có thể xác định được vấn đề cần giải
quyết, đánh giá được tỷ lệ xác suất mà sự việc có thể xảy ra, nhận diện các giải
phápkhác nhau và tỷ lệ xác suất về kết quả của mỗi giải pháp”
Như vậy để có thể quản lý nợ xấu một cách hợp lý đạt tính hiệu quả cũng như
mang tính khoa học thì các nhà quản trị thường áp dụng các chức năng căn bản của
quản trị bao gồm hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra vào quản trị rủi ro cũng
như như quản lý nợ xấu tại ngân hàng.
1.3.3.1 Tiến trình hoạch định quản lý nợ xấu tại ngân hàng
Trong quá trình quản lý nợ xấu tại ngân hàng thì bước đầu tiên mà nhà quản trị
cần phải làm đó chính là thực hiện tiến trình hoạch đinh nợ xấu tại ngân hàng.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 20/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng

Từ các chỉ tiêu được đặt ra về chỉ tiêu nợ xấu tại ngân hàng là bao nhiêu thì các
nhà quản trị sẽ vạch ra các hành động cần thiết nhằm đặt được các mục tiêu đề ra.
Thông thường tiến trình hoạch định của nhà quản trị bao gồm 8 bước như sau:
 B1: Phát triển sứ mệnh và các mục tiêu
 B2: Chẩn đoán các cơ hội và đe dọa
 B3: Chẩn đoán các điểm mạnh và điểm yếu
 B4: Phát triển các chiến lược
 B5: Chuẩn bị kế hoạch chiến lược
 B6: Chuẩn bị các kế hoạch chiến thuật
 B7: Kiểm tra và chẩn đoán kết quả
 B8: Tiếp tục việc hoạch định
Đây là 8 bước căn bản trong quá trình hoạch định của nhà quản trị. Đối với vấn
đề quản lý nợ xấu của ngân hàng thì tiến trình hoạch định giúp nhà quản trị có thể
nhận dạng được và đo lường được nguy cơ xảy ra nợ xấu đối với ngân hàng mình
thông qua các mục tiêu được đặt ra.
1.3.3.2. Tổ chức quản lý nợ xấu tại ngân hàng
Sau khi lên kế hoạch về vấn đề quản lý nợ xấu tại ngân hàng thì những nhà
quản rị cần phải làm cho những ý tưởng tương đối vắn tắt này trở nên thực tế. Hiểu
biết về tổ chức là yêu cầu vô cùng thiết yếu để thực hiện được điều đó.
Để có thể tiến hành quản lý một vấn đề nào đó nhằm đạt mục tiêu của tổ chức
đưa ra thì nhà quản trị thường cơ cấu theo 4 nhân tố cơ bản đó là chuyên môn hóa, tiêu
chuản hóa, hợp tác và quyền hành.
- Chuyên môn hóa: là tiến trình xác định những nhiệm vụ cụ thể và phân chia
chúng cho các cá nhân hoặc đội đã được đào tạo để thực hiện nhiệm vụ đó.
- Tiêu chuẩn hóa: Liên quan đến các thủ tục ổn định và đồng nhất mà nhân viên
phải làm trong quá trình thực hiện công việc của họ
- Hợp tác – Phối hợp: Bao gồm những thủ tục chính thức và không chính thức
hợp nhất những hoạt động của cá nhân, các đội và các bộ phận khác nhau trong tổ
chức
- Quyền hành: Về cơ bản là quyền ra quyết định và hành động. Những tổ chức

khác nhau sẽ phân bổ quyền hành khác nhau.
Việc thực hiện hiệu quả chức năng của tổ chức giúp các nhà quản trị phối hợp
tốt hơn các nguồn lực của tổ chức. Sự thành công của tổ chức, việc có đạt được các
mục tiêu mà tiến trình hoạch định đã đưa ra hay không phụ thuộc rất nhiều vào khả
năng sự dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 21/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Đối với công tác quản lý nợ xấu thì việc thực hiện 4 tiêu chuẩn trên là điều rất
cần thiết vì nó sẽ giúp nhà quản trị có thể xác định trách nhiệm của nhân viên, bộ phận
thực hiện công tác quản lý nợ xấu tại ngân hàng.
1.3.3.3. Công tác lãnh đạo trong vấn đề quản lý nợ xấu
Sau khi hoàn thiện việc lập kế hoạch, thiết kế cơ cấu tổ chức, sắp xếp đội ngũ
nhân viên, các nhà quản trị cần thực hiện chức năng lãnh đạo đôi với tổ chức. Bao gồm
các hoạt động nhằm thúc đẩy mọi người thực hiện những công việc cần thiết để hoàn
thành mục tiêu của tổ chức. Chức năng lãnh đạo không phải được thực hiện sau khi
các chức năng hoạch định và tổ chức hoàn tất mà nó còn là một yếu tố then chốt và
được thực hiện xuyên suốt đối với các chức năng này.
Yếu tố then chốt của công tác lãnh đạo trong quản lý nợ xấu đó chính là truyền
đạt những yêu cầu xuống cho cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, cũng như tiếp nhận
một cách nghiêm túc các ý kiến, đề xuất của cấp dưới, nhân viên trong quá trình thực
hiện quả lý nợ xấu tại ngân hàng
1.3.3.4. Công tác kiểm tra quản lý nợ xấu
Sau khi thực hiện các công tác hoạch định, tổ chức, lãnh đạo thì công tác kiểm
tra sẽ tiến hành giám sát kết quả thực hiện một cách liên tục và thực hiện các hoạt
động điều chỉnh những sai lệch đối với những hoạt động được thực hiện không đạt
được mục tiêu đã đề ra lúc đầu, hoặc được thực thực hiện không theo kế hoạch
Trong tiến trình kiểm tra thì các nhà quản trị thường tiến hành:
- Thiết lập các tiêu chuẩn thực hiện
- Đo lường kết quả thực hiện so với tiêu chuẩn

- Thực hiện hoạt động để điều chỉnh sự sai lệch
- Điều chỉnh cá tiêu chuẩn không phù hợp nếu cần
Trong công tác quản lý nợ xấu tại ngân hàng thì công tác kiểm tra có tác dụng
kiểm tra xem các công việc có được thực hiện đúng theo các kế hoạch đã đề ra hay
không. Cũng như xem xét các kết quả thực hiện có đạt được như dự kiến hay không?
Từ đó, nhà quản trị sẽ tiến hành xem xét điều chỉnh những hành động khiến kết quả
không đạt được như mong muốn từ đó đưa ra những sự thay đổi thích hợp hơn.
1.3.4 Vai trò của công tác quản lý nợ xấu
Công tác xử lý nợ xấu tồn động là nhiệm vụ cấp bách quan trọng hàng đầu
trong chương trình cải cách hoạt động của ngân hàng. Nó giữ vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển và uy tín của ngân hàng bởi các lý do sau:
- Xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM là một trong những vấn đề quan trọng mà
bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm tới, kể cả các nước có nên kinh tế mới phát triển
hay nước có nền kinh tế đã phát triển. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, quá trình hội
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 22/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
nhập vào thị trường tài chính quốc tế và tự do hóa tài chính làm cho môi trường cạnh
tranh khốc liệt và rủi ro hơn. Các NHTM phải tự nâng cao năng lực tài chính của mình
để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng cũng ngành. Do đó, hầu hết các Ngân
hàng đều chú trọng đến công tác quản lý và xử lý các khoản nợ xấu phát sinh bởi
chúng ảnh hưởng bất lợi đến tính thanh khoản của Ngân hàng và gia tăng thiệt hại.
- Nợ tồn đọng lớn sẽ dẫn đến vốn của Ngân hàng bị đóng băng không thu hồi
được để tiếp tục quay vòng kinh doanh, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng.
- Thêm vào đó, một khi nợ tồn đọng lớn sẽ gây nguy cơ đổ vỡ hệ thống Ngân
hàng, từ đó có thể kéo theo khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra. Khi đó, chúng làm
giảm số dự trữ và vốn, làm tổn thất sức mạnh tài chính của Ngân hàng. Hơn nữa, các
khoản nợ tồn đọng sẽ tạo ra gánh nặng chi phí cho các NH và làm NH suy giảm khả
huy động vốn, khả năng cho vay đối với nền kinh tế. Vì thế lòng tin của khách hàng

cũng như uy tín đối với các đối tác trong và ngoài nước ở trong hệ thống Ngân hàng
cũng bị suy giảm theo.
1.3.5. Nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý nợ xấu
1.3.5.1. Nhân tố chủ quan
1.3.5.1.1. Nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng
- Cơ chế quản lý tín dụng
Đó là tập hợp những biện pháp, cách thức mà ngân hàng tiến hành nhằm mục
đích thẩm định, theo dõi, kiểm tra, giám sát với từng khoản tín dụng được cấp, với
hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nếu công tác quản lý được đánh giá đúng vai trò
quan trọng của nó, được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đắn thì sẽ mang lại hiệu
quả cho ngân hàng. Ngược lại, công tác quản lý không được phổ biến đúng mực tới
các bộ phận, phòng ban của ngân hàng, không tạo được sự thống nhất trong toàn hệ
thống sẽ làm giảm thu nhập cho ngân hàng, nợ xấu vì thế mà tăng lên.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn đi kèm với rủi ro có thể xảy ra. Nếu các
ngân hàng đặt mục tiêu lợi nhuận lên quá cao, gia tăng dư nợ tín dụng trong khi chưa
hoàn thiện được các chính sách tín dụng hoặc chính sách tín dụng không phù hợp,
thiếu sự kiểm soát chặt chẽ thì sẽ làm nợ xấu gia tăng. Cơ chế quản lý tín dụng của
ngân hàng có thể được hiểu qua một số biểu hiện sau đây:
Thứ nhất là quy trình nghiệp vụ ngân hàng. Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp
mô tả công việc của ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho
đến khi quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Việc xác lập một quy trình tín dụng và không ngừng hoàn thiện nó đặc biệt
quan trọng đối với một ngân hàng thương mại. Về mặt hiệu quả, một quy trình tín
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 23/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro
tín dụng.
Quy trình tín dụng bao gồm các bước sau: Lập hồ sơ vay vốn, phân tích tín
dụng, ra quyết định tín dụng, giải ngân, giám sát tín dụng và thanh lý hợp đồng tín

dụng. Một quy trình tín dụng chặt chẽ, đảo bảo tính chính xác và đầy đủ là một nhân tố
làm giảm đáng kể nợ xấu trong tổng dư nợ. Ngược lại, một quy trình tín dụng lỏng lẻo,
không khoa học sẽ làm gia tăng nợ xấu.
Thứ hai là cơ cấu cho vay. Đó là tỷ trọng cho vay trong từng ngành, từng lĩnh
vực, từng loại doanh nghiệp và cả theo thời gian. Tỷ trọng các khoản cho vay giữa
ngắn hạn và trung, dài hạn; giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn; giữa
tổ chức và cá nhân; giữa ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; giữa ngành hoạt
động mang tính chất thời vụ và lâu dài… nếu hợp lý, phù hợp với thực tế nền kinh tế,
với chủ trương của Chính phủ, của NHNN thì sẽ mang lại hiệu quả kinh tế và cả hiệu
quả xã hội cho đất nước. Ngược lại, cơ cấu cho vay bất hợp lý sẽ làm giảm hiệu quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng, của ngành kinh tế, của vùng kinh tế và của cả
nền kinh tế, không đáp ứng được nhu cầu phát triển năng động của đất nước.
Thứ ba là đạo đức và trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề
hạn chế rủi ro tín dụng. Đội ngũ cán bộ tín dụng vừa có đạo đức, phẩm chất vừa có
trình độ chuyên môn trong đánh giá, thẩm định các khoản vay thì khả năng xảy ra nợ
xấu là rất thấp. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ
tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được
bố trí trong công tác tín dụng.
Thứ tư là công tác kiểm tra nội bộ ngân hàng. Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh ở
tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát
của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công
việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các
ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức, làm gia tăng thêm rủi ro cho ngân hàng.
Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe
càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh
cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con
đường đi tới.
- Công nghệ ngân hàng
Hệ thống công nghệ rất quan trọng trong công tác điều hành phát triển ngân

hàng và đem lại lợi ích cho khách hàng, ngân hàng.
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 24/60
Lớp: K208QT
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Đoàn Gia Dũng
Với khách hàng, công nghệ sẽ đem đến cho khách hàng sự hài lòng nhờ vào
những dịch vụ ngân hàng có chất lượng tốt, thời gian giao dịch được rút ngắn, an toàn,
bảo mật. Cho dù khách hàng đến bất cứ địa điểm giao dịch nào của ngân hàng đều cảm
nhận được chất lượng và “tính trong suốt” của dịch vụ.
Với ngân hàng, công nghệ hiện đại sẽ tạo ra đột phá trong khai thác sản phẩm,
dịch vụ cả về số lượng và chất lượng, gián tiếp khẳng định được đẳng cấp tên tuổi hình
ảnh của ngân hàng. Dưới góc độ quản lý, nhờ có công nghệ mà việc quản lý nội bộ
trong ngân hàng sẽ chặt chẽ hiệu quả hơn, quản trị rủi ro tốt hơn, làm giảm nợ xấu.
Nhưng nếu công nghệ ngân hàng mà lạc hậu, không theo kịp ngân hàng trong nước và
quốc tế thì sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, cũng là nguyên
nhân làm phát sinh nợ xấu.
- Cơ cấu tổ chức
Nếu ngân hàng được cơ cấu và phân định các phòng ban theo đối tượng khách
hàng, kết hợp theo sản phẩm, dịch vụ: phân cấp quản lý theo mô hình nâng cao hiệu
quả quản lý và tăng cường kỹ năng quản trị rủi ro, tăng cường chất lượng và hiệu quả
hoạt động kinh doanh, mở rộng mạng lưới và phát triển sản phẩm mới trên nền tảng
công nghệ; Các phòng ban tại Trụ sở chính cũng như tại chi nhánh được củng cố và
chuyển đổi theo hướng sản phẩm và đối tượng khách hàng; Chức năng chuyên sâu
theo nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp và gián tiếp, hỗ trợ và quản lý tăng cường các bộ
phận quản lý rủi ro theo mô hình ngân hàng hiện đại và nếu cơ cấu tổ chức ngân hàng
từ trung ương đến các chi nhánh, phòng ban chặt chẽ, thống nhất thì sẽ mang lại hiệu
quả rất lớn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Sự thống nhất, chặt chẽ giữa các
cấp sẽ làm giảm nợ xấu trong quy trình tín dụng, giảm thiệt hại cho ngân hàng.
Ngược lại, tổ chức lỏng lẻo sẽ tạo điều kiện cho nhân viên tín dụng cùng cấp
trên hợp thức hóa hồ sơ, làm giả mạo giấy tờ tín dụng, làm phát sinh nợ xấu.
1.3.5.1.2. Nhân tố chủ quan từ phía khách hàng vay

Khi doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để triển khai, mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, với một dự án đầy khả thi và với tư duy quản lý, kinh doanh tiên tiến thì
sẽ mang lại hiệu quả cho dự án, đảm bảo trả đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Còn với
tư duy kinh doanh hạn chế thì dù với một dự án đầy triển vọng thì cũng sẽ thất bại làm
gia tăng nợ xấu cho ngân hàng.
Việc thu hồi được nợ vay còn phụ thuộc lớn vào thiện chí trả nợ của khách
hàng. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa
đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh
SVTH: Phạm Văn Tuấn Trang 25/60
Lớp: K208QT

×